Giáo dục nghệ thuật và đơn vị nghệ thuật biểu diễn

NGHIÊN CỨU  
VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT  
V
ĂN H Ó  
A
Bảng 1  
Loi hình  
GDNT  
Mc tiêu  
Nội dung  
Phương pháp  
dụ  
GIÁO DỤC NGHỆ THUẬT  
ĐƠN VỊ NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN  
To nên shiu  
biết, khả năng  
thưởng thc và  
sáng to mt  
loi hình nghệ  
thut cthể  
Các tri thc và kỹ  
năng về loi hình  
nghthut  
Giáo dc  
thc hành  
Các phương pháp  
giáo dục được hình  
thc hóa và tiêu  
chun hóa  
Giáo dc  
thnghim  
Các phương pháp  
giáo dục đa dạng,  
linh hot  
Dy v, dy  
hát, dy múa  
Giáo dc  
vnghệ  
thut  
PHẠM BÍCH HUYỀN  
Tóm tắt  
Đạt các mc tiêu  
giáo dc: phát trin  
suy nghĩ sáng tạo,  
kỹ năng giải quyết  
vấn đề, thúc đẩy  
hiu biết vbn  
thân, điều chnh  
hiu biết xã hi,  
nuôi dưỡng ý thc  
cộng đồng…  
Sdng nghệ  
thuật như một  
công chay  
phương pháp  
để thc hin các  
ni dung  
Sdng nghệ  
thut sân khu  
để htrhc  
lch sử, văn  
hc hay giáo  
dc lòng yêu  
nước, thào  
dân tc  
Giáo dục nghệ thuật là hoạt động chuyển giao di sản văn hóa nghệ thuật giữa các thế hệ và là một  
hoạt động mang tính liên ngành. Do đó, cơ sở lý luận của giáo dục nghệ thuật được xây dựng dựa trên  
các học thuyết về văn hóa học, nghệ thuật học, giáo dục học và tâm lý học. Các đơn vị nghệ thuật biểu  
diễn cần tham gia tích cực vào sự nghiệp giáo dục nghệ thuật cho công chúng với nhiều nội dung và  
hình thức đa dạng. Giáo dục nghệ thuật là một trong những nhiệm vụ cơ bản, góp phần trợ giúp đơn  
vị nghệ thuật biểu diễn thực hiện tốt chức năng của mình. Tiến hành hoạt động giáo dục nghệ thuật  
có thể tạo thêm giá trị gia tăng cho chương trình biểu diễn nghệ thuật, xây dựng đội ngũ khán giả tiềm  
năng, kết nối cộng đồng và thu hút các nguồn tài trợ cho đơn vị.  
Giáo dc  
thông qua  
nghthut  
giáo dc khác  
Từ khóa: Giáo dục nghệ thuật, đơn vị nghệ thuật biểu diễn  
Abstract  
* Chức năng của văn hóa nghệ thuật  
Chức năng giáo dục: Văn hóa nghệ thuật  
tác động một cách hệ thống đến sự phát triển  
tinh thần và thể chất của con người, làm cho  
con người dần có những phẩm chất và năng  
lực mong muốn. Văn hóa thực hiện chức năng  
giáo dục bằng những giá trị truyền thống và  
giá trị mới. Các giá trị này tạo thành một hệ  
thống chuẩn mực để điều chỉnh hành vi và  
cách ứng xử của con người. Nhờ đó, văn hóa  
nghệ thuật đóng vai trò quyết định trong việc  
hình thành và phát triển nhân cách. Điều đặc  
biệt là văn hóa nghệ thuật không giáo dục  
bằng những triết lý khô khan hay công thức  
cứng nhắc, mang tính áp đặt mà cảm hóa con  
người bằng những hình tượng nghệ thuật cụ  
thể, sinh động, hấp dẫn và tương tự với tồn  
tại của đời sống. Văn hóa nghệ thuật tác động  
trực tiếp vào tâm lý, tình cảm và trí tuệ của mỗi  
người; do đó, có thể đạt hiệu quả giáo dục rất  
cao. Với chức năng giáo dục, văn hóa nghệ  
thuật tạo nên sự phát triển liên tục của lịch sử  
mỗi dân tộc cũng như lịch sử nhân loại, góp  
phần vào quá trình di truyền “gen” xã hội cho  
các thế hệ (3, tr.8-10).  
Arts education is the transfer of artistic cultural heritage among generations and an interdisciplinary  
activity. Therefore, the theoretical basis of art education is based on theories of culture studies, arts  
studies and education and psychology. Performing arts units need to participate actively in the  
arts education to the public with more varied contents and forms. Arts education is one of the basic  
tasks, contributing to supporting the performing arts units perform their functions. Conducting arts  
education can create more added value for the artistic performing programs, build potential audience,  
connect communities and attract funding for units.  
Chức năng của văn hóa nghệ thuật là  
những thuộc tính vốn có của văn hóa nói  
chung và các loại hình nghệ thuật nói riêng.  
Có nhiều quan điểm khác nhau về chức năng  
của văn hóa nghệ thuật; tuy nhiên, 3 chức  
năng cơ bản thường được nhấn mạnh là chức  
năng nhận thức, chức năng giáo dục và chức  
năng thẩm mỹ. Các chức năng này đều là tiền  
đề cho giáo dục nghệ thuật.  
Keyword: Arts education, performing arts units  
Chức năng nhận thức: Nghệ thuật là kết quả  
của quá trình nhận thức về thế giới tự nhiên,  
xã hội và con người, trong đó con người luôn  
ở vị trí trung tâm. Những nhận thức này được  
ghi lại và lưu truyền thông qua các biểu tượng  
văn hóa, hình tượng nghệ thuật và các hình  
thái biểu đạt khác. Do đó, toàn bộ nền văn  
hóa nghệ thuật của dân tộc, của nhân loại có  
thể được ví như ký ức hay bộ nhớ của xã hội.  
Đến lượt nó, nghệ thuật giúp con người có thể  
nhận thức về thế giới hiện thực và về chính bản  
thân mình. Thông qua nghệ thuật, con người  
có thể tiếp cận kho tàng tri thức của nhân loại  
để làm giàu vốn hiểu biết của cá nhân. Từ đó,  
nền tảng văn hóa nghệ thuật lại trở thành tiềm  
năng, tiềm lực phát triển của mỗi con người và  
dân tộc. Chính vì vậy, có thể nói nghệ thuật là  
một hệ thống thông tin đặc biệt vàcon đường  
nhận thức nghệ thuật là con đường tiếp cận  
chân (2, tr.342).  
1. Giáo dục nghệ thuật  
việc học toán của học sinh hay thông qua di  
sản văn hóa để giáo dục lòng yêu nước và tự  
hào dân tộc.  
1.1. Khái niệm  
iáo dục nghệ thuật (Arts Education)  
gồm các hoạt động giáo dục về  
nghệ thuật và giáo dục thông qua  
Như vậy, bản chất của hoạt động giáo dục  
nghệ thuật là việc chuyển giao các di sản văn  
hóa nghệ thuật từ thế hệ này sang thế hệ  
khác. Mục đích của giáo dục nghệ thuật là tác  
động đến đối tượng giáo dục nhằm phát triển  
năng lực nghệ thuật cũng như nhận thức và  
tình cảm, góp phần hoàn thiện nhân cách con  
người. Sau đây là bảng tổng kết về hai loại hình  
giáo dục nghệ thuật (Bảng 1).  
G
nghệ thuật. Giáo dục về nghệ thuật là hoạt  
động giáo dục nhằm tạo nên sự hiểu biết, khả  
năng thưởng thức, thực hành và sáng tạo một  
loại hình nghệ thuật cụ thể. Ở đây, nội dung  
của hoạt động giáo dục là những tri thức và  
kỹ năng về nghệ thuật, ví dụ: hoạt động dạy  
vẽ, dạy múa, dạy đàn cho trẻ em. Trong khi đó,  
giáo dục thông qua nghệ thuật thì sử dụng  
nghệ thuật như những công cụ hay phương  
pháp để đạt được các mục tiêu giáo dục như  
hỗ trợ học tập trong nhà trường, phát triển  
năng lực cá nhân, thay đổi nhận thức và hành  
vi của cộng đồng, phát triển cộng đồng... Ví  
dụ: sử dụng nghệ thuật sân khấu để giáo dục  
về lịch sử và văn học, sử dụng mỹ thuật hỗ trợ  
Cơ sở lý luận của giáo dục nghệ thuật  
Hoạt động giáo dục nghệ thuật được xây  
dựng trên những nền tảng lý luận nhất định;  
trong đó, quan trọng nhất là lý thuyết về chức  
năng của văn hóa nghệ thuật và lý thuyết giáo  
dục học về các hình thức học tập đa dạng của  
con người.  
Chức năng thẩm mỹ: Hoạt động văn hóa  
nghệ thuật là hoạt động sáng tạo theo qui luật  
tình cảm và lấy cái đẹp làm trung tâm. C.Mác  
đã từng nói:Con người nhào nặn vật chất theo  
các qui luật của cái đẹp. Nhà văn Nga M.Gorki  
NGHIÊN CỨU  
92 Số 3 - Tháng 3 - 2013  
Số 3 - Tháng 3 - 2013  
93  
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT  
V
ĂN H Ó  
A
thông minh về ngôn ngữ, âm nhạc, logic - toán  
học, không gian, cơ thể, xã hội và trí thông  
minh về sự tự ý thức (9, tr.34-37). Học thuyết  
này khẳng định mỗi người có thể phát triển  
những dạng trí thông minh khác nhau, do đó  
sở hữu các tài năng khác nhau.  
dụng ngôn ngữ (nghe, nói), học tập thông qua  
các phương tiện trực quan (nhìn, xem) và học  
tập thông qua thực hành (trực tiếp thực hiện  
hoạt động). Chẳng hạn, học tập thông qua  
ngôn ngữ có các hình thức cụ thể như nghe  
giảng, đọc và nghiên cứu tư liệu, hỏi - đáp và  
trao đổi, thảo luận. Học tập bằng phương tiện  
trực quan như quan sát người dạy làm mẫu,  
minh họa bằng giáo cụ trực quan hay trình  
diễn thí nghiệm. Bên cạnh đó, người học có thể  
tham quan, khảo sát thực tế để quan sát các  
vấn đề cần nghiên cứu. Học tập qua thực hành  
hay thực nghiệm là người học có thể tự làm thí  
nghiệm, trải nghiệm các tình huống cụ thể hay  
tập luyện, rèn luyện bằng cách lặp đi lặp lại các  
kỹ năng. Ngoài ra, còn có các loại hình học tập  
bổ trợ như tham gia trò chơi, liên hoan, cuộc  
thi, đố vui (6, tr.180-202). Nhiều nhà nghiên  
cứu cũng đề cập đến hình thức “học tập khám  
phánhằm đưa đến sự ngạc nhiên, thích thú từ  
các khám phá, phát hiện của chính người học.  
193). Chính vì vậy, cần kết hợp nhiều hình thức  
học tập đa dạng, tác động vào tất cả giác quan  
của người học, kích thích cả hoạt động trí não  
và thể chất.  
cũng nhận định: “Con người bẩm sinh là nghệ  
sĩ, dù ở đâu, bất cứ lúc nào, dù bằng cách này  
hay cách khác, họ cũng luôn luôn mong muốn  
đưa cái đẹp vào cuộc sống” (2, tr.9-10). Nghệ  
thuật là kết tinh của hoạt động sáng tạo mang  
tính thẩm mỹ và chứa đựng những giá trị thẩm  
mỹ tiêu biểu. Chính vì vậy, nghệ thuật tiềm ẩn  
khả năng đặc biệt trong giáo dục thẩm mỹ, giúp  
con người tự thanh lọc theo hướng vươn tới cái  
đẹp. Sống trong môi trường văn hóa, tiếp xúc  
với nghệ thuật, con người ngày càng được bồi  
dưỡng và hoàn thiện năng lực thẩm mỹ.  
Lý thuyết giáo dục học về sự đa dạng trong  
phương thức học tập và tầm quan trọng của  
việc kết hợp nhiều hình thức học tập linh hoạt  
có ý nghĩa đặc biệt đối với giáo dục nghệ  
thuật, gồm cả giáo dục về nghệ thuật và giáo  
dục thông qua nghệ thuật. Chẳng hạn, đối với  
giáo dục về nghệ thuật, để nâng cao trình độ  
hiểu biết và sáng tạo nghệ thuật hội họa, bên  
cạnh nghe giảng về lý thuyết hội họa như luật  
xa gần, bố cục, màu sắc... người học cần được  
xem các tác phẩm hội họa tại bảo tàng, triển  
lãm và được thực hành vẽ với các họa phẩm.  
Không những thế, lý luận về giáo dục nói trên  
còn là cơ sở khoa học cho giáo dục thông qua  
nghệ thuật, sử dụng nghệ thuật như những  
phương tiện hiệu quả trong giáo dục. Ví dụ,  
quan sát tác phẩm hội họa có thể giúp học  
sinh hiểu một cách trực quan về các vấn đề  
của toán học như tỉ lệ, kích thước, khoảng  
cách và hình khối. Ví dụ khác: hoạt động vẽ  
tranh thể hiện nội dung một bài thơ có thể  
giúp học sinh cảm nhận văn học sâu sắc hơn.  
Như vậy, học sinh không chỉ học toán với các  
con số và phép tính của bài tập trong sách  
giáo khoa mà còn có thể thông qua các tác  
phẩm hội họa và điêu khắc. Tương tự như vậy,  
mỗi người có thể nghiên cứu văn học thông  
qua ngôn ngữ văn chương và cả ngôn ngữ  
của nghệ thuật hội họa.  
Học thuyết của Gardner có ý nghĩa rất lớn  
trong giáo dục nói chung và giáo dục nghệ  
thuật nói riêng. Trước hết, nó khẳng định  
không chỉ có trí thông minh về ngôn ngữ và  
toán học (liên quan đến thành tích học tập ở  
nhà trường) mà mọi người thường coi là tiêu  
chí để đánh giá năng lực của học sinh. Mỗi con  
người còn có nhiều năng lực khác cần được  
nhìn nhận và phát huy. Việc tạo điều kiện để  
phát huy sở trường của mỗi người sẽ khuyến  
khích sự tự tin, lòng tự trọng cá nhân và giúp  
họ thành công trong cuộc sống cũng như đóng  
góp vào sự phát triển chung của xã hội. Đây là  
một quan điểm khoa học đầy tính nhân văn.  
Tóm lại, chức năng giáo dục, thẩm mỹ và  
nhận thức của văn hóa nghệ thuật có mối  
quan hệ qua lại chặt chẽ, kết hợp với nhau để  
giáo hóa con người, giúp con người hướng tới  
chân, thiện, mỹ. Chức năng, đồng thời cũng là  
mục tiêu cao cả của văn hóa nghệ thuật chính  
là sự phát triển và hoàn thiện của con người  
và xã hội. Dựa trên nền tảng lý luận này, từ xưa  
tới nay, từ phương Đông đến phương Tây, văn  
hóa nghệ thuật đã và đang được sử dụng như  
những hoạt động và công cụ giáo dục. Chẳng  
hạn, ở nước ta, trong kho tàng văn hóa dân  
gian, từ các truyền thuyết, huyền thoại, truyện  
cổ, thành ngữ, tục ngữ đến các hình thức diễn  
xướng dân gian như tuồng, chèo... đều thấm  
đượm triết lý giáo dục như giáo dục về cội  
nguồn, tổ tiên, về phong tục, tập quán, lối ứng  
xử, phê phán, đả kích cái xấu, khuyến khích  
con người hướng tới những giá trị tốt đẹp. Các  
bậc tiền bối cũng từng quan niệm “thi dĩ ngôn  
chí” - thơ để nói cái chí và “văn dĩ tải đạo” - văn  
là để chở đạo. Đây chính là tiền đề cho các học  
thuyết hiện đại về giáo dục nghệ thuật và sự  
phát triển mạnh mẽ của lĩnh vực này trong  
những năm qua.  
Mặt khác, các dạng trí thông minh của  
con người có thể tác động qua lại với nhau.  
Chẳng hạn, với người có trí thông minh âm  
nhạc nhưng gặp khó khăn trong học tập ngôn  
ngữ thì có thể sử dụng âm nhạc để hỗ trợ cho  
việc học ngôn ngữ. Do đó, để đạt hiệu quả cao  
trong giáo dục, cần phải phát huy mọi loại trí  
thông minh của mỗi người và tạo khả năng  
tương tác giữa chúng. Một trong những biện  
pháp hữu hiệu là sử dụng các loại hình nghệ  
thuật (phát huy trí thông minh về không gian,  
chuyển động, âm nhạc hay cảm xúc) để hỗ trợ  
học tập ngôn ngữ, toán học (các hoạt động  
dựa trên trí thông minh về ngôn ngữ và logic).  
Chính vì vậy, các phương pháp giáo dục thông  
qua nghệ thuật đã được nghiên cứu, triển khai,  
không những hỗ trợ cho việc học tập trong  
nhà trường mà còn góp phần phát triển các  
tri thức và kỹ năng cần thiết cho quá trình học  
tập suốt đời của mỗi người.  
Mỗi loại hình học tập đều có ưu điểm và  
hạn chế riêng. Chẳng hạn, phương pháp học  
tập thông qua nghe giảng giúp người học tiếp  
nhận trực tiếp và nhanh chóng nội dung giáo  
dục nhưng lại mang tính thụ động, có thể dẫn  
đến tâm lý ỷ lại, ngại tìm tòi và nghiên cứu ở  
người học. Bên cạnh đó, nếu chỉ nghe giảng  
thì ấn tượng cũng như cảm nhận của người  
nghe chưa thực sự sâu sắc và sẽ dễ quên.  
Trong khi đó, học tập thông qua thực hành  
nhấn mạnh vào quá trình học tập, thể hiện chủ  
trương “học tập thông qua làm việc” (learning  
by doing). Phương pháp “học tập khám phá”  
lại có ưu điểm tạo ra những kết nối trực tiếp  
giữa các thông tin thu nhận được và sự vận  
dụng thông tin đó. Do đó, phương pháp này  
khuyến khích phát triển các kỹ năng trực giác  
và tư duy, khả năng tự tìm hiểu và khám phá  
của người học (7, tr.132).  
2. Hoạt động giáo dục nghệ thuật của các  
đơn vị nghệ thuật biểu diễn  
2.1. Nhiệm vụ giáo dục nghệ thuật  
Các đơn vị nghệ thuật biểu diễn có chức  
năng bảo tồn và phát huy các loại hình nghệ  
thuật biểu diễn. Nhiệm vụ cụ thể thường là  
sưu tầm, gìn giữ tinh hoa nghệ thuật của dân  
tộc và nhân loại đồng thời thể nghiệm, phát  
triển các loại hình nghệ thuật; dàn dựng và  
biểu diễn các chương trình nghệ thuật nhằm  
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của công  
chúng; đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình  
độ chuyên môn cho các thế hệ nghệ sĩ, diễn  
viên… Một số đơn vị nghệ thuật cũng nhấn  
mạnh nhiệm vụ nâng cao trình độ thưởng  
* Lý thuyết giáo dục về các hình thức học tập  
Học thuyết về trí thông minh đa dạng  
Học thuyết về trí thông minh đa diện của  
con người (multiple intelligences) do Howard  
E. Gardner tổng kết là cơ sở khoa học cho lý  
thuyết về các phương pháp giáo dục và học  
tập đa dạng. Qua nghiên cứu lý thuyết và thực  
nghiệm, các nhà triết học, tâm lý học và giáo  
dục học đã nhận ra sự đa dạng trong trí thông  
minh của con người. Trên cơ sở đó, Gardner  
đã xác định 7 loại trí thông minh cơ bản là trí  
Lý thuyết về các hình thức học tập  
Để người học nắm bắt tri thức và làm chủ  
những kỹ năng cần thiết, nếu chỉ sử dụng một  
hình thức học tập thì khó đạt được hiệu quả  
giáo dục. Kết quả nghiên cứu khoa học cho  
thấy khả năng thu nhận thông tin của con  
người qua thính giác là 15%, qua thị giác là  
20%, đồng thời qua cả thính giác và thị giác là  
25% và qua hành động lên tới 75% (6, tr.192-  
Dựa trên các thành tựu khoa học của tâm lý  
học, sinh lý học và đạo đức học, lý thuyết giáo  
dục học đã nghiên cứu nhiều hình thức học  
tập khác nhau. Ví dụ, trên cơ sở nguồn gốc kiến  
thức và đặc điểm tri giác tài liệu của người học,  
các nhà giáo dục học đã chia 3 nhóm phương  
pháp học tập cơ bản là: học tập thông qua sử  
NGHIÊN CỨU  
94 Số 3 - Tháng 3 - 2013  
Số 3 - Tháng 3 - 2013  
95  
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT  
V
ĂN H Ó  
A
thuật sân khấu; chuyên đề lý luận về nghệ  
thuật kịch nói; và các trích đoạn sân khấu để  
minh họa.  
đối tượng thiếu niên và nhi đồng, thường  
được xây dựng phù hợp với đặc điểm nhu cầu  
và khả năng tiếp nhận nghệ thuật của trẻ em.  
vụ nhiều mục tiêu giáo dục đa dạng trong nhà  
trường và xã hội. Tóm lại, hoạt động giáo dục  
nghệ thuật cho công chúng giúp đơn vị nghệ  
thuật tiếp cận công chúng và cộng đồng tốt  
hơn, hiệu quả hơn, tạo sự ủng hộ cũng như  
động lực phát triển cho đơn vị.  
thức nghệ thuật và giáo dục chân, thiện, mỹ  
cho khán giả, công chúng.  
Như vậy, giáo dục nghệ thuật có thể coi là  
nhiệm vụ quan trọng và không thể thiếu của  
các đơn vị nghệ thuật biểu diễn. Hoạt động  
giáo dục nghệ thuật góp phần trực tiếp và  
gián tiếp vào việc thực hiện chức năng của  
đơn vị. Chẳng hạn, muốn gìn giữ, bảo tồn và  
phát triển một loại hình nghệ thuật biểu diễn  
truyền thống của dân tộc thì không những  
phải truyền nghề và bồi dưỡng tác giả, đạo  
diễn, diễn viên mà còn phải tuyên truyền, giới  
thiệu rộng rãi về loại hình nghệ thuật tới đông  
đảo công chúng. Có như vậy mới xây dựng  
được đội ngũ khán giả am hiểu, yêu thích và  
đến xem chương trình nghệ thuật. Lý luận về  
nghệ thuật đã khẳng định: 4 yếu tố tác giả,  
đạo diễn, nghệ sĩ biểu diễn và công chúng là  
những thành phần thiết yếu, có mối quan hệ  
biện chứng và quyết định sức sống của một  
tác phẩm nghệ thuật cũng như sự phát triển  
của một nền nghệ thuật biểu diễn (4, tr.14-27).  
Nghệ sĩ lưu trú (Artist Resident): Các nghệ  
sĩ có thể đến làm việc ở trường học một thời  
gian để hướng dẫn giáo viên và học sinh các kỹ  
thuật của loại hình nghệ thuật, kết hợp cùng  
nhà trường xây dựng kịch bản, tập luyện và tổ  
chức biểu diễn chương trình nghệ thuật.  
Không chỉ giới hạn ở tri thức nghệ thuật,  
giáo dục về nghệ thuật còn có thể giúp đối  
tượng giáo dục rèn luyện kỹ năng nghệ thuật  
như thực hành kỹ thuật diễn xuất, múa, hát,  
chơi nhạc cụ, điều khiển con rối, làm xiếc, ảo  
thuật... để họ hiểu hoạt động nghệ thuật và  
được phát triển năng lực thẩm mỹ cũng như  
năng lực sáng tạo nghệ thuật. Tóm lại, giáo  
dục về nghệ thuật có thể trang bị cho khán  
giả, công chúng những kiến thức và kỹ năng  
về nghệ thuật phong phú, với nhiều cấp độ từ  
cơ bản đến nâng cao.  
Nhiệm vụ giáo dục nghệ thuật cho công  
chúng của đơn vị nghệ thuật biểu diễn có  
điểm tương đồng và khác biệt so với nhiệm  
vụ giáo dục nghệ thuật của hệ thống trường  
phổ thông, trường chuyên biệt về văn hóa  
nghệ thuật và các thiết chế văn hóa thông  
tin cơ sở như trung tâm văn hóa, nhà văn hóa  
thiếu nhi... Đây là hoạt động giáo dục nghệ  
thuật ngoài nhà trường với nội dung chủ yếu  
là phổ biến kiến thức phổ thông (thường thức)  
về nghệ thuật, nhằm đào tạo đối tượng tiếp  
nhận, thưởng thức và tiêu dùng sản phẩm  
nghệ thuật.  
Nghệ thuật học đường (Arts in Schools):  
Hoạt động nghệ thuật được đưa vào chương  
trình chính khóa hoặc ngoại khóa của nhà  
trường, thường nhấn mạnh các hoạt động  
giáo dục về nghệ thuật. Ví dụ, đoàn nghệ thuật  
chuyên nghiệp biểu diễn miễn phí hoặc giảm  
giá vé cho các trường, tạo cơ hội để đông đảo  
học sinh được thưởng thức nghệ thuật. Học  
sinh có thể đến rạp hát xem chương trình hoặc  
đoàn nghệ thuật đến trường biểu diễn.  
Giáo dục thông qua nghệ thuật là việc sử  
dụng và lồng ghép nghệ thuật vào hoạt động  
giáo dục nhằm đạt mục tiêu giáo dục cụ thể  
trong bối cảnh nhà trường hoặc trong xã hội,  
cộng đồng. Chính vì vậy, nội dung của các  
hoạt động này rất đa dạng, phong phú, chịu  
sự chi phối của mục đích giáo dục, đối tượng  
giáo dục và hoàn cảnh giáo dục cụ thể. Chẳng  
hạn, chương trình sử dụng nghệ thuật chèo để  
giáo dục về HIV/AIDS cho sinh viên các trường  
đại học ở Hà Nội cần đề cập những nội dung  
liên quan đến chủ đề HIV/AIDS như HIV/AIDS  
là gì, tác hại, phương thức lây truyền, cách thức  
phòng tránh, thái độ của cộng đồng đối với  
những người bị nhiễm HIV... Những nội dung  
này có thể được chuyển tải qua các tình huống,  
hành động và số phận của các nhân vật trong  
vở diễn và phần giao lưu, trao đổi giữa nghệ sĩ  
với sinh viên sau chương trình biểu diễn.  
2.2. Nội dung giáo dục nghệ thuật  
Nghệ thuật trong giáo dục (Arts in  
Education): Các chương trình hoặc hoạt động  
nghệ thuật được dàn dựng và thực hiện dựa  
theo nhu cầu giáo dục của nhà trường. Hình  
thức này nhấn mạnh vào hoạt động giáo dục  
thông qua nghệ thuật trong bối cảnh nhà  
trường. Ví dụ, nhà hát xây dựng một kịch mục  
dựa trên tác phẩm văn học có trong chương  
trình học tập, giúp học sinh nghiên cứu về  
tác phẩm văn học và tác giả. Ví dụ khác là các  
chương trình lồng ghép nghệ thuật trong học  
tập toán học, khoa học, lịch sử, địa lý hay giáo  
dục công dân.  
Các đơn vị nghệ thuật biểu diễn cần tiến  
hành nhiều hoạt động giáo dục về nghệ thuật  
và giáo dục thông qua nghệ thuật cho công  
chúng. Mỗi loại hình hoạt động đều có nội  
dung riêng, tùy thuộc vào mục đích giáo dục.  
Hoạt động giáo dục nghệ thuật của đơn vị  
nghệ thuật biểu diễn có thể hướng tới hai đối  
tượng là nghệ sĩ (những người sáng tạo nghệ  
thuật) và khán giả (đối tượng tiếp nhận nghệ  
thuật). Nói cách khác, giáo dục nghệ thuật  
góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho cbên  
cung” và “bên cầu, tạo thế cân bằng và thúc  
đẩy sự phát triển của lĩnh vực văn hóa nghệ  
thuật, trong đó, giáo dục nghệ thuật cho khán  
giả, công chúng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng  
trong quản lý văn hóa nghệ thuật hiện nay.  
Giáo dục về nghệ thuật nhằm mang lại  
những hiểu biết về nghệ thuật nên thường  
đề cập đến loại hình nghệ thuật và các tác  
phẩm, tác giả thuộc loại hình đó. Chẳng hạn,  
nội dung giáo dục cụ thể có thể là: đặc trưng,  
bản chất, ngôn ngữ nghệ thuật, thể tài của loại  
hình nghệ thuật; nội dung, chủ đề, thủ pháp  
nghệ thuật và quá trình sáng tác, dàn dựng  
một tác phẩm nghệ thuật biểu diễn; hay tiểu  
sử, sự nghiệp, ý đồ nghệ thuật và phong cách  
nghệ thuật của một tác giả. Ví dụ, với giáo dục  
về nghệ thuật sân khấu, có thể giới thiệu: quá  
trình sáng tác và dàn dựng một vở diễn; lao  
động đặc thù của đạo diễn trong tìm hiểu và  
chuyển dịch ngôn ngữ văn chương của kịch  
bản sân khấu sang ngôn ngữ dàn cảnh của  
vở kịch, lựa chọn và hướng dẫn diễn viên thể  
hiện các vai diễn; đặc điểm nghệ thuật diễn  
xuất của diễn viên; công việc thiết kế sân khấu,  
quản lý và vận hành hệ thống âm thanh, ánh  
sáng, trang phục, đạo cụ... Những nội dung này  
có thể được thể hiện dưới dạng: câu chuyện về  
chân dung nghệ sĩ; phê bình tác phẩm nghệ  
Nghệ thuật cộng đồng hoặc Nghệ thuật  
vì phát triển cộng đồng (Arts for Community  
Development): Các chương trình nghệ thuật  
vì cộng đồng xuất phát từ nhu cầu của cộng  
đồng, nội dung đề cập đến vấn đề của cộng  
đồng, dành cho cộng đồng hay có sự tham  
gia của chính cộng đồng. “Cộng đồng” ở đây  
được dùng chỉ các nhóm dân cư qui tụ theo  
nhiều tiêu chí khác nhau như nơi cư trú, nghề  
nghiệp, tình trạng xã hội, chủng tộc, tuổi tác,  
giới tính... Các chương trình nghệ thuật này  
có thể nhằm mục tiêu giáo dục về nghệ thuật  
cho cộng đồng hoặc thông qua nghệ thuật  
tác động đến nhận thức, thái độ và hành vi của  
các thành viên. Ví dụ, một đoàn nghệ thuật  
Công chúng là những người không chuyên  
sâu về nghệ thuật. Tuy có thể sáng tạo nghệ  
thuật một cách nghiệp dư, vai trò và vị trí chính  
của họ vẫn là người thưởng thức, “tiêu thụ”  
những sáng tạo nghệ thuật của nghệ sĩ. Như  
vậy, mục đích chính của hoạt động giáo dục  
nghệ thuật cho công chúng là đào tạo khán  
giả, nâng cao trình độ hiểu biết, khả năng cảm  
thụ nghệ thuật cho họ và xây dựng mối quan  
hệ gắn bó giữa họ với đơn vị nghệ thuật nói  
riêng cũng như với các loại hình nghệ thuật  
nói chung. Không những thế, với loại hình  
giáo dục thông qua nghệ thuật, đơn vị nghệ  
thuật biểu diễn có thể sử dụng các tác phẩm  
hay kỹ thuật của nghệ thuật biểu diễn để phục  
2.3. Hình thức giáo dục nghệ thuật  
Nghệ thuật cho khán giả trẻ hoặc sân khấu  
tuổi trẻ (YPT - Young People Theatre) là các  
chương trình nghệ thuật được dàn dựng và  
biểu diễn cho thanh niên, giúp đối tượng này  
tiếp cận, thưởng thức và hiểu biết về nghệ  
thuật biểu diễn. Nội dung các chương trình  
thường phù hợp với tâm lý lứa tuổi và đề cập  
đến các vấn đề về cuộc sống, lao động và học  
tập của thanh niên.  
Sân khấu thiếu nhi (Children’s Theatre) là  
hình thức sân khấu chuyên nghiệp dành cho  
NGHIÊN CỨU  
96 Số 3 - Tháng 3 - 2013  
Số 3 - Tháng 3 - 2013  
97  
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT  
V
ĂN H Ó  
A
dàn dựng vở kịch về phòng chống bạo lực gia  
đình để tuyên truyền cho nhóm phụ nữ dân  
tộc thiểu số.  
cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật. Sắm vai là  
kỹ thuật đơn giản nhưng hiệu quả, kết hợp học  
tập và vui chơi một cách sinh động, hấp dẫn.  
Đặc biệt, kỹ thuật này rèn luyện khả năng đặt  
mình vào vị trí của người khác, kỹ năng giao  
tiếp và sống hòa hợp với mọi người, năng lực  
cảm thông, chia sẻ cũng như biết cách diễn  
đạt ý kiến, tình cảm của bản thân.  
3.1. Giáo dục nghệ thuật mang lại giá  
trị gia tăng cho các chương trình biểu diễn  
nghệ thuật  
Ở Việt Nam hiện nay vẫn tồn tại quan điểm  
phổ biến cho rằng nhiệm vụ của đạo diễn và  
diễn viên là dàn dựng và biểu diễn chương  
trình nghệ thuật còn việc phân tích, giới thiệu  
tác phẩm là trách nhiệm của các nhà nghiên  
cứu lý luận và phê bình nghệ thuật. Tuy nhiên,  
trên thực tế, đội ngũ nghệ sĩ tham gia dàn  
dựng, thể hiện tác phẩm là những người hiểu  
sâu sắc tác phẩm hơn ai hết. Đặc biệt, họ có  
cái nhìn của những người “trong cuộc” đối với  
chương trình biểu diễn. Chính nghệ sĩ và đơn  
vị nghệ thuật có thể thiết kế và thực hiện hoạt  
động giáo dục nghệ thuật để nâng cao giá trị  
và ý nghĩa của tác phẩm.  
Sân khấu diễn đàn (Theatre Workshop hoặc  
Forum Theatre) là hoạt động nghệ thuật được  
đơn vị nghệ thuật nghiên cứu, xây dựng và  
thực hiện, có sự tham gia trực tiếp của đối  
tượng giáo dục để trải nghiệm tình huống và  
thảo luận các chủ đề. Hình thức này thường  
kết hợp biểu diễn chương trình nghệ thuật  
và hoạt động hội thảo hoặc trò chơi để trao  
đổi, phân tích về nội dung và hình thức của vở  
diễn. Hình thức sân khấu diễn đàn nhằm mục  
tiêu giáo dục hoặc phát triển những kỹ năng  
cần thiết cho đối tượng (8).  
Các đơn vị nghệ thuật biểu diễn có thể tổ  
chức nhiều hoạt động giáo dục nghệ thuật  
đa dạng đi kèm chương trình biểu diễn nghệ  
thuật như nói chuyện chuyên đề về đặc trưng  
loại hình nghệ thuật, về vở diễn, giao lưu với  
nghệ sĩ, tham quan hậu trường sân khấu, khu  
trưng bày đạo cụ, phục trang hay phòng tập  
của nghệ sĩ. Những hoạt động giáo dục này có  
thể mang lại giá trị gia tăng cho chương trình  
nghệ thuật. Giá trị gia tăng ở đây không chỉ  
là giá trị tinh thần đối với khán giả mà còn là  
giá trị kinh tế cho đơn vị nghệ thuật vì những  
sản phẩm và dịch vụ này có thể bán vé hoặc  
thu phí.  
Kỹ thuật tình huống giả định: Người dẫn  
chương trình đưa ra tình huống giả định để  
các thành viên tham gia giải quyết vấn đề và  
tự do thể hiện như cách hình dung của họ.  
Kỹ thuật này có tác dụng phát triển trí tưởng  
tượng, năng lực tư duy, phân tích tình huống,  
kỹ năng ra quyết định và lựa chọn cách thức  
hành động phù hợp. Ưu điểm nổi bật của kỹ  
thuật này là cho phép người học xem xét phản  
ứng của họ trong tình huống cụ thể và so sánh  
với phản ứng của người khác, từ đó nâng cao  
hiểu biết về thực tại khách quan, mở rộng kinh  
nghiệm cá nhân trong lĩnh vực quan hệ xã hội,  
giao tiếp và ứng xử (8).  
Đề cập đến tác động của chương trình giáo  
dục nghệ thuật, có ý kiến e ngại rằng thông tin  
được cung cấp có thể tạo ra những thiên kiến,  
định kiến, ảnh hưởng đến cảm nhận trung  
thực và khách quan của khán giả về tác phẩm.  
Tuy vậy, trên thực tế, hoạt động giáo dục  
nghệ thuật giúp khán giả có được thông tin  
đầy đủ, từ đó cảm nhận và nắm bắt tác phẩm  
tốt hơn. Trong nhiều trường hợp, điều này là  
rất cần thiết. Ví dụ, với những vở kịch của W.  
Shakespeare, được viết cách đây khoảng năm  
trăm năm, nếu không có thông tin đi kèm về  
bối cảnh lịch sử, xã hội của tác phẩm thì không  
những khán giả Việt Nam mà ngay chính khán  
giả Anh cũng khó hiểu được đầy đủ tinh thần  
của tác phẩm. Hoạt động giáo dục nghệ thuật  
đặc biệt cần thiết đối với các loại hình nghệ  
thuật truyền thống của dân tộc có tính ước lệ,  
cách điệu cao như tuồng, chèo, các loại hình  
nghệ thuật “bác học” như ballet, opera, nhạc  
giao hưởng, thính phòng để giúp khán giả  
hiểu cái hay, cái đẹp của tác phẩm.  
2.4. Một số kỹ thuật giáo dục nghệ thuật  
Các kỹ thuật của nghệ thuật biểu diễn như  
kỹ thuật thanh nhạc (hát), sử dụng nhạc cụ,  
múa, diễn xuất... ngoài việc tập luyện nhằm  
tăng cường hiểu biết và năng lực thực hành  
nghệ thuật của người học, còn được sử dụng  
như những công cụ hiệu quả trong nhiều hoạt  
động giáo dục khác. Sau đây là một số ứng  
dụng các kỹ thuật của nghệ thuật biểu diễn  
trong giáo dục thông qua nghệ thuật:  
Thông qua các hoạt động bổ trợ như trên,  
giáo dục nghệ thuật cung cấp những thông  
tin thú vị, bổ ích về tác phẩm nghệ thuật và tác  
giả. Khán giả sẽ hiểu hơn bối cảnh lịch sử - xã  
hội của tác phẩm, nguồn gốc, nội dung, chủ đề  
cũng như thủ pháp nghệ thuật được sử dụng.  
Khán giả có thể biết thêm những chi tiết đặc  
sắc về quá trình sáng tạo, dàn dựng tác phẩm,  
những câu chuyện “bên trong hậu trường,  
“đằng sau cánh gàhay những vấn đề kỹ thuật  
sân khấu mà ít khi họ mường tượng đến. Bên  
cạnh đó, khán giả có cơ hội mở rộng hiểu biết  
về cuộc đời, sự nghiệp cũng như phong cách  
nghệ thuật của tác giả. Hoạt động giáo dục  
nghệ thuật còn có thể đề cập đến các phiên  
bản/vở diễn của các đạo diễn và đoàn nghệ  
thuật khác nhau xây dựng trên cùng một kịch  
bản văn học, hay phân tích ảnh hưởng của một  
tác phẩm sân khấu đến các tác phẩm thơ ca,  
văn học và điện ảnh khác. Những nội dung này  
được chuyển tải tới khán giả thông qua nhiều  
hình thức sinh động và hấp dẫn. Do đó, các  
chương trình giáo dục nghệ thuật giúp khán  
giả có những trải nghiệm sinh động và thông  
tin đa chiều, từ đó có thể cảm thụ tác phẩm tốt  
hơn. So với việc chỉ xem biểu diễn tác phẩm, rõ  
ràng hoạt động giáo dục nghệ thuật mang lại  
giá trị gia tăng cho chương trình nghệ thuật và  
tăng cường sức hấp dẫn của tác phẩm đối với  
khán giả, công chúng.  
Ngoài ra, còn nhiều kỹ thuật được khai thác  
dưới dạng trò chơi (game format) để khuyến  
khích sự tham dự trực tiếp của đối tượng giáo  
dục, từ đó mang lại các trải nghiệm chân thực  
và sinh động. Ví dụ, trò chơi hai người tựa lưng  
vào nhau và di chuyển sao cho lúc nào cũng có  
một điểm tiếp xúc; hay một người làm “hình,  
người thứ hai làm “bóng” - “bóng” chuyển  
động theo mọi cử động của “hình” sao cho  
đúng là “như hình với bóng... Các trò chơi sử  
dụng kỹ năng múa, không chỉ có tác dụng uốn  
dẻo, khám phá bản thân, giải phóng cơ thể mà  
còn khuyến khích sự ngẫu hứng và tự do “bay  
bổng” về tinh thần. Qua đó, người tham dự có  
thể tự tin và kiểm soát tốt hơn ngôn ngữ hình  
thể và cảm xúc, tâm hồn của chính mình.  
Kỹ thuật trình diễn, còn gọi là kỹ thuật lấy  
diễn viên làm trung tâm (Actor - centred  
techniques): Trình diễn là trình bày sự việc, ý  
tưởng, cảm xúc hay quá trình bằng ngôn ngữ  
nói, ngôn ngữ cơ thể như động tác, hành động,  
nét mặt, ánh mắt hay các ngôn ngữ nghệ thuật  
khác như âm thanh, tiết tấu, màu sắc và đường  
nét. Áp dụng kỹ thuật này, người hướng dẫn  
có thể làm mẫu, sau đó người học làm theo;  
hoặc người hướng dẫn đưa ra nội dung để  
người học tự do tìm cách trình diễn và biểu  
đạt. Hoạt động này khuyến khích người học  
sử dụng các giác quan để nhìn, nghe, đôi khi  
cả ngửi, sờ hoặc nếm và sử dụng tổng thể các  
loại hình ngôn ngữ để diễn đạt vấn đề được  
yêu cầu.  
3.2. Giáo dục nghệ thuật góp phần phát  
triển khán giả  
3. Vai trò của giáo dục nghệ thuật đối với  
các đơn vị nghệ thuật biểu diễn  
Giáo dục nghệ thuật có thể cung cấp công  
cụ hữu hiệu giúp các đơn vị nghệ thuật tiếp cận  
và thu hút công chúng. Giáo dục nghệ thuật  
không chỉ hỗ trợ cho một chương trình nghệ  
thuật cụ thể như đã phân tích ở trên mà tầm  
ảnh hưởng của nó còn đi xa hơn thế. Giáo dục  
nghệ thuật có thể duy trì khán giả hiện tại và  
phát triển khán giả mới cho đơn vị nghệ thuật  
Lý luận cũng như thực tiễn về giáo dục  
nghệ thuật ở trong nước và quốc tế cho thấy,  
hoạt động giáo dục nghệ thuật có thể mang  
lại lợi ích nhiều mặt cho các đơn vị nghệ thuật  
biểu diễn, đặc biệt trong bối cảnh chuyển sang  
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội  
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.  
Kỹ thuật sắm vai (role - play): Các thành viên  
trong một nhóm được yêu cầu đóng vai các  
nhân vật cụ thể nào đó. Giả sử, một người  
đóng vai một thanh niên bị tai nạn giao thông  
do đua xe máy, những người khác đóng vai  
bố, mẹ, bác sĩ và bạn bè để trải nghiệm những  
NGHIÊN CỨU  
98 Số 3 - Tháng 3 - 2013  
Số 3 - Tháng 3 - 2013  
99  
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT  
V
ĂN H Ó  
A
đồng. Những vấn đề này gắn với trách nhiệm  
xã hội của doanh nghiệp (Cooperate Social  
Responsibilities - CSR) nên thường được các  
nhà tài trợ quan tâm. Tài trợ cho giáo dục nghệ  
thuật sẽ giúp doanh nghiệp tăng cường hoạt  
động quảng bá và thiết lập mối quan hệ tốt  
đẹp với cộng đồng. Do đó, những đơn vị nghệ  
thuật nếu tổ chức hoạt động giáo dục sẽ dễ  
tiếp cận các nhà tài trợ hơn. Mặt khác, giáo dục  
nghệ thuật thường hướng tới nhóm khán giả  
trẻ. Đối tượng này cũng là mục tiêu tiếp cận  
của nhiều doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có  
thể thông qua tài trợ cho giáo dục nghệ thuật  
để phát triển thị trường hay khách hàng của  
chính họ. Tóm lại, giáo dục nghệ thuật hội tụ  
nhiều mục tiêu chung của đơn vị nghệ thuật  
và nhà tài trợ; vì vậy, đơn vị nghệ thuật có thể  
tranh thủ được sự ủng hộ về tài chính, vật chất  
và tinh thần của đối tác.  
đơn vị nghệ thuật biểu diễn nâng cao giá trị và  
sức hấp dẫn của chương trình nghệ thuật, xây  
dựng đội ngũ khán giả và tiếp cận các nguồn  
tài trợ, từ đó tạo động lực cho sự phát triển của  
đơn vị. Đẩy mạnh giáo dục nghệ thuật là một  
hướng đi đầy triển vọng, góp phần trợ giúp  
các đơn vị nghệ thuật nước ta phát triển mạnh  
mẽ, bền vững và tăng cường khả năng hội  
nhập quốc tế.  
và cho loại hình nghệ thuật. Trước hết, hoạt  
động giáo dục nghệ thuật có thể duy trì và  
phát triển mối quan hệ gắn bó giữa khán giả và  
đơn vị nghệ thuật thông qua việc tăng cường  
hiểu biết về nhu cầu và hoạt động của mỗi  
bên. Chẳng hạn, phần nói chuyện và giao lưu  
giữa nghệ sĩ với khán giả có thể tạo dựng bầu  
không khí thân mật và để lại ấn tượng sâu đậm  
trong lòng khán giả. Khán giả có cơ hội tiếp cận  
trực tiếp với nghệ sĩ, hiểu hơn đặc thù lao động  
sáng tạo nghệ thuật, được nghệ sĩ truyền cảm  
hứng, đồng thời cảm thấy nhu cầu của mình  
được quan tâm, thấu hiểu và đáp ứng.  
trở nên vô nghĩa đối với đôi tai không am hiểu  
âm nhạc (5, tr.124). Chính vì vậy, để xây dựng  
đội ngũ khán giả, nếu chỉ biểu diễn chương  
trình nghệ thuật thì chưa đủ mà cần có hoạt  
động giáo dục để giúp họ hiểu nhiều hơn, thấy  
được nét đặc sắc và giá trị của loại hình nghệ  
thuật. Ở các nước phát triển trên thế giới, các  
đơn vị nghệ thuật thường triển khai hoạt động  
giáo dục nghệ thuật song song với hoạt động  
marketing và quan hệ công chúng để phát  
triển khán giả, đồng thời xây dựng và củng cố  
thương hiệu của tổ chức.  
P.T.B.H  
(TS, Phó trưởng Khoa Quản lý Văn hóa Nghệ thuật)  
Tài liệu tham khảo  
3.3. Giáo dục nghệ thuật hỗ trợ tiếp cận  
nguồn tài trợ  
1. Nguyễn Văn Huyên (1996), Văn hoá thẩm  
mỹ và văn hoá nghệ thuật nâng cao năng lực sáng  
tạo của con người, Trong sách: Văn hoá mới Việt  
Nam, sự thống nhất và đa dạng, Nxb Khoa học  
xã hội, Hà Nội.  
Mặt khác, giáo dục nghệ thuật có thể tạo ra  
nhu cầu và khuyến khích mong muốn thưởng  
thức nghệ thuật trong công chúng. Hoạt động  
giáo dục nghệ thuật có thể nâng cao hiểu biết,  
khơi gợi mối quan tâm, hứng thú về nghệ  
thuật, từ đó thúc đẩy nhu cầu tham dự nghệ  
thuật của khán giả. Các công trình nghiên cứu  
xã hội học nghệ thuật đã cho thấy sự phụ thuộc  
lẫn nhau giữa trình độ hiểu biết về nghệ thuật  
và phạm vi tiêu thụ các sản phẩm nghệ thuật  
của con người. Cụ thể, trình độ phát triển thẩm  
mỹ, hiểu biết về nghệ thuật của cá nhân càng  
cao thì nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của các loại  
hình nghệ thuật càng lớn (1, tr.224). Giáo dục  
nghệ thuật đặc biệt có ý nghĩa đối với thế hệ  
trẻ vì nếu trẻ em sớm tiếp xúc với nghệ thuật  
thì sự yêu thích này có thể được duy trì và phát  
triển theo thời gian trong suốt cuộc đời. Do đó,  
giáo dục nghệ thuật cho giới trẻ sẽ góp phần  
đắc lực vào việc chuẩn bị và đào tạo lớp khán  
giả tiềm năng, những người sẽ trở thành lực  
lượng khán giả then chốt sau này.  
Đa dạng hóa nguồn tài chính là nhu cầu  
cấp thiết của các đơn vị nghệ thuật hiện nay.  
Đây cũng là một nội dung trong chính sách  
xã hội hóa hoạt động văn hóa nghệ thuật của  
Nhà nước ta. Tuy nhiên, các đơn vị nghệ thuật  
Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm và chưa có  
phương thức tiếp cận hiệu quả tới các quĩ văn  
hóa và nguồn tài trợ.  
2. Nguyễn Hồng Mai, Đặng Hồng Chương  
n(2004), Giáo trình Mỹ học, Trường Đại học Văn  
hóa Hà Nội, Hà Nội.  
Tóm lại, giáo dục nghệ thuật là hoạt động  
chuyển giao di sản văn hóa nghệ thuật cho các  
thế hệ, giúp đối tượng giáo dục phát triển cả  
về khía cạnh học thuật lẫn nhân cách. Đây là  
hoạt động mang tính liên ngành, thể hiện ở sự  
kết hợp chặt chẽ giữa yếu tố giáo dục và yếu  
tố nghệ thuật. Hoạt động giáo dục nghệ thuật  
được phát triển dựa trên những tiền đề lý  
luận về chức năng của văn hóa nghệ thuật và  
các loại hình học tập đa dạng của con người.  
Những cơ sở khoa học này khẳng định sự cần  
thiết phải giáo dục về nghệ thuật cũng như  
triển vọng áp dụng nghệ thuật trong giáo dục  
ở nhà trường và nhiều bối cảnh xã hội. Giáo  
dục nghệ thuật là một nhiệm vụ quan trọng  
của đơn vị nghệ thuật biểu diễn, góp phần  
thực hiện chức năng bảo tồn và phát triển các  
loại hình nghệ thuật biểu diễn; trong đó, hoạt  
động giáo dục nghệ thuật cho khán giả, công  
chúng cần được đặc biệt quan tâm. Căn cứ vào  
đặc trưng của loại hình nghệ thuật biểu diễn,  
các đơn vị có thể thiết kế và thực hiện nhiều  
hoạt động giáo dục về nghệ thuật và giáo  
dục thông qua nghệ thuật với nội dung, hình  
thức và kỹ thuật phong phú cho nhiều nhóm  
khán giả. Trong bối cảnh chuyển đổi sang nền  
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ  
nghĩa, giáo dục nghệ thuật có thể giúp các  
3. Nhiều tác giả (1998), Hỏi đáp về văn hóa Việt  
Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Tạp chí Văn hóa nghệ  
thuật, Hà Nội.  
Giáo dục nghệ thuật có thể giúp đơn vị  
nghệ thuật vận động nguồn tài trợ từ Nhà  
nước và các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân.  
Các dự án giáo dục nghệ thuật có thể dành  
được nguồn ngân sách từ Bộ Văn hóa, Thể  
thao và Du lịch và các Bộ, ngành khác như  
Bộ Giáo dục và Đào tạo (vì hỗ trợ cho chương  
trình giáo dục của nhà trường), Bộ Lao động,  
Thương binh và Xã hội (vì góp phần thực hiện  
các mục tiêu xã hội thông qua nghệ thuật)... Ví  
dụ, dự án Sân khấu học đường đã nhận được  
tài trợ của chính phủ Việt Nam trong suốt 10  
năm (2001-2011) khi góp phần thực hiện  
nhiệm vụ trọng điểm của Bộ Văn hóa, Thể thao  
và Du lịch là tuyên truyền, giáo dục để bảo tồn  
và phát huy các loại hình nghệ thuật biểu diễn  
truyền thống của dân tộc.  
4. Trần Trí Trắc (2010), Đại cương Nghệ thuật  
sân khấu, Tái bản lần thứ nhất, Nxb Đại học Quốc  
gia Hà Nội, Hà Nội.  
5. Trần Tuý (2005), Vai trò của nghệ thuật trong  
giáo dục thẩm mỹ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.  
6. Phạm Viết Vượng (2008), Giáo dục học (Giáo  
trình dành cho các trường đại học và cao đẳng sư  
phạm), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.  
7. Black, Graham (2007), The Engaging Museum  
- Developing Museums for Visitor Involvement,  
Routledge, London and New York.  
Đặc biệt, ở nước ta hiện nay, trong khi một  
số bộ phận công chúng vẫn chưa hiểu biết và  
quan tâm tới các loại hình nghệ thuật biểu  
diễn hiện đại thì một bộ phận khác, đặc biệt  
là khán giả trẻ ở đô thị, ngày càng xa lánh với  
các loại hình nghệ thuật truyền thống của  
dân tộc. Một trong những nguyên nhân quan  
trọng là công chúng thiếu tri thức về nghệ  
thuật. Không có tri thức nghệ thuật sẽ không  
có khả năng cảm thụ, đánh giá, do đó không  
có nhu cầu “tiêu dùng” sản phẩm nghệ thuật.  
C. Mác đã từng nói: bản nhạc hay nhất cũng  
8. Lidstone, Gerald (2004), Cultural Policy and  
Practices in the UK - Arts Education, Goldsmiths  
College - University of London, London.  
9. National Advisory Committee on Creative  
and Cultural Education (1999), All Our Future:  
Creativity, Culture and Education, London.  
Để thu hút nguồn tài trợ ngoài Nhà nước,  
các đơn vị nghệ thuật cần hiểu rõ nguyên tắc:  
trong nền kinh tế thị trường, nhà tài trợ thường  
tìm kiếm những lợi ích nhất định từ việc tài trợ  
của họ. Giáo dục nghệ thuật liên quan trực tiếp  
đến các vấn đề nghệ thuật và giáo dục, nâng  
cao dân trí, phát triển con người và hỗ trợ cộng  
Ngày nhận bài: 28/9/2012  
Ngày phản biện, đánh giá: 8/11/2012  
Ngày chấp nhận đăng: 17/1/2013  
NGHIÊN CỨU  
100 Số 3 - Tháng 3 - 2013  
Số 3 - Tháng 3 - 2013  
101  
V
ĂN H Ó  
A
pdf 5 trang baolam 09/05/2022 3700
Bạn đang xem tài liệu "Giáo dục nghệ thuật và đơn vị nghệ thuật biểu diễn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfgiao_duc_nghe_thuat_va_don_vi_nghe_thuat_bieu_dien.pdf