Giáo trình Lý thuyết viễn thông

thuyết viễn thông  
1. Hệ thống viễn thông điện tử  
1.1 Hệ thống viễn thông điện tử ngày nay  
Công nghệ viễn thông điện tử đã tiếp tục tiến bộ nhanh chóng kể từ khi có phát minh hệ  
thống điện tín và điện thoại đến mức đã cách mạng hoá các phương tiện thông tin truyền  
thông khoảng một thế kỷ trước đây. Ngày nay, hệ thống viễn thông điện tử được xem như  
các phương tiện kinh tế nhất được để trao đổi tin tức và các số liệu. Ngoài ra song song  
với tǎng trưởng về hội kinh tế, việc hình thành các phương tiện cần thiết cho viễn thông  
điện tử đã trở nên phức tạp hơn và có khuynh hướng kỹ thuật cao nhằm đáp ứng nhu cầu  
đang tǎng về các dịch vụ chất lượng cao và dịch vụ viễn thông tiên tiến hơn; mặc vậy  
các thiết bị thể được hình thành theo các cách khác nhau và có các mức độ phức tạp  
khác nhau theo các yêu cầu của người sử dụng.  
Về cơ bản chúng được phỏng như sau (diễn giải) :  
Hình 1.1. Cấu tạo của mạng lưới viễn thông.  
a. Nguồn thông tin: Con người hay máy để phát ra thông tin cần truyền đi. Thông tin phát ra  
được phân loại thành tiếng nói, mã, và hình ảnh (ký tự, hiệu và hình ảnh).  
b. Thiết bị truyền: Bộ phận hay thiết bị để chuyển thông tin phát ra thành các tín hiệu để  
được truyền đi qua đường truyền dẫn.  
c. Đường truyền dẫn: Một phương tiện để truyền các tín hiệu từ thiết bị truyền đến thiết bị  
nhận. Các loại cáp đồng trục, cáp quang, không gian, và các hướng sóng được dùng  
rộng rãi cho mục đích này. Các tín hiệu được gửi đi qua đường truyền bị nhiễu bởi các  
yếu tố như tiếng ồn.  
d. Thiết bị nhận: Là một bộ phận hay thiết bị dùng để biến đổi các tín hiệu đã nhận được  
thành các tín hiệu ban đầu.  
e. Người sử dụng: Là con người hay máy nhận thông tin đã được phục hồi từ thiết bị nhận.  
Hệ thống viễn thông điện tử được sử dụng phổ biến nhất hệ thống thông tin điện thoại  
trong đó con người nguồn thông tin cũng lại người sử dụng, còn máy điện thoại  
dùng làm thiết bị truyền thiết bị nhận. Hiện nay loại máy (bǎng) dịch vụ thông báo thông  
tin trong đó máy hoạt động như nguồn thông tin và con người như người sử dụng có  
như cầu cao. Ngoài ra, việc giao tiếp giữa máy với máy như việc trao đổi số liệu hiện  
cũng đang hoạt động. Như trình bày hình 1.2, các quá trình trao đổi được tiến hành  
thông qua giao diện giữa người với máy, và giữa máy với máy, như trong trường hợp  
các phương pháp thông thường, sẽ trở nên ngày càng thông dụng hơn.  
Hình 1.2. Truyền, nhận thông tin  
Xu thế phát triển các mạng lưới viễn thông hiện nay được tả ngẵn gọn ở phần sau.  
Trước hết, giải thích về việc đa dạng hoá các dịch vụ viễn thông và các phương tiện.  
Cùng với các dịch vụ viễn thông điện tử thông dụng dựa trên cơ sở các hệ thống điện thoại  
điện tín hoạt động một cách độc lập thông qua việc sử dụng mạng lưới thuê bao điện  
thoại, mạng lưới chuyển mạch rơ-le điện tín, và mạng lưới thuê bao điện tín, một số các  
phương tiện độ phức tạp cao và rất mạnh càng tǎng lên như các các phương tiện truyền  
số liệu và hình ảnh để truyền thông tin các loại và cho phép thực hiện các dịch vụ phi điện  
thoại đang được lắp đặt vận hành, đang cách mạng hoá cuộc sống của chúng ta.  
Dịch vụ phi điện thoại được đưa ra hiện nay yêu cầu các thiết bị phương tiện viễn thông  
tiên tiến và chuyên môn hoá cao độ.Thực tế này càng trở nên rõ ràng hơn khi chúng ta kiểm  
tra các loại tần số hiện đang dùng; không giống như các phương tiện phổ thông chỉ yêu cầu  
các dường tín hiệu 4 KHz cho các loại dịch vụ, các dải tần 1-4 MHz, 12-240 KHz, và 12-240  
KHz đang được sử dụng, một cách tương ứng cho Video, các số liệu tốc độ vừa và cao,  
truyền fax để đáp ứng các đặc tính dịch vụ của chúng; đồng thời khi cung cấp một dịch vụ,  
các tần số khác nhau có thể được sử dụng để kết quả tối ưu. Theo đó, việc thiết lập  
nhiều mạng lưới viễn thông khác nhau, sử dụng các dải tần khác nhau và các dịch vụ khác  
nhau là điều không thực tế và không kinh tế. Do vậy một nhu cầu cấp bách là phát triển  
công nghệ các mạng lưới viễn thông với dung lượng thể giao tiếp với nhau, có khả nǎng  
xử lý các loại dịch vụ khác nhau để thể đưa ra sử dụng trong tương lai gần. Với mục  
đích này, các nhà nghiên cứu kỹ sư tham gia vào lĩnh vực này đang cố gắng kết hợp các  
mạng lưới viễn thông hiện nay một cách có hệ thống và có hiệu quả.  
Thứ nhì, xu hướng gần đây đặc điểm tǎng nhu cầu đối với mạng lưới số. Từ khi phát  
hiện ra các nguyên lý về điện thoại từ việc chuyển nǎng lượng âm thanh thành nǎng lượng  
điện để truyền đi tiếng nói cho đến khi phát sinh ra phương pháp truyền bằng ghép kênh  
điện thoại, các dịch vụ điện thoại đưa ra sử dụng các hệ thống chuyển mạch phân chia  
không gian thông qua các đường truyền tương tự. Điều này cũng dựa vào công nghệ tương  
tự. Vào đầu những nǎm 1960, phương pháp PCM-24 đã được thương mại hoá một cách  
thành công vì vậy chứng minh rằng phương pháp truyền dẫn số là kinh tế hơn nhiều so với  
phương pháp truyền dẫn tương tự. kể từ đó, các hệ thống tổng đài số sử dụng hệ thống  
truyền dẫn số đã được lắp đặt vận hành một cách rộng rãi.  
Những ưu điểm của các mạng lưới viễn thông số là: Khi sử dụng hệ thống tổng đài tương  
tự đường truyền dẫn số, bộ mã hoá và bộ giải được sử dụng cho các dịch vụ thoại  
để biến đổi các tín hiệu ngược lại thành tiếng nói tại thời điểm chuyển mạch; Khi sử dụng  
hệ thống số đường truyền dẫn số, chỉ cần một thiết bị đầu cuối với khả nǎng thực  
hiện chức nǎng đơn giản vì các tín hiệu số đã dược đấu nối ở mức ghép kênh. Một ưu điểm  
khác của việc sử dụng hệ tổng đài số là nó làm tǎng chất lượng truyền dẫn. Trong mạng  
lưới điện thoại số, các tín hiện đã được mã hoá tại tổng đài chủ gọi được giải mã, sau đó  
được mã hoá tại tổng đài trung chuyển cuối cùng được gửi đến tổng đài bị gọi.  
Theo đó, bằng cách sử dụng phương pháp này, có thể tránh được việc tǎng lượng tiếng ồn  
phát ra khi chuyển các tín hiệu tương tự thành các tín hiệu số. Ngoài ra, do đường truyền  
dẫn số trải qua ít thay đổi về mức hơn đường truyền dẫn tương tự, hiện tượng mất  
đường truyền sẽ thể đặt nhỏ hơn. Để thực hiện mục đích này, nếu sử dụng một đường  
truyền số giữa hai tổng đài, thì sự mất đường truyền thể được giảm bớt từ 10 dB xuống  
còn 6dB. Đồng thời, trong mạng điện thoại số, đối với một đường điện thoại, 64 kbps được  
dùng như tốc độ bít cơ sở; các số liệu, fax, và thông tin video có tốc độ nhỏ hơn mức bít  
này có thể được gửi đi một cách tương đối dễ dàng hơn thông qua mạng điện thoại số. Như  
đã trình bày, các thiết bị thể được chia sẻ theo các yêu cầu dịch vụ và vì thế thể được  
sử dụng một cách linh hoạt để ứng dụng cho các loại dịch vụ hiện đang tồn tại cũng như  
các dịch vụ mới.  
Hình 1.3. Tiến trình trong số hoá  
Các nhà nghiên cứu kỹ sư ở các nước tiên tiến đang cố gắng phát triển loại mạng truyền  
thông số này. Tiến bộ thực hiện được trong công nghệ số được giải thích sử dụng mô hình  
Hình 1.3. Một đường truyền số dược sử dụng giữa hai tổng đài trong mạng lưới số tích  
hợp được phỏng trong sơ đồ. Đồng thời mạng ISDN (mạng đa dịch vụ số) cũng được  
phát triển trong đó các dịch vụ tích hợp được cung cấp với các thiết bị đầu cuối được số  
hoá. Ngoài ra, do các loại dịch vụ viễn thông được đưa ra ngày càng trở nên phong phú,  
một phạm vi rộng lớn các loại thiết bị đầu cuối, một trong 3 phần quan trọng mạng lưới viễn  
thông, chủ yếu là, các thiết bị đầu cuối, đường truyền dẫn và các thiết bị tổng đài, hiện nay  
được sử dụng rộng rãi. Hầu hết các thiết bị đầu cuối công cộng hiện nay đều được thiết kế  
để vận hành càng dễ dàng càng tốt, tuy nhiên một số các thiết bị đầu cuối này gọi là các  
thiết bị đầu cuối tích hợp, được trang bị với các tính nǎng tiên tiến dùng cho các dịch vụ đặc  
biệt. Từ đó, việc sử dụng truyền thông sẽ trở nên đa dạng hoá hơn, việc cố gắng phát  
triển công nghệ phù hợp cho các mục đích đó cũng sẽ được thực hiện.  
1.2 Lịch sử phát triển công nghệ viễn thông điện tử  
Trong suốt lịch sử của loài người, việc phát minh ra ngôn ngữ cuộc cách mạng truyền  
thông lớn nhất đầu tiên. Sau đó ít lâu con người phát sinh ra tín hiệu bằng lửa khả nǎng  
truyền đạt các thông tin có hiệu quả và nhanh chóng tới các vùng xa. Câu truyện lịch sử cho  
thấy vào khoảng nǎm 1000 trước công nguyên, các đội quân Hy Lạp sử dụng phương pháp  
này để thông báo các chiến thắng của họ cho các công dân đang nóng lòng của Hy Lạp.  
Trong một thời gian dài, phương pháp này đã được sử dụng một cách rộng rãi để đáp ứng  
các nhu cầu về truyền thông. Một cuộc cách mạng thông tin khác nữa lớn hơn đã xảy ta khi  
con người biết được làm thế nào để ghi lại ý nghĩ tư tưởng của mình bằng cách dìng  
cách dùng các chữ viết. Với khả nǎng này, con người khả nǎng truyền thông tin mà  
không bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Đồng thời, việc phát minh này đã đưa ta các  
dịch vụ đưa thư và thông báo. Hoàng đế Rô-ma đã thể truyền đi thông tin cần thiết đến  
các vùng xa đến 160 km cách xa thành Rôm trong một ngày bằnghệ thống (mạng lưới)  
đường bộ họ đã xây dựng nên trong toàn quốc. Việc phát minh ta công nghệ in đã thúc đẩy  
hơn nữa việc phát triển các phương tiện truyền tin và cho con người khả nǎng thông tin  
với nhiều người hơn với các khu vực ở cách xa nhau.  
Từ cuối thế kỷ 18 đến thế kỷ 19, công nghệ phát thanh và truyền thông bằng điện đã được  
phát triển bắt đầu được dùng rộng khắp. Đài phát thanh và truyền hình được phát minh  
thời gian này đã làm thay đổi thế giới chúng ta rất nhiều. Trong phần tiếp theo, các phát  
minh lớn khác và những phát hiện liên quan đến công nghệ thông tin điện tử đã xảy ra trong  
suốt 160 nǎm qua cũng như xu hướng phát triển của chúng ở tương lai đã được thảo luận  
một cách ngắn gọn. Nǎm 1820, Georgo Ohm đã đưa ta công thức phương trình toán học để  
giải thích các tín hiệu điện chạy qua một dây dẫn rất thành công. Và nǎm 1830, Michall  
Faraday đã tìm ta định luật dẫn điện từ trường. Nǎm 1850, đại số Boolean của George  
Boolers đã tạo ta nền móng cho lôgíc học và phát triển các rơ-le điện. Chính vào khoảng  
thời gian này khi các đường cáp đầu tiên xuyên qua Đại Tây Dương để đánh điện tín được  
lắp đặt. James Clerk Maxwell đã đưa ra học thuyết điện từ trường bằng các công thức toán  
học nǎm 1870. Cǎn cứ vào học thuyết này, Henrich Hertz đã truyền đi nhận được sóng  
tuyến thành công bằng cách dùng điện trường lần đầu tiên trong lịch sử. Tổng đài điện  
thoại đầu tiên được thiết lập đầu tiên nǎm 1876 ngay sau khi Alexander Graham Bell phát  
minh ra điện thoại. 5 nǎm sau, Bell bắt đầu dịch vụ gọi điện thoại đường dài giữa New York  
và Chicago và Guglieno Mareconi của Italia đã lắp đặt một trạm phát sóng vô tuyến để phát  
các tín hiện điện tín. Trong thế kỷ 21 việc phát triển và áp dụng có tính thực tế về công nghệ  
liên quan đang tiếp tục phát triển nhanh chóng và trong quá trình đó, cách mạng hoá thế  
giới chúng ta. Nǎm 1900, Einstein, một nhà vật nổi tiếng về học thuyết tương đối, đã viết  
rất nhiều tài liệu quan trọng về vật chất rắn, thồng học, điện từ trường, cơ học  
lượng tử. Vào khoảng thời gian này phòng tnghiệm Bell của Mỹ đã phát minh và sáng  
chế ra ống phóng điện cực cho các kính thiên vǎn xoay được và Le de Forest trở thành  
người khởi xướng trong lĩnh vực vi mạch điện tử thông qua phát minh của ông ta về một  
ống chân không ba cực. Việc này được tiếp theo bằng phát minh một hệ thống tổng đài  
tương tự tự động khả nǎng hoạt động không cần bảng chuyển mạch. Nǎm 1910,  
Erwin Schrodinger đã thiết lập nền tảng cho cơ học lượng tử thông qua công bố của ông ta  
về cân bằng sóng để giải thích cấu tạo nguyên tử và các đặc điểm của nguyên tử và R.H  
Goddard đã chế tạo thành công tên lửa bay bằng phản lực chất lỏng, và máy tê-lê-típ đã  
được phát minh. Đồng thời, vào khoảng thời gian này, phát thanh công cộng được bắt đầu  
bằng cách phát sóng. Nǎm 1920, Ha rold S. Black của phòng thí nghiệm nghiên cứu Bell đã  
phát minh ra một máy khuếch đại phản hồi âm bản mà ngày nay vẫn còn dùng trong lĩnh  
vực viễn thông và công nghệ máy điện toán. V.K. Zworykin của RCA, Mỹ đã phát minh ra  
đèn hình bằng điện cho vô tuyến truyền hình, và các cáp đồng trục, phương tiện truyền dẫn  
hiệu quả hơn các loại dây đồng bình thường, đã được sản xuất. Nǎm 1939, dịch vụ phát  
sóng truyền hình thường xuyên được bắt đầu lần đầu tiên trong lịch sử nǎm 1930,  
Claude Schannon của phòng thí nghiệm Bell, bằng cách sử dụng các công thức toán học  
tiên tiến đã thành công trong việc đặt ra học thuyết thông tin dùng để xác định lượng thông  
tin tối đa một hệ thống viễn thông có thể xử lý vào một thời điểm đã định. Học thuyết  
này đã được phát triển thành học thuyết truyền thông số. Đồng thời, ra-đa đã được phát  
minh trong thời kỳ này. Nǎm 1940, phòng thí nghiệm Bell đã đặt nền móng cho các chất bán  
dẫn độ tích hợp cao ngày nay qua việc phát minh ra đèn ba cực và Howard Aiken của  
đại học Harvrd, cùng cộng tác với IBM, đã thành công trong việc lắp đặt một máy điện đầu  
tiên có kích thước là 50feet và 8feet. Sau đó ít lâu, J. Presper Ecker và John W. Mauchly  
của đại học Pennsylvania lần đầu tiên đã phát triển máy điện toán phân tách gọi là ENIAC.  
Von Neuman dựa vào máy này, đã phát triển thành công sau đó máy điện toán có lưu giữ  
chương trình. PCBs được đưa ra vào những nǎm 50, đã làm cho việc tích hợp các mạch  
điện tử thể thực hiện được. Cùng trong nǎm đó, RCA đã phóng thành công vệ tinh nhân  
tạo vào không trung và la-re dùng cho truyền thông quang học đã được phát minh. Vào  
những nǎm 60, các loại LSIs, các máy điện toán mini có bộ nhớ kiểu bong bóng, cáp quang,  
và máy phân chia thời gian được phát triển thương mại hoá một cách thành công vào  
các nǎm 70, các loại CATVs hai hướng, đĩa Video, máy điện toán đồ hoạ, truyền ảnh qua  
vệ tinh, và các hệ thống tổng đài điện tử hoá toàn bộ được đưa ra.  
2. Công nghệ chuyển mạch  
2.1 Khái quát chung  
2.1.1 Nhu cầu đối với hệ thống chuyển mạch  
Máy điện tín được Samuel F.B Morse phát minh nǎm 1837, lần đầu tiên trong lịch sử, các  
tín hiệu điện đã được sử dụng để truyền tin; các số liệu được mã hoá được dùng như một  
phương tiện truyền dẫn. Việc truyền tiếng nói trở thành có thể thực hiện được khi Alexander  
Graham Bell phát minh ra điện thoại nǎm 1876. Nói chung, việc truyền thông tin đề cập đến  
quá trình chuyển thông tin từ người phát thông tin đến người sử dụng. Thông tin được xác  
định là các tư tưởng và các số liệu cần thiết cho người sử dụng. Đồng thời, một số phương  
tiện truyền tin đã được sử dụng trong suốt lịch sử loài người. Loại tín hiệu lửa đã được  
dùng rộng khắp trong quá khứ một dụ điển hình. Tuy nhiên, vì nhu cầu về các dịch vụ  
truyền thông chất lượng cao và đáng tin cậy càng tǎng lên, con người bắt đầu dùng điện  
thay cho lửa để làm phương tiện truyền thông quan trọng nhất. Trong tương lai gần, người  
ta dự định là ánh sáng sẽ thay thế điện để làm phương tiện chính. Hệ thống truyền thông đề  
cập đến một số thiết bị hay các bộ phận sử dụng để cho phép người cấp tin chuyển thông  
tin cho người sử dụng; các bộ phận này hay thiết bị được phân loại thành các hệ thống  
truyền tin phân tán và hệ thống truyền thông tổng đài như ghi Hình 2.1. Trong trường hợp  
đầu, người cấp tin chỉ cấp thông tin trong đó người sử dụng chỉ nhận được thông tin truyền  
đi. Một trong các ví dụ rõ ràng cho các loại này bao gồm đài phát thanh và vô tuyến  
truyền hình.  
Hệ truyền thông phân tán  
Đài và vô tuyến, truyền hình v.v.  
Hệ truyền thông tổng đài  
Hệ truyền thông  
Mạng lưới truyền thông điện thoại v.v.  
Hình 2.1. Phân loại các hệ thống truyền thống.  
Trong hệ truyền thông tổng đài, người cấp thông tin và dùng thông tin chưa được xác định  
hệ thống sử dụng khả nǎng cung cấp sử dụng thông tin vào cùng một thời gian. Ví  
dụ cho việc này là hệ thống truyền thông điện thoại. Hệ truyền thông tổng đài đề cập đến  
quá trình chọn lựa chọn những người đang ở cách xa nhau hoặc giữa các máy đặt cách  
biệt nhau và sau đó giao tiếp với nhau bằng tiếng nói hoặc bằng các số liệu. Để phân tích  
một cách có hiệu quả, thì các điều kiện sau đây phải được đáp ứng.  
Trước hết, chọn một bên nhận thông tin và sau đó chọn đường giao tiếp, một hệ tổng đài  
được dùng cho mục đích này. Các loại hệ tổng đài hiện thể để truyền tin bao gồm các  
hệ tổng đài điện tử chủ yếu dùng cho các dịch vụ điện thoại và các hệ chuyển mạch số liệu  
dùng để truyền số liệu.  
Thứ hai, các hệ truyền dẫn được dùng để truyền thông tin các mức chất lượng thể  
chấp nhận được không kể đến khoảng cách cần phải được đảm bảo. Hiện vay các hệ thống  
truyền dẫn bằng dây như các loại cáp cân bằng, cáp đồng trục, sợi quang và các hệ thống  
truyền dẫn không dây (vô tuyến) sử dụng các sóng cực ngắn đang được dùng rộng rãi.  
Thứ ba, các mạng lưới truyền tin phải được thiết lập có xem xét đến việc bố trí hệ tổng đài  
đường truyền dẫn, chất lượng giao diện tổng thể, và duy trì chất lượng truyền dẫn, ngoài  
ra, mạng lưới tuyến được lập ra, phân phối sự mất đường truyền, kế hoạch đánh số, các  
vấn đề liên quan đến tính cước phải được thiết kế theo nhu cầu của người sử dụng. Các hệ  
thống truyền thông tổng đài đã tiếp tục được nâng cấp một cách nhanh chóng kể từ khi phát  
minh ra hệ thống điện thoại cách đây gần 100 nǎm. Về cơ bản, tất cả các hệ thống đó đều  
cần máy điện thoại để chuyển các tín hiệu tiếng nói thành tín hiệu điện ngược lại cũng  
như các hệ truyền dẫn để truyền các tín hiệu điện. Một mạng lưới truyền tin có thể được  
xây dựng bằng cách nối trực tiếp các thuê bao cung cấp nhận thông tin qua mạng lưới  
khi số lượng thuê bao này chưa phải nhiều quá. Ví dụ, được minh hoạ ở (a) của hình 2.2,  
8C2=28 đường cần thiết trong trường hợp ở đó chỉ có 8 thuê bao được đǎng ký trong hệ  
thống. Tuy nhiên, khi sử dụng hệ tổng đài với chức nǎng giao tiếp giữa các thuê bao như  
trình bày (b) hình 2.2 số các đường điện thoại cần thiết phải bằng với số thuê bao đã  
đǎng ký trong hệ thống. Như đã trình bày, điều quan trọng thiết lập các mạng lưới thông tin  
một cách kinh tế và có hiệu quả.  
Hình 2.2. Các phương pháp của mạng chuyển mạch cho 8 thuê bao  
2.1.2 Phát triển công nghệ chuyển mạch  
Hệ tổng đài dùng nhân công gọi loại dùng điện từ được xây dựng ở New Haven của Mỹ  
nǎm 1878 là tổng đài thương mại thành công đầu tiên trên thế giới. Để đáp ứng yêu cầu  
ngày càng tǎng về các dịch vụ điện thoại một cách thoả đáng để kết nối nhanh cán cuộc  
nối chuyện và vì mục đích an toàn cho các cuộc gọi, hệ tổng đài tự động không cần có nhân  
công được A.B Strowger của Mỹ phát minh 1889. Version cải tiến của mô hình này, gọi là  
hệ tổng đài kiểu Strowger trở thành phổ biến vào các nǎm 20. Trong hệ tổng đài Strowger,  
các cuộc gọi được kết nối liên tiếp tuỳ theo các số điện thoại trong hệ thập phân và do đó  
được gọi hệ thống gọi theo từng bước. EMD (Edelmatall-Drehwahler) do công ty  
Siemens của Đức phát triển cũng thuộc loại này; hệ thống này còn được gọi hệ tổng đài  
vì các chuyển mạch của được vận hành theo nguyên tắc cơ điện.  
Do đại chiến thế giới thứ II bùng nổ, sự cố gắng lập nên các hệ tổng đài mới bị tạm thời  
đình chỉ. Sau chiến tranh, nhu cầu về các hệ tổng đài khả nǎng xử lý các cuộc gọi đường  
dài tự động và nhanh chóng đã tǎng lên. Phát triển loại hệ tổng đài này yêu cầu phải sự  
tiếp cận mới hoàn toàn bởi cần phải giải quyết các vấn đề phức tạp về tính cước việc  
truyền cuộc gọi tái sinh yêu cầu phải xử nhiều khâu. Ericsson của Thuỵ Điển đã khả  
nǎng xử vấn đề này bằng cách phát triển thành công hệ tổng đài có các thanh cheó  
(Cross bar). Hệ tổng đài có các thanh chéo được đặc điểm hoá bởi việc tách hoàn toàn việc  
chuyển mạch cuộc goị và các mạch điều khiển được phát triển đồng thời ở Mỹ. Đối với  
mạch chuyển mạch chéo, loại thanh chéo kiểu mở /đóng được sử dụng; bằng cách sử dụng  
loại chuyển mạch này có một bộ phận mở/đóng với điểm tiếp xúc được giáp vàng, các đặc  
tính của cuộc gọi được cải tiến rất nhiều. Hơn nữa, một hệ điều khiển chung để điều khiển  
một số các chuyển mạch vào cùng một thời điểm được sử dụng. Đó là các xung quay số  
được dồn lại vào các mạch nhớ và sau đó được xác định kết hợp trên cơ sở của các số đã  
quay được ghi lại để lựa chọn mạch tái sinh.  
Nǎm 1965, Một hệ tổng đài điện tử thương mại có dung lượng lớn gọi hệ ESS số 1 được  
thương mại hoá thành công ở Mỹ do vậy đã mở ra một kỷ nguyên mới cho các hệ tổng đài  
điện tử. Không giống với các hệ tổng đài thông thường sử dụng các chuyển mạch cơ, hệ  
thống ESS số 1 là hệ tổng đài sử dụng các mạch điện tử. Việc nghiên cứu loại hệ tổng đài  
này đã được khởi đầu từ đầu những nǎm 40 và được xúc tiến nhanh sau khi có phát minh  
ra đèn ba cực vào những nǎm 50. Hệ tổng đài điện tử mới được phát triển khác về cơ bản  
với các hệ thông thường ở điểm là trong khi hệ sau này sử dụng mạch điều khiển chuyển  
mạch dùng các lô-gíc kiểu dây thì hệ trước đây dùng các thao tác logic bằng các phương  
tiện phần mềm lắp đặt trong hệ thống. Ngoài ra, hệ tổng đài điện tử mới triển khai tạo được  
sự điều khiển một cách linh hoạt bằng cách thay thế phần mềm cho phép người sử dụng có  
dịch vụ mới. Đồng thời, để vận hành và bảo dưỡng tốt hơn, tổng đài này được trang bị chức  
nǎng rự chẩn đoán. Tầm quan trọng việc trao đổi thông tin và số liệu một cách kịp thời và có  
hiệu quả đang trở nên quan trọng hơn khi xã hội tiến đến thế kỷ 21. Để đáp ứng đầy đủ một  
phạm vi rộng các nhu cầu của con người sống trong giai đoạn đầu của kỷ nguyên thông tin,  
các dịch vụ mới như dịch vụ truyền số liệu, dịch vụ truyền hình bao gồm cả dịch vụ điện  
thoại truyền hình, các dịch vụ truyền thông di động đang được phát triển thực hiện.  
Nhằm thực hiện hiệu quả các dịch vụ này, IDN (mạng lưới số tích hợp) khả nǎng kết  
hợp công nghệ chuyển mạch truyền dẫn thông qua qui trình sử số một điều kiện tiên  
quyết. Ngoài ra, việc điều chế xung mã (PCM) được dùng trong các hệ thống truyền dẫn đã  
được áp dụng cho các hệ thống chuyển mạch để thực hiện việc chuyển mạch số. Dựa vào  
công nghệ PCM này, một mạng đa dịch vụ số (ISDN) có thể xử nhiều luồng với các dịch  
vụ khác nhau đang được phát triển hiện nay.  
2.1.3 Các chức nǎng của hệ thống tổng đài  
Mặc dù các hệ thống tổng đài đã được nâng cấp rất nhiều từ khi nó được phát minh ra, các  
chức nǎng cơ bản của như xác định các cuộc gọi của thuê bao, kết nối với thuê bao bị  
gọi và sau đó tiến hành việc phục hồi lại khi các cuộc gọi đã hoàn thành, hầu như vẫn như  
cũ. Hệ tổng đài dùng nhân công tiến hành các quá trình này bằng tay trong khi hệ tổng dài  
tự động tiến hành các việc này bằng các thiết bị điện.  
Trong trường hợp đầu, khi một thuê bao gửi đi một tín hiệu thoại tới một tổng đài, nhân viên  
cắm nút trả lời của đường dây bị gọi vào ổ cắm của dây chủ gọi để thiết lập cuộc gọi với  
phía bên kia. Khi cuộc gọi đã hoàn thành, người vận hành rút dây nối ra và đqa về trạng  
thái ban đầu. Hệ tổng đài nhân công được phân loại thành lloại điện từ hệ dùng ǎc-qui  
chung. Đối với loại dùng điện từ, thì thuê bao lắp thêm cho mỗi ǎc-qui một nguồn cấp điện.  
Các tín hiệu gọi và tín hiệu hoàn thành cuộc gọi được gửi đến người thao tác viên bằng  
cách sử dụng từ trường. Đối với hệ dùng ắc qui chung, nguồn điện được cung cấp chung  
và các tín hiệu gọi và tín hiệu hoàn thành cuộc gọi được đơn giản chuyển đến người thao  
tác viên thông qua các đèn. Đối với hệ tổng đài tự động, các cuộc gọi được phát ra và hoàn  
thành thông qua các bước sau:  
1) Nhận dạng thuê bao chủ gọi: Xác định khi thuê bao nhấc ống nghe và sau đó cuộc gọi  
được nối với mạch điều khiển.  
2) Tiếp nhận số được quay: Khi đã được nối với mạch điều khiển, thuê bao chủ gọi bắt đàu  
nghe thấy tín hiệu mời quay số và sau đó chuyển số điện thoại của thuê bao bị gọi. hệ tổng  
đài thực hiện các chức nǎng này.  
3) Kết nối cuộc gọi: Khi các số quay được ghi lại, thuê bao bị gọi đã được xác định, thì hệ  
tổng đài sẽ chọn một bộ các đường trung kế đến tổng đài của thuê bao bị gọi và sau đó  
chọn một đường rỗi trong số đó. Khi thuê bao bị gọi nằm trong tổng đài nội hạt, thì một  
đường gọi nội hạt được sử dụng.  
4) Chuyển thông tin điều khiển: Khi được nối đến tổng đài của thuê bao bị gọi hay tổng đài  
trung chuyển, cả hai tổng đài trao đổi với nhau các thông tin cần thiết như số thuê bao bị  
gọi.  
5) Kết nối trung chuyển: Trong trường hợp tổng đài được nối đến tổng đài trung chuyển,  
mục 3) và 4) trên đây được nhắc lại để nối với trạm cuối và sau đó thông tin như số thuê  
bao bị gọi đưọc truyền đi.  
6) Kết nối tại trạm cuối: Khi trạm cuối được đánh giá là trạm nội hạt dựa trên số của thuê  
bao bị gọi được truyền đi, thì bộ điều khiển trạng thái máy bận của thuê bao bị gọi được tiến  
hành. Nếu máy không ở trạng thái bận, thì một đường nối được nối với các đường trung kế  
được chọn để kết nối cuộc gọi.  
7) Truyền tín hiệu chuông: Để kết nối cuộc gọi tín hiệu chuông được truyền chờ cho đến  
khi có trả lời từ thuê bao bị gọi. Khi trả lời, tín hiệu chuông bị ngắt trạng thái được chuyển  
thành trạng thái máy bận.  
8) Tính cước: Tổng đài chủ gọi xác định câu trả lời của thuê bao bị gọi nếu cần thiết, bắt  
đầu tính toán giá trị cước phải trả theo khoảng cách gọi và theo thời gian gọi.  
9) Truyền tín hiệu báo bận: Khi tất cả các đường trung kế đều đã bị chiếm theo các bước  
trên đây hoặc thuê bao bị gọi bận, thì tín hiệu bận được truyền đến cho thuê bao chủ gọi.  
10) Hồi phục hệ thống: Trạng thái này được xác định khi cuộc gọi kết thúc. Sau đó, tất cả  
các đường nối đều được giải phóng.  
Như vậy, các bước cơ bản do hệ thống tổng đài tiến hành để xử lý các cuộc gọi đã dược  
trình bày ngắn gọn. Trong hệ thống tổng đài điện tử, nhiều đặc tính dịch vụ mới được thêm  
vào cùng với các chức nǎng trên. Những điều này sẽ được bàn thêm sau này.  
Các điểm cơ bản sau đây phải được xem xét khi thiết kế các chức nǎng này.  
1) Tiêu chuẩn truyền dẫn: mục đích đầu tiên của việc đấu nối điện thoại truyền tiếng nói  
và theo đó một chỉ tiêu của việc truyền dẫn để đáp ứng chất lượng gọi phải được xác  
định bằng cách xem xét sự mất mát khi truyền, độ rộng dải tần số truyền dẫn, tạp âm.  
2) Tiêu chuẩn kết nối: điều này liên quan đến vấn đề duy trì dịch vụ đấu nối cho các thuê  
bao. Nghĩa là, đó chỉ tiêu về các yêu cầu đối với các thiết bị tổng đài số các đường  
truyền dẫn nhằm bảo đảm chất lượng kết nối tốt. Nhằm mục đích này, một nạng lưới tuyến  
linh hoạt khả nǎng xử đường thông có hiệu quả với tỷ lệ cuộc gọi bị mất ít nhất phải  
được lập ra.  
3) Độ tin cậy: các thao tác điều khiển phải được tiến hành phù hợp, đặc biệt các lỗi xuất  
hiện trong hệ thống với các chức nǎng điều khiển tập trung có thể gặp phải hậu quả nghiêm  
trọng trong thao tác hệ thống. Theo đó, hệ thống phải được chức nǎng sửa chữa bảo  
dưỡng hữu hiệu bao gồm việc chẩn đoán lỗi, tìm và sửa chữa.  
4) Độ linh hoạt: số lượng các cuộc gọi thể xử lý thông qua các hệ thống tổng đài đã tǎng  
lên rất nhiều và nhu cầu nâng cấp các chức nǎng hiện nay đã tǎng lên. Do đó, hệ thống  
phải đủ linh hoạt để mở rộng sửa đổi được.  
5) Tính kinh tế: Do các hệ tổng đài điện thoại cơ sở cho việc truyền thông đại chúng,  
chúng phải hiệu quả về chi phí và có khả nǎng cung cấp các dịch vụ thoại chất lượng  
cao. Cǎn cứ vào các xem xét trên đây, một số loại tổng đài tự động đã được triển khai và  
lắp đặt kể từ khi nó được đưa vào lần đầu tiên.  
2.2 Chuyển mạch cuộc gọi  
2.2.1 Phân loại chuyển mạch cuộc gọi  
nhiều loại chuyển mạch cuộc gọi bao gồm các chuyển mạch loại cơ điện điện tử  
được sử dụng trong các tổng đài. Chúng có thể được phân loại rộng lớn thành các loại  
chuyển mạch phân chia không gian và các loại chuyển mạch ghép.  
Hình 2.4. Chuyển mạch xoay kiểu đứng.  
A. Loại chuyển mạch phân chia không gian  
Các chuyển mạch phân chia không gian thực hiện việc chuyển mạch bằng cách mở/đóng  
các cổng điện tử hoặc các điểm tiếp xúc được bố trí theo cách quǎng nhau như các chuyển  
mạch xoay và các chuyển mạch có thanh chéo. Loại chuyển mạch này được cấu tạo bởi  
các bộ phận sau:  
1) Chuyển mạch cơ kiểu chuyển động truyền  
1. Chuyển mạch cơ kiểu mở/đóng  
2. Chuyển mạch cơ kiểu rơ-le điện từ  
3. Chuyển mạch điện tử kiểu chia không gian  
Như được trình bày hình 2.3 và 2.4, loại chuyển mạch cơ kiểu chuyển động truyền loại  
chuyển mạch thực hiện việc vận hành cơ tương tự như chuyển mạch xoay. Chuyển mạch  
lựa chọn dây rỗi trong quá trình dẫn truyền tiến hành chức nǎng điều khiển ở mức nhất  
định. Do tính đơn giản của nó, nó được sử dụng rộng rãi trong các hệ thống tổng đài tự  
động đầu tiên phát triển. Tuy nhiên, do tốc độ thực hiện chậm, sự mòn các điểm tiếp xúc, và  
thay đổi các hạng mục tiếp xúc gây ra do việc rung động cơ học, ngày nay nó ít được sử  
dụng. Loại chuyển mạch cơ kiểu mở/đóng đã được phát triển để cải tiến yếu điểm của công  
tắc cơ kiểu chuyển động truyền bằng cách đơn giản hoá thao tác cơ học thành thao tác  
mở/đóng. Loại chuyển mạch này không có chức nǎng điều khiển lựa chọn được thực  
hiện theo giả thuyết mạch gọi mạch điều khiển là hoàn toàn tách riêng nhau. Như vậy,  
với khả nǎng cung cấp điều khiển linh hoạt, được dùng rộng rãi hiện nay và được coi là  
chuyển mạch tiêu chuẩn, loại được sử dụng nhiều nhất loại chuyển mạch thanh chéo.  
Chuyển mạch kiểu rơ-le điện tử loại chuyển mạch rơ-le điện tử ở mỗi điểm cắt của  
chuyển mạch loại thanh chéo. Đối với chuyển mạch cơ loại mở/đóng được tả trên đây,  
thì thao tác mở/đóng được thực hiện nhờ việc định điểm cắt thông qua thao tác cơ học theo  
chiều đứng/chiều ngang trong khi chuyển mạch kiểu rơ-le điện tử, thì điểm cắt thể được  
lựa chọn theo hướng của luồng điện trong cuộn dây của rơ-le.  
vậy về nguyên tắc các thao tác cơ học cũng như việc mở/đóng của các điểm tếp xúc thể  
được tiến hành nhanh chóng hơn.  
Chuyển mạch điện tử hiểu phân chia không gian có một cộng điện tử ở mỗi điểm cắt của  
chuyển mạch có thanh cắt chéo. Nó có những bất lợi sau đây so với loại chuyển mạch điểm  
tiếp xúc; không tương thích với phương pháp do có sự khác nhau về mức độ tín hiệu  
hoặc chi phí và các đặc điểm thoại khá xấu bao gồm cả hiện tượng mất cuộc gọi và xuyên  
âm.  
Theo đó, trừ trường hợp đặc biệt, chưa đưlợc sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên, do các mạch  
điện tử như các ICs hay các LSIs trở nên tích hợp hơn, dự kiến chúng được sử dụng nhiều  
hơn trong tương lai gần đây.  
B. Chuyển mạch ghép  
Các loại chuyển mạch ghép được vận hành trên cơ sở công nghệ truyền tải tập trung được  
sử dụng rộng rãi trong hệ thống truyền dẫn. Các chuyển mạch này có cùng chung một cổng  
để hiệu quả và kinh rế cao hơn. Có các loại chuyển mạch ghép phân chia thời gian để  
ghép các cuộc gọi dựa vào thời gian và chuyển mạch ghép phân chia tần số để ghép các  
cuộc gọi trên cơ sở tần số.  
Nguyên lý sử dụng cho loại chuyển mạch phân chia thời gian là nó tách nhịp thông tin có  
pha đã định bằng cách sử dụng ma trận nhịp có pha thay đổi trong khi nguyên lý dùng cho  
phương pháp phân chia tần số là tách các tín hiệu có các tần số cần thiết bằng cách sử  
dụng bộ lọc thể thay đổi. Phương pháp chia tần số được biết là có các vấn đề kỹ thuật  
như việc phát sinh các loại tần số khác nhau và việc cung cấp ngắt các tần số này  
cũng như bộ lọc thể thay đổi. Đồng thời nó không kinh tế. Theo đó, phương pháp này  
được nghiên cứu rộng rãi trong thời kỳ đầu của sự phát triển hệ thống tổng đài điện tử  
nhưng chưa được vào sử dụng cho hệ tổng đài phân tải. Mặt khác, phương pháp phân chia  
thời gian được đề nghị vào thời kỳ đầu phát triển hệ tổng đài điện tử và nó đang được  
nghiên cứu tiếp ngày nay. Phương pháp điều chế này được phân loại thêm thành điều chế  
theo biên độ xung (PAM) tiến hành bằng chuyển mạch PAM và điều chế xung mã được  
thực hiện nhờ chuyển mạch PCM. Mỗi chuyển mạch được phân loại thêm như sau.  
Hình 2.5. Phân loại chuyển mạch ghép.  
Đã mất nhiều thời gian để phát triển thành công chuyển mạch PAM. Khi được đưa ra, do  
thiết kế đơn giản của nó, chuyển mạch PAM được sử dụng cho hệ tổng đài có dung lượng  
loại vừa. dụ cụ thể của nó là ESS kiểu 101, một loại PBX điều khiển từ xa được dùng ở  
Mỹ cho các mục đích đặc biệt vì nó chưa phù hợp cho các hệ thống tổng đài dung lượng  
lớn với những vấn đề của về các đặc điểm thoại như tạp âm và xuyên âm. Đồng thời, vì  
nó là loại tương tự, tương lai của nó là không rõ ràng. Chuyển mạch PCM được dự kiến là  
một trong các thành phần chính của IDN hay ISDN để xử nhiều loại thông tin cùng một  
lúc bao gồm cả số liệu.  
Mạng số tích hợp kết hợp hệ truyền dẫn hệ chuyển mạch thông qua sử dụng công nghệ  
PCM. Do phương pháp này sử dụng mạch số, được dự định được vi mạch hoá trực tiếp  
trong tương lai gần đây. Khi sử dụng loại chuyển mạch này, việc chuyển mạch được tiến  
hành trong giai đoạn dồn kênh theo các đặc tính thoại ổn định của PCM. Do vậy, bởi vì  
chuyển mạch rơ-le nhiều mức thể thực hiện được nhờ sử dụng chuyển mạch này, một  
mạng lưới truyền thông mới thể được thiết lập dễ dàng thông qua việc dùng loại chuyển  
mạch nay. Như đã được trình bày, phương pháp này sẽ được sử dụng rộng rãi trong tương  
lai.  
2.2.2 Chuyển mạch PCM.  
Chuyển mạch PCM là loại chuyển mạch ghép hoạt động dựa vào công nghệ dồn kênh chia  
thời gian và điều chế xung mã. PCM là phương pháp truyền biên độ của PAM sau khi đã  
lượng hoá nó và sau đó biến đổi nó thành ra mã nhị phân. Theo đó, việc tái mã hoá có thể  
được tiến hành dễ dàng vì nó có thể dễ dàng phân biệt được với các tín hiệu ngay cả khi có  
tạp âm và xuyên âm trong đường truyền dẫn. Ngoài ra, để thực hiện chuyển mạch phân  
chia thời gian có thể dùng, các chuyển mạch thời gian để trao đổi khe thời gian và chuyển  
mạch phân chia thời gian để trao đổi theo không gian các khe thời gian được phân chia  
theo thời gian.  
A. Chuyển mạch T  
Các số liệu đưa vào được nạp vào các khe thời gian trong một khung (frame). Để kết nối  
một đường thoại, thông tin các khe thời gian được gửi từ bên đầu vào của mạch chuyển  
mạch đến phía đầu ra. Mỗi một đường thoại được định hình với một khe thời gian cụ thể  
trong một luồng số liệu cụ thể. Theo đó mạch chuyển mạch thay đổi một khe thời gian của  
một luồng số liệu cụ thể đến khe thời gian của một luồng số liệu khác. Quá trình này được  
gọi là quá trình trao đổi các khe thời gian. hình 2.6 mô tả qui trình chuyển mạch các khe  
thời gian. Khe thời gian đưa vào được ghi lại tạm thời trong bộ nhớ đệm. Như thể hiện trên  
hình vẽ, các khe thời gian đưa vào được lưu giữ ở địa chỉ 1 (address 1) đến chỉ x (address  
x) của khung thể hiện luồng đầu vào. Số liệu của khe thời gian 1, khe thời gian 2, và khe  
thời gian X được lưu giữ lại ở các từ thứ nhất, thứ hai và thứ X tương ứng. Vào lúc này, số  
liệi của mỗi frame đã được thay thế bởi số liệu mới một lần.  
Chức nǎng chuyển mạch khe thời gian liên quan đến việc chuyển mạch từ một khe thời  
gian được đưa vào đến khe thời gian được lựa chọn ngẫu nhiên được đưa ra. Ví dụ, nếu  
chuyển từ khe thời gian 7 của luồng đầu vào đến khe thời gian 2 của luồng đầu ra, thông tin  
từ thuê bao được ghi khe thời gian đưa vào số 7 được gửi đến thuê bao được chỉ thị  
bằng khe thời gian số 2 ở đầu ra.  
Hình 2.6. Qui trình chuyển mạch theo khe thời gian.  
sẵn cho loại qui trình này là phương pháp đọc ngẫu nhiên theo dãy ghi lần lượt (SWRR)  
trong đó các số liệu được ghi lần lượt từ phía đầu vào và được đọc một cách ngẫu nhiên từ  
phía đầu ra. Phương pháp đọc lần lượt ghi ngẫu nhiên (RWSR) là phương pháp ghi các số  
liệu một cách ngẫu nhiên từ phía đầu vào và đọc chúng theo trình tự ở phía đầu ra, còn  
phương pháp ghi ngẫu nhiên đọc ngẫu nhiên (RWRR) là viết đọc các số liệu một cách  
ngẫu nhiên.  
B. Chuyển mạch không gian  
Chức nǎng chuyển đổi khe thời gian giữa các khe thời gian đầu vào/đầu ra được giải thích  
ở phần trên chịu trách nhiệm cho chức nǎng chuyển mạch hoàn thiện đối với tất cả các khe  
thời gian. Bây giờ, nếu mạch chuyển mạch xử lý thuê bao M như một điểm cuối của khe  
thời gian đơn, thì càn có bộ nhớ số "M" được tạo bởi các từ được dùng ở tốc độ thích  
hợp. dụ, trong trường hợp tần số mẫu là 8 KHz, thì hệ thống có 128 khe thời gian có thể  
khả nǎng viết đọc các số liệu vào bộ nhớ mỗi 125 u giây/128=976 nano giây (nsec.).  
Tuy nhiên, nếu hệ thống trở nên lớn hơn, thì các yêu cầu về bộ nhớ tốc độ truy nhập có  
thể không đáp ứng nổi với công nghệ đang hiện nay. Ví dụ như, hệ thống với 16.384 khe  
thời gian có khả nǎng viết đọc các số liệu cho mỗi 76,3 nano giây (125u giây/16.384). Do  
vậy để tǎng hiệu suất của hệ thống, một phương pháp mở rộng dung lượng sử dụng các bộ  
phận tiêu chuẩn cần thiết. Một trong các phương pháp có sẵn cho mục đích này là việc  
đổi các khe thời gian trong một luồng khe thời gian tới các khe thời gian của một luồng khác  
bằng cách đấu nối qua lại các nhóm chuyển mạch khe thời gian với cổng lôgíc. Công nghệ  
này được gọi chuyển mạch phân chia không gian - thời gian sử dụng các thanh đấu chéo  
theo không gian. ở đây, thanh đấu chéo theo không gian tương tự như thanh quét sử dụng  
các tiếp điểm rơ-le trừ trường hợp yêu cầu một cổng logic vận hành ở tốc độ cao. Một thanh  
quét được phỏng với bên đầu vào của trục đứng và bên đầu ra của trục nằm ngang.  
Một cổng lôgic được dùng ở điểm cắt chéo của trục đứng trục nằm ngang. Sự tiếp xúc  
phù hợp được tiến hành thông qua việc kích hoạt cổng lôgic tương ứng trong thời hạn của  
khe thời gian và nhờ đó thông tin được truyền đi từ bên đầu vào đến phía đầu ra.  
Hình 2.7. Thanh cắt chéo không gian  
trong chuyển mạch phân chia thời gian.  
dụ, một khe thời gian trong luồng đầu vào liên tục có "K" các từ PCM khác nhau kích hoạt  
một cổng thích hợp để thực hiện việc chuyển mạch tới trục nằm ngang mong muốn. Đầu  
vào của trục đứng còn lại thể được nối với đầu ra của trục nằm ngang bằng cách kích  
hoạt một cách phù hợp các cổng tương ứng. Đồng thời, ở khe thời gian tiếp theo, một  
đường dẫn hoàn toàn khác với đường trước đó thể được lập ra.  
ở đây chú ý là các khe thời gian của trục đứng trục nằm ngang được phát sinh một cách  
tương ứng trong cùng một thời điểm và vì vậy ở thanh quét, việc chuyển khe thời gian  
không được thực hiện. Như trong trường hợp chuyển đổi khe thời gian, một bộ nhớ điều  
khiển có thông tin để kích hoạt các cổng tại các khe thời gian mong muốn cần thiết. Hệ  
thống thể có "m" các đầu vào và "n" các đầu ra được tả ở hình 2.7. "m" và "n" có thể  
giống nhau hoặc khác nhau tuỳ thuộc vào cấu hình của hệ để thực hiện việc tập trung,  
phân phối, và các chức nǎng mở rộng.  
vậy, đối với mạng chuyển mạch không gian, một thanh quét nhiều mức thể được sử  
dụng. Khi muốn gửi các tín hiệu từ đầu vào 1 đến đầu ra 2, cổng S21 phải được kích hoạt  
trong thời hạn của khe thời gian mong muốn. Nếu Sm1 được kích hoạt vào cùng thời gian  
đó, đầu vào "m" được gửi đến đầu ra 1. Như đã giải thích, một vài thanh quét có thể được  
kích hoạt đồng thời trong thời hạn của khe thời gian nhất định và vì vậy số các đường nối  
đồng thời thể được một trong hai số "m" hoặc "n" tuỳ theo số nào là nhỏ hơn.  
2.2.3 Phương pháp thiết lập mạng chuyển mạch kiểu phân chia thời gian  
Một mạng lưới thể được lập nên bằng các sử dụng một trong các chuyển mạch T,  
chuyển mạch S, hay phối hợp cả hai, theo đó mạng lưới thể được thiết lập như sau:  
Chuyển mạch T đơn  
Chuyển mạch S đơn  
Chuyển mạch T-S  
Chuyển mạch S-T  
Chuyển mạch T-S-T  
Chuyển mạch S-T-S  
Sự phối hợp phức tạp hơn của S và T  
A. T-S-T  
Cấu hình này cho phép hệ thống xử lý các cuộc gọi một cách không bị ngắt quãng do bị  
khoá như ở hình 2.8. Trong việc điều khiển mạng, việc lựa chọn khe thời gian ở đầu  
vào/đầu ra và khe thời gian ở chuyển mạch không gian là không liên quan đến nhau. Nghĩa  
là trong trường hợp của T-S-T, thì khe thời gian đầu vào có thể được đấu nối với khe thời  
gian đầu ra bằng cách dùng khe thời gian trong đường chéo của chuyển mạch không gian.  
Trong trường hợp khe thời gian 3 của đầu vào được xác định với các cuộc gọi phải đấu nối  
với khe thời gian 17 của đầu ta mong muốn để giải thích việc khóa trong mạng lưới số và  
đầu cuối không gian có thể cấp đường nối từ chiều dài đầu vào đến chiều rộng đầu ra, khe  
thời gian 3 và 17 phải được trao đổi với nhau. Như thế, việc đấu nối đạt được khi khe thời  
gian 3 của đầu vào và khe thời gian 17 của đầu ra còn rỗi. Vào lúc này chỉ thể được  
một đường thông, nếu khe thời gian 3 đã được dùng, khe thời gian 17 có thể được sử dụng  
nhưng vào lúc này các cuộc gọi đã bị khoá.  
Trong trường hợp mạng T-S-T, bộ biến đổi khe thời gian đầu vào có thể chon một trong các  
khe thời gian để sử dụng. Nếu hệ thống có 128 khe thời gian, khe thời gian đầu vào 3 có  
thể được nối với một khe thời gian bất kỳ của không gian trừ khe thời gian đầu vào 3. Theo  
đó trong trường hợp của T-S-T điều quan trọng phải tìm kiếm đường dây rỗi cũng như các  
khe thời gian sẽ sử dụng. Trong hầu hết các trường hợp, mạng lưới thể cung cấp ít nhất  
một hay nhiều đường để nối các khe thời gian đầu vào/đầu ra.  
Hình 2.8. Cấu trúc mạng T-S-T.  
S-T-S  
Trong trường hợp của S-T-S, quá trình tương tự như T-S-T được tiến hành. Trên hình 2.9,  
một mạng S-T-S được tả. Việc lựa chọn khe thời gian đầu vào/đầu ra được xác định  
bằng đường giao tiếp theo yêu cầu. Do bộ biến đổi khe thời gian có thể được thay đổi bằng  
cách dùng hai chuyển mạch không gian, độ linh hoạt của đầu nối được cải thiện. dụ, nếu  
khe thời gian 7 cần phải được nối đến khe thời gian 16, thì chỉ một yêu cầu duy nhất là  
khe thời gian đó phải khả nǎng trao đổi khe thời gian 7 và 16.  
Điều này có thể đạt được bằng cách sử dụng một trong các số "n" bất kỳ của thời gian. Các  
mạng lưới T-S-T và S-T-S có thể được thiết kế để có cùng khả nǎng kết nối cuộc gọi tỷ  
lệ khoá cuộc gọi. Việc này chứng tỏ tỷ lệ phân bố 1:1 được tiến hành giữa việc phân chia  
thời gian và phân chia không gian.  
Hình 2.9. Cấu trúc mạng S-T-S.  
2.3 Phương pháp điều khiển  
2.2.1 Phân loại phương pháp điều khiển  
Mặc dù có nhiều loại hệ thống tổng đài đang hiện nay, tất cả các hệ thống đó thể  
được phân loại như được ghi ở Bảng 2.1. Đầu tiên chúng có thể được phân loại theo  
phương pháp điều khiển mở/đóng của chuyển mạch cuộc gọi thành phương pháp điều  
khiển độc lập, phương pháp điều khiển chung, và phương pháp điều khiển theo chương  
trình lưu giữ.  
Điều khiển  
bằng chương trình  
Quá trình Điều khiển Điều khiển  
Các phương pháp  
đấu nối  
độc lập  
chung  
được lưu giữ  
Loại điều khiển  
trực tiếp  
0
0
x
x
Loại điều khiển  
0
0
gián tiếp  
0 : Có tồn tại  
x : Không có hiện nay trừ các trường hợp đặc biệt  
Bảng 2.1 Phân loại phương pháp điều khiển chuyển mạch.  
Phương pháp điều khiển độc lập còn được gọi phương pháp điều khiển đơn chiếc; Đây là  
phương pháp lựa chọn các đường nối khi mỗi chuyển mạch tiến hành một cách độc lập việc  
điều khiển lựa chọn mỗi chuyển mạch được trang bị bằng một mạch điều khiển. Bởi vì  
tính đơn giản của mỗi mạch phương pháp này được sử dụng rộng rãi cùng với phương  
pháp từng bước trong các hệ tổng đài đầu tiên được phát triển. Tuy nhiên, việc lựa chọn  
đường hiệu quả cho toàn bộ hệ thống là khó khǎn bởi phạm vi lựa chọn của mỗi mạch  
điều khiển phần nào đó bị giới hạn. Phương pháp điều khiển thông thường phương pháp  
tập trung các mạch điều khiển vào mỗi chỗ và sau đó theo dõi trạng thái đấu nối của toàn  
mạch để lựa chọn các đường nối. Khi sử dụng phương pháp này, các mạch điều khiển  
được tập trung để chia sẻ số lượng lớn các cuộc gọi cho nên khả nǎng của các mạch điều  
khiển rất lớn. Đồng thời các chức nǎng phức tạp thể được tiến hành một cách kinh tế.  
Hầu hết các hệ tổng đài kiểu cơ học phân chia không gian bao gồm cả hệ tổng đài thanh  
chéo cùng sử dụng phương pháp này. Phương pháp điều khiển theo chương trình được  
lưu giữ một trong các loại phương pháp điều khiển chung; chúng được tập trung khá cao  
độ về chức nǎng như thiết bị xử lý thông tin đa nǎng, tiến hành một số điều khiển  
đấu nối. Hầu hết các hệ tổng đài điện tử đang dùng hiện nay đều áp dụng phương pháp  
này. Các đầu vào điều khiển trực tiếp cho một hệ tổng đài là các xung quay số dược gửi  
đến từ các máy điện thoại. Các đặc điểm xử đấu nối thay đổi rất lớn tuỳ thuộc vào việc sử  
dụng các loại đầu vào này. Phương pháp điều khiển trực tiếp phương pháp trong đó các  
xung nhận được trực tiếp kích hoạt các mạch điều khiển nhằm để chọn các đường nối một  
cách liên tiếp. Khi áp dụng phương pháp này, việc vận hành có thể được tiến hành một  
cách đơn giản tuy nhiên cấu hình mạng lưới tuyến số quay, là đường nối, phải mối  
quan hệ tương đương 1-1. Theo đó, cấu hình mạng là ít linh hoạt khả nǎng thấp hơn. Do  
đó, phương pháp này là không phù hợp với hệ tổng đài có dung lượng lớn khả nǎng xử  
lý các cuộc gọi đường dài.  
Phương pháp điều khiển gián tiếp phương pháp tập trung các xung quay số vào mạch  
nhớ, đọc tất cả các số và sau đó lựa chọn các đường nối cuộc gọi thông qua việc đánh giá  
tổng hợp. Theo đó với phương pháp này được đặc tính hoá bởi dung lượng xử đường  
thông cao và có khả nǎng biến đổi các số gọi, tương đương, các số gọi và các đường nối  
thể được xác định độc lập để lập nên mạng lưới tuyến linh hoạt. Đặc biệt, chức nǎng này  
cần thiết để thể sử dụng một cách có hiệu quả các tuyến gọi đường dài. Tốc độ vận  
hành của mạch điều khiển trong các phương pháp điều khiển chung và điều khiển theo  
chương trình lưu giữ là nhanh hơn nhiều so với thao tác quay số. Theo đó các số đựoc  
quay được tập hợp lại trong một mạch nhớ tách biệt tạm thời nhằm để sử dụng mạch điều  
khiển tích hợp cao và sau đó chúng được đọc với tốc độ cực kỳ nhanh để điều khiển toàn  
bộ chúng ngay lập tức. Vì lý do này, hầu hết các hệ tổng dài sử dụng phương pháp điều  
khiển chung và điều khiển theo chương trình lưu giữ đều dùng phương pháp điều khiển  
gián tiếp loại trừ một số trường hợp trong thời kỳ ban đầu cuả quá trình phát triển.  
2.3.2 Phương pháp điều khiển độc lập  
Các hệ tổng đài theo từng bước như của Strowger hoặc hệ tổng đài EMD sử dụng phương  
pháp điều khiển độc lập trong đó từng mạch điều khiển riêng được bố trí kèm theo cho mỗi  
chuyển mạch. Mặc đã cũ, đây vẫn là ví dụ tốt của cái gọi điều khiển phân tán; nó tiến  
hành việc điều khiển chuyển mạch một cách thống nhất bằng cách kích hoạt một cách độc  
lập các điều khiển chuyển mạch phân tán. Mạch phân tán có bất lợi là nó làm giảm khả  
nǎng chuyển mạch hoặc các chức nǎng chuyển mạch. Tuy nhiên, vì hệ thống có trang bị  
loại mạch này có khả nǎng lập các lỗi một cách có hiệu quả, hệ này có thể được thay đổi  
hoặc được mở rộng dễ dàng. Đặc biệt, phương pháp này rất thể được dùng rộng rãi khi  
công nghệ thiết bị mới bao gồm độ tích hợp cao của mạch điện tử trở nên pháp triển hơn.  
Phương pháp điều khiển độc lập đựoc phân loại thêm thành các loại điều khiển trực tiếp và  
điều khiển gián tiếp. ở phần tiếp theo, chúng được xem xét chi tiết hơn.  
A. Kiểu điều khiển trực tiếp  
Như đã tả ở phần trước đây, các xung sinh ra khi thuê bao quay số được đưa vào trực  
tiếp, tiếp đến được xử một cách liên tục để lựa chọn đường nối. Theo đó, một chuyển  
mạch để chọn đường được định ra bằng số quay đã nhận được và sau đó chọn đường dây  
rỗi trong số đó. Hệ thống được tạo nên bởi một nhóm các chuyển mạch như vậy.  
Hai loại chuyển mạch hiện có là loại chuyển mạch cơ học kiểu chuyển động đơn để chọn  
các đường ra thông qua việc dịch chuyển nhiều chiều đơn như dịch chuyển quay và chuyển  
theo đường thẳng một loại chuyển mạch cơ học kiểu chuyển 2 cấp để phối hợp hai cách  
chuyển nhiều chiều như chuyển theo chiều đứng. nhiều phương pháp kích hoạt các  
chuyển động được nói trước đây; một phương pháp quay bánh rǎng đồng hồ sử dụng các  
phương tiện điện từ hoặc động cơ đặc biệt một hệ thống nguồn chuyển động dịch  
chuyển từng chuyển mạch bằng cách lắp đặt một máy phát điện chung ở một số chuyển  
mạch hoặc thông qua các bánh rǎng hoặc các phối hợp phức tạp khác.  
B. Kiểu điều khiển gián tiếp  
Phương pháp điều khiển trực tiếp thể được sử dụng cho các hệ tổng đài dung lượng nhỏ  
một cách không khó khǎn. Tuy nhiên, khi sử dụng cho hệ thống có dung lượng lớn, cấu  
hình mạng trở nên phức tạp và khi lắp đặt một đường trung kế giữa các tổng đài lưu  
lượng nhỏ, thì hiệu quả của bị giảm xuống đáng kể. Để giải quyết các vấn đề này,  
phương pháp điều khiển gián tiếp được phát triển. Nghĩa mạch nhớ số gọi được lắp đặt  
trong hệ tổng đài để đọc các số gọi đã được lưu giữ. Khi tổng đài bị gọi được xác định, việc  
chuyển đổi số phải được tiến hành tuỳ theo việc thiết lập mạng lưới dây cũng như việc thực  
hiện nhận số liên tục và thêm các số được quay. Phương pháp này được gọi phương  
pháp điều khiển gián tiếp hay phương pháp chuyển đổi lưu giữ. Hướng của đường trung  
kế thể được chọn bằng cách quay một số thập phân giới hạn đến 10; vì vậy khi dùng  
phương pháp điều khiển độc lập cấu hình mạng lưới tuyến phần nào bị hạn chế trong khi  
đối với phương pháp điều khiển gián tiếp thì đường truyền dẫn thể hoạt động với hiệu  
qủa cao vì cấu hình mạng lưới tuyến không quan hệ trực tiếp với các số được quay. Như đã  
trình bày trên, phương pháp điều khiển độc lập là ví dụ đặc biệt của điều khiển phân tán.  
thể phân bố các chức nǎng chuyển mạch (xác định cuộc gọi, nhận số được quay, xác  
định đường trung kế, chọn đường dây rỗi, cấp điện, truyền/nhận một số tín hiệu, gọi lại, xác  
định thời điểm kết thúc gọi, hồi phục và các chức nǎng khác) cho các loại mạch khác nhau  
để đấu nối các nhánh. Mỗi mạch được kết cấu đơn giản một vài chuyển mạch được tập  
hợp thành nhóm để hình thành hệ tổng đài.  
2.3.3 Phương pháp điều khiển chung  
Hệ điều khiển chung là phương pháp tách giữa mạch chuyển mạch gọi của hệ tổng đài và  
mạch điều khiển và phân chia một số nhỏ các mạch điều khiển thành nhiều điều khiển đầu  
nối để đạt hiệu quả cao hơn. Điều khiển đầu nối được tiến hành thông qua các quá trình  
sau: giai đoạn tập trung đường khi các cuộc gọi phát sinh từ các thuê bao được tập hợp lại  
sau đó được nối với mạng chuyển mạch gọi, giai đoạn phân bổ trong đó các cuộc gọi đã tập  
hợp được phân loại theo các hướng, thời kỳ tái phát sinh trong đó các cuộc gọi từ phía tổng  
đài đối diện được tái phát lại và sau đó được chuyển đến tổng đài bên kia, và một đoạn  
chọn cuối cùng khi các cuộc gọi đến được nối với phía bị gọi. Phương pháp điều khiển  
chung từng phần hay là hệ thống đánh dấu theo giai đoạn phương pháp chia các chức  
nǎng trên đây thành các thời kỳ khác nhau và sau đó phân bổ chúng cho một số loại các  
mạch điều khiển chung. Mặt khác hệ đánh dấu chung là phương pháp cho phép mạch điều  
khiển chung điều khiển các đấu nối thông qua mạng chuyển mạch gọi của một tổng đài.  
Khi sử dụng phương pháp điều khiển chung từng phần, hệ tổng đài thể được tách ra  
thành các ngǎn và theo đó khi nào cần thiết, thể bổ sung các ngǎn một cách dễ dàng để  
mở rộng hệ thống. Tuy vậy, những bất lợi sau đây thường gặp khi sử dụng phương pháp  
này: việc xử lý thông tin điều khiển giữa mỗi ngǎn là khó khǎn, số lớn các thiết bị trung kế  
được đưa vào thông qua khoảng trống trong các mạch gọi tách riêng, dung lượng xử lý  
đường thông bị giảm đáng kể do toàn bộ hệ thống không được tích hợp hoàn toàn và các  
chức nǎng phức tạp. Do vậy, hiện nay hệ đánh dấu chung được dùng rộng rãi hơn. Hệ tổng  
đài số 5 của Mỹ là ví dụ điển hình sử dụng phương pháp đánh dấu theo giai đoạn hệ  
tổng đài kiểu C45 của Nhật dùng hệ đánh dấu thông thường.  
A. Hệ đánh dấu thông thường  
Như đã trình bày ở phần trước đây, hệ đánh dấu thông thường phương pháp điều khiển  
toàn bộ vận hành của việc đấu nối chọn lọc trên mạng thông qua việc sử dụng chuyển  
mạch cuộc gọi.  
Điều này không có nghĩa chỉ một mạch điều khiển hoặc một hệ tổng đài được sử  
dụng. Thay vì, nó có nghĩa một mạch điều khiển điều khiển toàn bộ hệ thống thoại. Trong  
trường hợp đối với hệ tổng đài thanh chéo, cách thực hiện chung là việc điều khiển các  
cuộc gọi được thực hiện thông qua việc sử dụng các mạch điều khiển chung khác nhau tuỳ  
thuộc vào tốc độ điều khiển yêu cầu. vậy, đôi khi có 2 thiết bị để thực hiện các chức nǎng  
khác nhau được lắp đặt cạnh kề nhau. Khi sử dụng phương pháp này, chuyển mạch gọi  
toàn bộ được kiểm tra đầu tiên và sau đó thông tin chưa được chiếm giữ của mỗi phần  
được tập hợp lại để chọn đường nối. vậy, hiện tượng khoá đường thông, phát sinh do  
tình trạng máy bận, thể được giữ ở mức tối thiểu để hiệu quả cao hơn. Do có các lý  
do này, nên hầu hết các hệ tổng đài được phát triển gần đây sử dụng hệ đánh dấu chung.  
Trên hình 2.10, đường nối cuộc gọi của hệ tổng đài số 5 được thể hiện.  
Hình 2.10. Đường nối cuộc gọi của hệ tổng đài số 5.  
Thao tác nối cuộc gọi của hệ thống chuyển mạch thực hiện như sau:  
(1) Nối mã: từ lúc thuê bao nhấc ống nói cho đến khi truyền tín hiệu mời quay số.  
(2) Tiếp nhận xung quay số: số được ghi vào thanh ghi khi máy thuê bao chủ gọi quay  
số.  
(3) Nối cuộc gọi đi: Dựa vào số nhận được trong thanh ghi chủ gọi đường ra của tổng đài  
trung chuyển nối với máy thuê bao bị gọi được xác định  
(4) Nối trong nội bộ tổng đài: Nếu máy thuê bao bị gọi nằm trong tổng đài nội hạt, thì  
đường gọi trong tổng đài nội hạt được lựa chọn.  
(5) Nối cuộc gọi đến: Khi cuộc gọi đến từ một tổng đài khác, thanh ghi đầu vào bị chiếm  
bởi một đường trung kế vào.  
(6) Nối trung chuyển: Nếu hệ thống chuyển mạch là trung chuyển, thì cuộc gọi đến được  
chuyển tới tổng đài xa hoặc tổng đài cuối.  
Để kiểm tra xem những chức nǎng trên có thực hiện bình thường không, hệ thống chuyển  
mạch thường được trang bị thêm chức nǎng quản lý, vận hành và bảo dưỡng của bộ điều  
khiển tự động, chức nǎng phát hiện lỗi, vị trí, thời gian gây lỗi thiết bị ghi.  
B. Phương pháp điều khiển chung từng phần  
Việc điều khiển đấu nối của hệ thống chuyển mạch được thực hiện qua những quá trình  
sau: giai đoạn tập trung đường theo lưu lượng cần xử lý sau khi xác định có tín hiệu gọi,  
giai đoạn phân phối các cuộc gọi cho các địa chỉ dựa trên số đã quay, giai đoạn thực hiện  
nối rơ-le, cuối cùng là giai đoạn lựa chọn cuối cùng khi các cuộc gọi được nối tới các  
thuê bao bị gọi. Theo như trên, mỗi giai đoạn sự điều khiển khác nhâu, Hệ thống đánh  
dấu giai đoạn phương pháp phân chia sự điều khiển thành nhiều nhóm và sau đó phân  
loại phạm vi điều khiển đấu nối tương ứng để phân phối.  
Hệ thống này khác với hệ thống đánh dấu chung ở chỗ phạm vi giám sát của một mạch  
điều khiển chung là một bộ phận của mạng chuyển mạch cuộc gọi như chỉ rõ trong hình  
2.11  
Hình 2.11. Phương pháp điều khiển chung từng phần.  
Phương pháp này có đặc điểm như sau:  
(1) Phạm vi mạng chuyển mạch gọi do một mạch điều khiển nhỏ  
(2) Hệ thống chuyển mạch thể phân chia và xếp đặt lại bằng cách kết hợp các bộ  
phận một cách khác nhau để linh hoạt hơn.  
(3) Vận hành mạng tuyến thể thực hiện linh hoạt tuỳ theo yêu cầu về đường thông.  
(4) Những lỗi xảy ra chỉ ảnh hưởng ít nhất đối với toàn hệ thống vì các mạch điều  
khiển đã được mô-đun hoá.  
(5) Khả nǎng của mạng chuyển mạch gọi bị giảm bớt rệt.  
(6) Hiệu quả của đường trung kế giảm xuống nhiều  
(7) Cần những đường trung kế dẹ phòng giữa các mạng chuyển mạch phân phối  
(8) Thông tin về điều khiển phải truyền giữa các mạch điều khiển chung  
Như trên, phương pháp điều khiển chung từng phần thiết kế đơn giản đã được sử dụng  
rộng rãi trong các mô hình hệ thống tổng đài đường nối chéo trước đây.  
2.3.4 Phương pháp điều khiển bằng chương trình lưu trữ  
Việc điều khiển độc lập điều khiển chung được phân loại trong khía cạnh sơ đồ của hệ  
thống điều khiển. Trái lại, nếu chúng ta xem xét hệ thống từ khía cạnh phép tính xử lý các  
biến đổi logic thì mạch điều khiênr của hệ thống chuyển mạch thể phân loại tiếp thành  
mạch logic dây và mạch logic lưu trữ. Nói chung mạch điều khiển số được thực hiện với  
những phép tính logic như (AND), (OR), và (NOT), và kết hợp với thao tác bộ nhớ để xác  
định trạng thái tiếp theo sau khi đã lưu trữ phần ghi trước đó. Với mục đích đó, có 2 phương  
pháp thao tác: logic dây là phương pháp kết hợp các rơ-le, mạch điểm tiếp xúc hay cổng  
điện tử và sau đó nối các thao tác logic cần thiết để thiết lập hệ thống. Thao tác điều khiển  
được xác định bằng phương pháp nối dây. Những mạch điều khiển của phần lớn các hệ  
thống chuyển mạch kể cả hệ thống chuyển mạch thanh cheó phát triển trước đây đều được  
thực hiện theo phương pháp này.  
Mạch logic lưu trữ phương pháp thực hiện các phép tính logic theo chỉ thị trên mạch nhớ  
bằng cách sử dụng một máy tính điện tử đa nǎng. Thí dụ, CPU của máy tính điện tử chỉ  
gồm một mạch cộng mạch logic cơ sở.Những phép tính và thao tác phức tạp thể  
thực hiện bằng cách dùng mạch cơ sở nhiều lần theo thông tin nhớ đã ghi lại trong chương  
trình. Các loại thao tác này được xác định bởi các mạch dây đặc định (hardware: phần  
cứng) và các chương trình đưa vào bộ nhớ (phần mềm) quyết định, và các thao tác đó  
được gọi những phép logic lưu trữ. Phương pháp điều khiển dùng các mạch logic lưu trữ  
gọi điều khiển bằng chương trình lưu trữ (SPC). Mạch nối dây toàn phần dùng cho các  
thao tác chuyển mạch nhất định như xác định thuê bao chủ gọi, chọn đường, hệ số xung  
quay số không có trong CPU thực hiện điều khiển chung trong phương pháp này. Như  
trong trường hợp máy tính điện tử tổng hợp, hệ thống chỉ có các mạch cơ bản chức  
nǎng logic và số học. Trình tự thực hiện thao tác chuyển mạch được lưu trong mạch nhớ  
dưới dạng những lệnh chương trình và sau đó theo các lệnh đó thực hiện thao tác chuyển  
mạch bằng cách kích hoạt các mạch cơ sở nhiều lần. Phương pháp này đòi hỏi sự biến đổi  
logic tốc độ cáp và mạch nhớ có dung lượng lớn. Do đó được sử dụng rộng rãi với sự  
xuất hiện của mạch điện tử vận hành đơn giản.  
Lợi thế đáng kể nhất của phương pháp điều khiển bằng chương trình lưu trữ điều khiển  
rất linh hoạt. Trước đây, các hệ thống truyền thông chủ yếu sử dụng truyền tiếng nói 1:1.  
Tuy nhên ngày nay các hệ thống chuyển mạch phải khả nǎng xử những dịch vụ truyền  
thông mới như truyền tiếng nói/hình ảnh và các loại trao đổi số liệu dịch vụ chuyển mạch  
điện thoại như quay số tắt điện thoại hội nghị, điều đó đòi hỏi phải có tính linh hoạt, tính  
thể mở rộng và tính sẵn sàng. hệ thống tổng đài điện tử (ESS) đã được phát minh để  
phục vụ những loại dịch vụ này. ESS hoạt động theo phương pháp điều khiển bằng chương  
trình lưu trữ này.  
A. Nguyên tắc mạch logic lưu trữ  
Tải về để xem bản đầy đủ
doc 128 trang baolam 09/05/2022 6540
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Lý thuyết viễn thông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • docgiao_trinh_ly_thuyet_vien_thong.doc