Giáo trình Toàn tập Mạng máy tính

GIÁO TRÌNH  
GIÁO TRÌNH  
MẠNG MÁY TÍNH  
MẠNG MÁY TÍNH  
nội 11-2000  
Chương 1  
Sơ lược lịch sử phát triển của mạng máy tính  
Vào giữa những năm 50 khi những thế hệ máy tính đầu tiên được đưa vào hoạt động thực  
tế với những bóng đèn điện tử thì chúng có kích thước rất cồng kềnh tốn nhiều năng  
lượng. Hồi đó việc nhập dữ liệu vào các máy tính được thông qua các tấm bìa mà người  
viết chương trình đã đục lỗ sẵn. Mỗi tấm bìa tương đương với một dòng lệnh mỗi một  
cột của nó có chứa tất cả các ký tự cần thiết người viết chương trình phải đục lỗ vào ký  
tự mình lựa chọn. Các tấm bìa được đưa vào một "thiết bị" gọi thiết bị đọc bìa mà qua đó  
các thông tin được đưa vào máy tính (hay còn gọi là trung tâm xử lý) và sau khi tính toán  
kết quả sẽ được đưa ra máy in. Như vậy các thiết bị đọc bìa và máy in được thể hiện như  
các thiết bị vào ra (I/O) đối với máy tính. Sau một thời gian các thế hệ máy mới được đưa  
vào hoạt động trong đó một máy tính trung tâm có thể được nối với nhiều thiết bị vào ra  
(I/O) mà qua đó nó có thể thực hiện liên tục hết chương trình này đến chương trình khác.  
Cùng với sự phát triển của những ứng dụng trên máy tính các phương pháp nâng cao khả  
năng giao tiếp với máy tính trung tâm cũng đã được đầu tư nghiên cứu rất nhiều. Vào giữa  
những năm 60 một số nhà chế tạo máy tính đã nghiên cứu thành công những thiết bị truy  
cập từ xa tới máy tính của họ. Một trong những phương pháp thâm nhập từ xa được thực  
hiện bằng việc cài đặt một thiết bị đầu cuối ở một vị trí cách xa trung tâm tính toán, thiết bị  
đầu cuối này được liên kết với trung tâm bằng việc sử dụng đường dây điện thoại với  
hai thiết bị xử lý tín hiệu (thường gọi là Modem) gắn ở hai đầu và tín hiệu được truyền  
thay vì trực tiếp thì thông qua dây điện thoại.  
Hình 1.1. Mô hình truyền dữ liệu từ xa đầu tiên  
Những dạng đầu tiên của thiết bị đầu cuối bao gồm máy đọc bìa, máy in, thiết bị xử lý tín  
hiệu, các thiết bị cảm nhận. Việc liên kết từ xa đó thể thực hiên thông qua những vùng  
khác nhau và đó những dạng đầu tiên của hệ thống mạng.  
Trong lúc đưa ra giới thiệu những thiết bị đầu cuối từ xa, các nhà khoa học đã triển khai  
một loạt những thiết bị điều khiển, những thiết bị đầu cuối đặc biệt cho phép người sử  
dụng nâng cao được khả năng tương tác với máy tính. Một trong những sản phẩm quan  
trọng đó hệ thống thiết bị đầu cuối 3270 của IBM. Hệ thống đó bao gồm các màn hình,  
các hệ thống điều khiển, các thiết bị truyền thông được liên kết với các trung tâm tính toán.  
Hệ thống 3270 được giới thiệu vào năm 1971 và được sử dụng dùng để mở rộng khả năng  
tính toán của trung tâm máy tính tới các vùng xa. Ðể làm giảm nhiệm vụ truyền thông của  
máy tính trung tâm và số lượng các liên kết giữa máy tính trung tâm với các thiết bị đầu  
cuối, IBM và các công ty máy tính khác đã sản xuất một số các thiết bị sau:  
Thiết bị kiểm soát truyền thông: nhiệm vụ nhận các bit tín hiệu từ các kênh  
truyền thông, gom chúng lại thành các byte dữ liệu chuyển nhóm các byte đó tới  
máy tính trung tâm để xử lý, thiết bị này cũng thực hiện công việc ngược lại để  
chuyển tín hiệu trả lời của máy tính trung tâm tới các trạm ở xa. Thiết bị trên cho  
phép giảm bớt được thời gian xử lý trên máy tính trung tâm và xây dựng các thiết  
bị logic đặc trưng.  
Thiết bị kiểm soát nhiều đầu cuối: cho phép cùng một lúc kiểm soát nhiều thiết  
bị đầu cuối. Máy tính trung tâm chỉ cần liên kết với một thiết bị như vậy là có thể  
phục vụ cho tất cả các thiết bị đầu cuối đang được gắn với thiết bị kiểm soát trên.  
Ðiều này đặc biệt có ý nghĩa khi thiết bị kiểm soát nằm ở cách xa máy tính vì chỉ  
cần sử dụng một đường điện thoại là có thể phục vụ cho nhiều thiết bị đầu cuối.  
Hình 1.2: Mô hình trao đổi mạng của hệ thống 3270  
Vào giữa những năm 1970, các thiết bị đầu cuối sử dụng những phương pháp liên kết qua  
đường cáp nằm trong một khu vực đã được ra đời. Với những ưu điểm từ nâng cao tốc độ  
truyền dữ liệu và qua đó kết hợp được khả năng tính toán của các máy tính lại với nhau. Ðể  
thực hiện việc nâng cao khả năng tính toán với nhiều máy tính các nhà sản xuất bắt đầu  
xây dựng các mạng phức tạp. Vào những năm 1980 các hệ thống đường truyền tốc độ cao  
đã được thiết lập ở Bắc Mỹ và Châu Âu và từ đó cũng xuất hiện các nhà cung cấp các dịnh  
vụ truyền thông với những đường truyền tốc độ cao hơn nhiều lần so với đường dây  
điện thoại. Với những chi phí thuê bao chấp nhận được, người ta có thể sử dụng được các  
đường truyền này để liên kết máy tính lại với nhau và bắt đầu hình thành các mạng một  
cách rộng khắp. Ở đây các nhà cung cấp dịch vụ đã xây dựng những đường truyền dữ liệu  
liên kết giữa các thành phố và khu vực với nhau và sau đó cung cấp các dịch vụ truyền dữ  
liệu cho những người xây dựng mạng. Người xây dựng mạng lúc này sẽ không cần xây  
dựng lại đường truyền của mình mà chỉ cần sử dụng một phần các năng lực truyền thông  
của các nhà cung cấp.  
Vào năm 1974 công ty IBM đã giới thiệu một loạt các thiết bị đầu cuối được chế tạo cho  
lĩnh vực ngân hàng và thương mại, thông qua các dây cáp mạng các thiết bị đầu cuối thể  
truy cập cùng một lúc vào một máy tính dùng chung. Với việc liên kết các máy tính nằm ở  
trong một khu vực nhỏ như một tòa nhà hay là một khu nhà thì tiền chi phí cho các thiết bị  
phần mềm thấp. Từ đó việc nghiên cứu khả năng sử dụng chung môi trường truyền  
thông và các tài nguyên của các máy tính nhanh chóng được đầu tư.  
Vào năm 1977, công ty Datapoint Corporation đã bắt đầu bán hệ điều hành mạng của mình  
là "Attached Resource Computer Network" (hay gọi tắt là Arcnet) ra thị trường. Mạng  
Arcnet cho phép liên kết các máy tính và các trạm đầu cuối lại bằng dây cáp mạng, qua đó  
đã trở thành là hệ điều hành mạng cục bộ đầu tiên.  
Từ đó đến nay đã rất nhiều công ty đưa ra các sản phẩm của mình, đặc biệt khi các máy  
tính cá nhân được sử dụng một cánh rộng rãi. Khi số lượng máy vi tính trong một văn  
phòng hay quan được tăng lên nhanh chóng thì việc kết nối chúng trở nên vô cùng cần  
thiết sẽ mang lại nhiều hiệu quả cho người sử dụng.  
Ngày nay với một lượng lớn về thông tin, nhu cầu xử lý thông tin ngày càng cao. Mạng  
máy tính hiện nay trở nên quá quen thuộc đối với chúng ta, trong mọi lĩnh vực như khoa  
học, quân sự, quốc phòng, thương mại, dịch vụ, giáo dục... Hiện nay ở nhiều nơi mạng đã  
trở thành một nhu cầu không thể thiếu được. Người ta thấy được việc kết nối các máy tính  
thành mạng cho chúng ta những khả năng mới to lớn như:  
Sử dụng chung tài nguyên: Những tài nguyên của mạng (như thiết bị, chương  
trình, dữ liệu) khi được trở thành các tài nguyên chung thì mọi thành viên của mạng  
đều thể tiếp cận được mà không quan tâm tới những tài nguyên đó ở đâu.  
Tăng độ tin cậy của hệ thống: Người ta có thể dễ dàng bảo trì máy móc và lưu  
trữ (backup) các dữ liệu chung và khi có trục trặc trong hệ thống thì chúng có thể  
được khôi phục nhanh chóng. Trong trường hợp trục trặc trên một trạm làm việc  
thì người ta cũng thể sử dụng những trạm khác thay thế.  
Nâng cao chất lượng hiệu quả khai thác thông tin: Khi thông tin có thể  
được sữ dụng chung thì nó mang lại cho người sử dụng khả năng tổ chức lại các  
công việc với những thay đổi về chất như:  
Ðáp ứng những nhu cầu của hệ thống ứng dụng kinh doanh hiện đại.  
Cung cấp sự thống nhất giữa các dữ liệu.  
Tăng cường năng lực xử nhờ kết hợp các bộ phận phân tán.  
Tăng cường truy nhập tới các dịch vụ mạng khác nhau đang được cung  
cấp trên thế giới.  
Với nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của hội nên vấn đề kỹ thuật trong mạng mối quan  
tâm hàng đầu của các nhà tin học. dụ như làm thế nào để truy xuất thông tin một cách  
nhanh chóng và tối ưu nhất, trong khi việc xử lý thông tin trên mạng quá nhiều đôi khi có  
thể làm tắc nghẽn trên mạng và gây ra mất thông tin một cách đáng tiếc.  
Hiện nay việc làm sao có được một hệ thống mạng chạy thật tốt, thật an toàn với lợi ích  
kinh tế cao đang rất được quan tâm. Một vấn đề đặt ra có rất nhiều giải pháp về công nghệ,  
một giải pháp có rất nhiều yếu tố cấu thành, trong mỗi yếu tố nhiều cách lựa chọn. Như  
vậy để đưa ra một giải pháp hoàn chỉnh, phù hợp thì phải trải qua một quá trình chọn lọc  
dựa trên những ưu điểm của từng yếu tố, từng chi tiết rất nhỏ.  
Ðể giải quyết một vấn đề phải dựa trên những yêu cầu đặt ra và dựa trên công nghệ để giải  
quyết. Nhưng công nghệ cao nhất chưa chắc là công nghệ tốt nhất, mà công nghệ tốt nhất  
là công nghệ phù hợp nhất.  
Chương 2  
Những khái niệm cơ bản của mạng máy tính  
Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, hiện nay các mạng máy tính đã phát triển một  
cách nhanh chóng và đa dạng cả về quy mô, hệ điều hành và ứng dụng. Do vậy việc nghiên  
cứu chúng ngày càng trở nên phức tạp. Tuy nhiên các mạng máy tính cũng có cùng các  
điểm chung thông qua đó chúng ta có thể đánh giá và phân loại chúng.  
I. Định nghĩa mạng máy tính  
Mạng máy tính là một tập hợp các máy tính được nối với nhau bởi đường truyền  
theo một cấu trúc nào đó và thông qua đó các máy tính trao đổi thông tin qua lại  
cho nhau.  
Đường truyền hệ thống các thiết bị truyền dẫn có dây hay không dây dùng để  
chuyển các tín hiệu điện tử từ máy tính này đến máy tính khác. Các tín hiệu điện tử đó biểu  
thị các giá trị dữ liệu dưới dạng các xung nhị phân (on - off). Tất cả các tín hiệu được  
truyền giữa các máy tính đều thuộc một dạng sóng điện từ. Tùy theo tần số của sóng điện  
từ thể dùng các đường truyền vật lý khác nhau để truyền các tín hiệu. Ở đây đường  
truyền được kết nối thể là dây cáp đồng trục, cáp xoắn, cáp quang, dây điện thoại, sóng  
tuyến ... Các đường truyền dữ liệu tạo nên cấu trúc của mạng. Hai khái niệm đường  
truyền cấu trúc là những đặc trưng cơ bản của mạng máy tính.  
Hình 2.1: Một mô hình liên kết các máy tính trong mạng  
Với sự trao đổi qua lại giữa máy tính này với máy tính khác đã phân biệt mạng máy  
tính với các hệ thống thu phát một chiều như truyền hình, phát thông tin từ vệ tinh xuống  
các trạm thu thụ động... tại đây chỉ có thông tin một chiều từ nơi phát đến nơi thu mà  
không quan tâm đến có bao nhiêu nơi thu, có thu tốt hay không.  
Đặc trưng cơ bản của đường truyền vật lý là giải thông. Giải thông của một đường  
chuyền chính là độ đo phạm vi tần số mà nó có thể đáp ứng được. Tốc độ truyền dữ liệu  
trên đường truyền còn được gọi là thông lượng của đường truyền - thường được tính bằng  
số lượng bit được truyền đi trong một giây (Bps). Thông lượng còn được đo bằng đơn vị  
khác là Baud (lấy từ tên nhà bác học - Emile Baudot). Baud biểu thị số lượng thay đổi tín  
hiệu trong một giây.  
Ở đây Baud và Bps không phải bao giờ cũng đồng nhất. dụ: nếu trên đường dây có  
8 mức tín hiệu khác nhau thì mỗi mức tín hiệu tương ứng với 3 bit hay là 1 Baud tương  
ứng với 3 bit. Chỉ khi có 2 mức tín hiệu trong đó mỗi mức tín hiệu tương ứng với 1 bit thì  
1 Baud mới tương ứng với 1 bit.  
II. Phân loại mạng máy tính  
Do hiện nay mạng máy tính được phát triển khắp nơi với những ứng dụng ngày càng  
đa dạng cho nên việc phân loại mạng máy tính là một việc rất phức tạp. Người ta có thể  
chia các mạng máy tính theo khoảng cách địa lý ra làm hai loại: Mạng diện rộng Mạng  
cục bộ.  
Mạng cục bộ (Local Area Networks - LAN) mạng được thiết lập để liên kết  
các máy tính trong một khu vực như trong một toà nhà, một khu nhà.  
Mạng diện rộng (Wide Area Networks - WAN) mạng được thiết lập để liên  
kết các máy tính của hai hay nhiều khu vực khác nhau như giữa các thành phố hay  
các tỉnh.  
Sự phân biệt trên chỉ có tính chất ước lệ, các phân biệt trên càng trở nên khó xác định  
với việc phát triển của khoa học kỹ thuật cũng như các phương tiện truyền dẫn. Tuy  
nhiên với sự phân biệt trên phương diện địa đã đưa tới việc phân biệt trong nhiều đặc  
tính khác nhau của hai loại mạng trên, việc nghiên cứu các phân biệt đó cho ta hiểu hơn  
về các loại mạng.  
III. Sự phân biệt giữa mạng cục bộ mạng diện rộng  
Mạng cục bộ mạng diện rộng thể được phân biệt bởi: địa phương hoạt động, tốc  
độ đường truyền tỷ lệ lỗi trên đường truyền, chủ quản của mạng, đường đi của thông tin  
trên mạng, dạng chuyển giao thông tin.  
Địa phương hoạt động: Liên quan đến khu vực địa lý thì mạng cục bộ sẽ mạng  
liên kết các máy tính nằm ở trong một khu vực nhỏ. Khu vực thể bao gồm một tòa nhà  
hay là một khu nhà... Điều đó hạn chế bởi khoảng cách đường dây cáp được dùng để liên  
kết các máy tính của mạng cục bộ (Hạn chế đó còn là hạn chế của khả năng kỹ thuật của  
đường truyền dữ liệu). Ngược lại mạng diện rộng mạng khả năng liên kết các máy  
tính trong một vùng rộng lớn như một thành phố, một miền, một đất nước, mạng diện  
rộng được xây dựng để nối hai hoặc nhiều khu vực địa lý riêng biệt.  
Tốc độ đường truyền tỷ lệ lỗi trên đường truyền: Do các đường cáp của mạng  
cục bộ đươc xây dựng trong một khu vực nhỏ cho nên nó ít bị ảnh hưởng bởi tác động của  
thiên nhiên (như sấm chớp, ánh sáng...). Điều đó cho phép mạng cục bộ thể truyền dữ  
liệu với tốc độ cao mà chỉ chịu một tỷ lệ lỗi nhỏ. Ngược lại với mạng diện rộng do phải  
truyền ở những khoảng cách khá xa với những đường truyền dẫn dài có khi lên tới hàng  
ngàn km. Do vậy mạng diện rộng không thể truyền với tốc độ quá cao vì khi đó tỉ lệ lỗi sẽ  
trở nên khó chấp nhận được.  
Mạng cục bộ thường tốc độ truyền dữ liệu từ 4 đến 16 Mbps và đạt tới 100 Mbps  
nếu dùng cáp quang. Còn phần lớn các mạng diện rộng cung cấp đường truyền tốc độ  
thấp hơn nhiều như T1 với 1.544 Mbps hay E1 với 2.048 Mbps.  
(Ở đây bps (Bit Per Second) là một đơn vị trong truyền thông tương đương với 1 bit  
được truyền trong một giây, ví dụ như tốc độ đường truyền là 1 Mbps tức là có thể truyền  
tối đa 1 Megabit trong 1 giây trên đường truyền đó).  
Thông thường trong mạng cục bộ tỷ lệ lỗi trong truyền dữ liệu vào khoảng 1/107-108  
còn trong mạng diện rộng thì tỷ lệ đó vào khoảng 1/106 - 107  
Chủ quản điều hành của mạng: Do sự phức tạp trong việc xây dựng, quản lý,  
duy trì các đường truyền dẫn nên khi xây dựng mạng diện rộng người ta thường sử dụng  
các đường truyền được thuê từ các công ty viễn thông hay các nhà cung cấp dịch vụ truyền  
số liệu. Tùy theo cấu trúc của mạng những đường truyền đó thuộc cơ quan quản lý khác  
nhau như các nhà cung cấp đường truyền nội hạt, liên tỉnh, liên quốc gia. Các đường  
truyền đó phải tuân thủ các quy định của chính phủ các khu vực đường dây đi qua như:  
tốc độ, việc mã hóa.  
Còn đối với mạng cục bộ thì công việc đơn giản hơn nhiều, khi một cơ quan cài đặt  
mạng cục bộ thì toàn bộ mạng sẽ thuộc quyền quản của cơ quan đó.  
Đường đi của thông tin trên mạng: Trong mạng cục bộ thông tin được đi theo con  
đường xác định bởi cấu trúc của mạng. Khi người ta xác định cấu trúc của mạng thì thông  
tin sẽ luôn luôn đi theo cấu trúc đã xác định đó. Còn với mạng diện rộng dữ liệu cấu trúc  
thể phức tạp hơn nhiều do việc sử dụng các dịch vụ truyền dữ liệu. Trong quá trình hoạt  
động các điểm nút có thể thay đổi đường đi của các thông tin khi phát hiện ra có trục trặc  
trên đường truyền hay khi phát hiện có quá nhiều thông tin cần truyền giữa hai điểm nút  
nào đó. Trên mạng diện rộng thông tin có thể có các con đường đi khác nhau, điều đó cho  
phép có thể sử dụng tối đa các năng lực của đường truyền hay nâng cao điều kiện an toàn  
trong truyền dữ liệu.  
Dạng chuyển giao thông tin: Phần lớn các mạng diện rộng hiện nay được phát triển  
cho việc truyền đồng thời trên đường truyền nhiều dạng thông tin khác nhau như: video,  
tiếng nói, dữ liệu... Trong khi đó các mạng cục bộ chủ yếu phát triển trong việc truyền dữ  
liệu thông thường. Điều này có thể giải thích do việc truyền các dạng thông tin như video,  
tiếng nói trong một khu vực nhỏ ít được quan tâm hơn như khi truyền qua những khoảng  
cách lớn.  
Các hệ thống mạng hiện nay ngày càng phức tạp về chất lượng, đa dạng về chủng loại  
và phát triển rất nhanh về chất. Trong sự phát triển đó số lượng những nhà sản xuất từ phần  
mềm, phần cứng máy tính, các sản phẩm viễn thông cũng tăng nhanh với nhiều sản phẩm  
đa dạng. Chính vì vậy vai trò chuẩn hóa cũng mang những ý nghĩa quan trọng. Tại các  
nước các quan chuẩn quốc gia đã đưa ra các những chuẩn về phần cứng và các quy định  
về giao tiếp nhằm giúp cho các nhà sản xuất thể làm ra các sản phẩm thể kết nối với  
các sản phẩm do hãng khác sản xuất.  
Chương 3  
Mô hình truyền thông  
I. Sự cần thiết phải có mô hình truyền thông  
Để một mạng máy tính trở một môi trường truyền dữ liệu thì nó cần phải những yếu tố  
sau:  
Mỗi máy tính cần phải một địa chỉ phân biệt trên mạng.  
Việc chuyển dữ liệu từ máy tính này đến máy tính khác do mạng thực hiện thông  
qua những quy định thống nhất gọi là giao thức của mạng.  
Khi các máy tính trao đổi dữ liệu với nhau thì một quá trình truyền giao dữ liệu đã được  
thực hiện hoàn chỉnh. dụ như để thực hiện việc truyền một file giữa một máy tính với  
một máy tính khác cùng được gắn trên một mạng các công việc sau đây phải được thực  
hiện:  
Máy tính cần truyền cần biết địa chỉ của máy nhận.  
Máy tính cần truyền phải xác định được máy tính nhận đã saün sàng nhận thông  
tin  
Chương trình gửi file trên máy truyền cần xác định được rằng chương trình nhận  
file trên máy nhận đã saün sàng tiếp nhận file.  
Nếu cấu trúc file trên hai máy không giống nhau thì một máy phải làm nhiệm vụ  
chuyển đổi file từ dạng này sang dạng kia.  
Khi truyền file máy tính truyền cần thông báo cho mạng biết địa chỉ của máy nhận  
để các thông tin được mạng đưa tới đích.  
Điều trên đó cho thấy giữa hai máy tính đã một sự phối hợp hoạt động ở mức độ cao.  
Bây giờ thay vì chúng ta xét cả quá trình trên như một quá trình chung thì chúng ta sẽ  
chia quá trình trên ra thành một số công đoạn mỗi công đoạn con hoạt động một cách  
độc lập với nhau. Ở đây chương trình truyền nhận file của mỗi máy tính được chia thành  
ba module là: Module truyền nhận File, Module truyền thông và Module tiếp cận mạng.  
Hai module tương ứng sẽ thực hiện việc trao đổi với nhau trong đó:  
Module truyền nhận file cần được thực hiện tất cả các nhiệm vụ trong các ứng  
dụng truyền nhận file. Ví dụ: truyền nhận thông số về file, truyền nhận các mẫu tin  
của file, thực hiện chuyển đổi file sang các dạng khác nhau nếu cần. Module truyền  
nhận file không cần thiết phải trực tiếp quan tâm tới việc truyền dữ liệu trên  
mạng như thế nào mà nhiệm vụ đó được giao cho Module truyền thông.  
Module truyền thông quan tâm tới việc các máy tính đang hoạt động và saün sàng  
trao đổi thông tin với nhau. Nó còn kiểm soát các dữ liệu sao cho những dữ liệu  
này có thể trao đổi một cách chính xác và an toàn giữa hai máy tính. Điều đó có  
nghĩa phải truyền file trên nguyên tắc đảm bảo an toàn cho dữ liệu, tuy nhiên ở  
đây thể một vài mức độ an toàn khác nhau được dành cho từng ứng dụng. Ở  
đây việc trao đổi dữ liệu giữa hai máy tính không phụ thuộc vào bản chất của mạng  
đang liên kết chúng. Những yêu cầu liên quan đến mạng đã được thực hiện ở  
module thứ ba là module tiếp cận mạng nếu mạng thay đổi thì chỉ có module  
tiếp cận mạng bị ảnh hưởng.  
Module tiếp cận mạng được xây dựng liên quan đến các quy cách giao tiếp với  
mạng phụ thuộc vào bản chất của mạng. đảm bảo việc truyền dữ liệu từ máy  
tính này đến máy tính khác trong mạng.  
Như vậy thay vì xét cả quá trình truyền file với nhiều yêu cầu khác nhau như một tiến trình  
phức tạp thì chúng ta có thể xét quá trình đó với nhiều tiến trình con phân biệt dựa trên  
việc trao đổi giữa các Module tương ứng trong chương trình truyền file. Cách này cho  
phép chúng ta phân tích kỹ quá trình file và dễ dàng trong việc viết chương trình.  
Việc xét các module một cách độc lập với nhau như vậy cho phép giảm độ phức tạp cho  
việc thiết kế và cài đặt. Phương pháp này được sử dụng rộng rãi trong việc xây dựng mạng  
và các chương trình truyền thông và được gọi phương pháp phân tầng (layer).  
Nguyên tắc của phương pháp phân tầng là:  
Mỗi hệ thống thành phần trong mạng được xây dựng như một cấu trúc nhiều tầng  
đều cấu trúc giống nhau như: số lượng tầng chức năng của mỗi tầng.  
Các tầng nằm chồng lên nhau, dữ liệu được chỉ trao đổi trực tiếp giữa hai tầng kề  
nhau từ tầng trên xuống tầng dưới ngược lại.  
Cùng với việc xác định chức năng của mỗi tầng chúng ta phải xác định mối quan  
hệ giữa hai tầng kề nhau. Dữ liệu được truyền đi từ tầng cao nhất của hệ thống  
truyền lần lượt đến tầng thấp nhất sau đó truyền qua đường nối vật dưới dạng các  
bit tới tầng thấp nhất của hệ thống nhận, sau đó dữ liệu được truyền ngược lên lần  
lượt đến tầng cao nhất của hệ thống nhận.  
Chỉ có hai tầng thấp nhất có liên kết vật với nhau còn các tầng trên cùng thứ tư  
chỉ có các liên kết logic với nhau. Liên kết logic của một tầng được thực hiện thông  
qua các tầng dưới phải tuân theo những quy định chặt chẽ, các quy định đó được  
gọi giao thức của tầng.  
Hình 3.1: Mô hình phân tầng gồm N tầng  
II. Mô hình truyền thông đơn giản 3 tầng  
Nói chung trong truyền thông có sự tham gia của các thành phần: các chương trình ứng  
dụng, các chương trình truyền thông, các máy tính và các mạng. Các chương trình ứng  
dụng là các chương trình của người sử dụng được thực hiện trên máy tính và có thể tham  
gia vào quá trình trao đổi thông tin giữa hai máy tính. Trên một máy tính với hệ điều hành  
đa nhiệm (như Windows, UNIX) thường được thực hiện đồng thời nhiều ứng dụng trong  
đó những ứng dụng liên quan đến mạng và các ứng dụng khác. Các máy tính được nối  
với mạng và các dữ liệu được trao đổi thông qua mạng từ máy tính này đến máy tính khác.  
Việc gửi dữ liệu được thực hiện giữa một ứng dụng với một ứng dụng khác trên hai máy  
tính khác nhau thông qua mạng được thực hiện như sau: Ứng dụng gửi chuyển dữ liệu cho  
chương trình truyền thông trên máy tính của nó, chương trình truyền thông sẽ gửi chúng  
tới máy tính nhận. Chương trình truyền thông trên máy nhận sẽ tiếp nhận dữ liệu, kiểm tra  
trước khi chuyển giao cho ứng dụng đang chờ dữ liệu.  
Với mô hình truyền thông đơn giản người ta chia chương trình truyền thông thành ba tầng  
không phụ thuộc vào nhau là: tầng ứng dụng, tầng chuyển vận tầng tiếp cận mạng.  
Tầng tiếp cận mạng liên quan tới việc trao đổi dữ liệu giữa máy tính và mạng mà  
được nối vào. Để dữ liệu đến được đích máy tính gửi cần phải chuyển địa chỉ  
của máy tính nhận cho mạng và qua đó mạng sẽ chuyển các thông tin tới đích.  
Ngoài ra máy gửi thể sử dụng một số phục vụ khác nhau mà mạng cung cấp như  
gửi ưu tiên, tốc độ cao. Trong tầng này có thể nhiều phần mềm khác nhau được  
sử dụng phụ thuộc vào các loại của mạng dụ như mạng chuyển mạch, mạng  
chuyển mạch gói, mạng cục bộ.  
Tầng truyền dữ liệu thực hiện quá trình truyền thông không liên quan tới mạng  
nằm ở trên tầng tiếp cận mạng. Tầng truyền dữ liệu không quan tâm tới bản chất  
các ứng dụng đang trao đổi dữ liệu mà quan tâm tới làm sao cho các dữ liệu được  
trao đổi một cách an toàn. Tầng truyền dữ liệu đảm bảo các dữ liệu đến được đích  
đến theo đúng thứ tự mà chúng được xử lý. Trong tầng truyền dữ liệu người ta  
phải những cơ chế nhằm đảm bảo sự chính xác đó và rõ ràng các cơ chế này  
không phụ thuộc vào bản chất của từng ứng dụng và chúng sẽ phục vụ cho tất cả  
các ứng dụng.  
Tầng ứng dụng sẽ chứa các module phục vụ cho tất cả những ứng dụng của  
người sử dụng. Với các loại ứng dụng khác nhau (như truyền file, truyền thư mục)  
cần các module khác nhau.  
Hình 3.2 Mô hình truyền thông 3 tầng  
Trong một mạng với nhiều máy tính, mỗi máy tính một hay nhiều ứng dụng thực hiện đồng  
thời (Tại đây ta xét trên một máy tính trong một thời điểm thể chạy nhiều ứng dụng và  
các ứng dụng đó thể thực hiện đồng thời việc truyền dữ liệu qua mạng). Một ứng dụng  
khi cần truyền dữ liệu qua mạng cho một ứng dụng khác cần phải gọi 1 module tầng ứng  
dụng của chương trình truyền thông trên máy của mình, đồng thời ứng dụng kia cũng sẽ  
gọi 1 module tầng ứng dụng trên máy của nó. Hai module ứng dụng sẽ liên kết với nhau  
nhằm thực hiện các yêu cầu của các chương trình ứng dụng.  
Các ứng dụng đó sẽ trao đổi với nhau thông qua mạng, tuy nhiên trong 1 thời điểm trên  
một máy có thể nhiều ứng dụng cùng hoạt động để việc truyền thông được chính xác  
thì các ứng dụng trên một máy cần phải một địa chỉ riêng biệt. Rõ ràng cần có hai lớp  
địa chỉ:  
Mỗi máy tính trên mạng cần một địa chỉ mạng của mình, hai máy tính trong  
cùng một mạng không thể có cùng địa chỉ, điều đó cho phép mạng thể truyền  
thông tin đến từng máy tính một cách chính xác.  
Mỗi một ứng dụng trên một máy tính cần phải địa chỉ phân biệt trong máy tính  
đo. Nó cho phép tầng truyền dữ liệu giao dữ liệu cho đúng ứng dụng đang cần. Địa  
chỉ đó được gọi điểm tiếp cận giao dịch. Điều đó cho thấy mỗi một ứng dụng sẽ  
tiếp cận các phục vụ của tầng truyền dữ liệu một cách độc lập.  
Các module cùng một tầng trên hai máy tính khác nhau sẽ trao đổi với nhau một  
cách chặt chẽ theo các qui tắc xác định trước được gọi là giao thức. Một giao thức  
được thể hiện một cách chi tiết bởi các chức năng cần phải thực hiện như các giá trị  
kiểm tra lỗi, việc định dạng các dữ liệu, các quy trình cần phải thực hiện để trao đổi  
thông tin.  
Hình 3.3 Ví dụ mô hình truyền thông đơn giản  
Chúng ta hãy xét trong ví dụ (như hình vẽ trên): giả sử ứng dụng điểm tiếp cận giao  
dịch 1 trên máy tính A muốn gửi thông tin cho một ứng dụng khác trên máy tính B có điểm  
tiếp cận giao dịch 2. Úng dụng trên máy tính A chuyển các thông tin xuống tầng truyền dữ  
liệu của A với yêu cầu gửi chúng cho điểm tiếp cận giao dịch 2 trên máy tính B. Tầng  
truyền dữ liệu máy A sẽ chuyển các thông tin xuống tầng tiếp cận mạng máy A với yêu cầu  
chuyển chúng cho máy tính B (Chú ý rằng mạng không cần biết địa chỉ của điểm tiếp cận  
giao dịch chỉ cần biết địa chỉ của máy tính B). Để thực hiện quá trình này, các thông tin  
kiểm soát cũng sẽ được truyền cùng với dữ liệu.  
Đầu tiên khi ứng dụng 1 trên máy A cần gửi một khối dữ liệu chuyển khối đó cho tầng  
vận chuyển. Tầng vận chuyển thể chia khối đó ra thành nhiều khối nhỏ phụ thuộc vào  
yêu cầu của giao thức của tầng đóng gói chúng thành các gói tin (packet). Mỗi một gói  
tin sẽ được bổ sung thêm các thông tin kiểm soát của giao thức được gọi phần đầu  
(Header) của gói tin. Thông thường phần đầu của gói tin cần có:  
Địa chỉ của điểm tiếp cận giao dịch nơi đến (Ở đây là 3): khi tầng vận chuyển  
của máy B nhận được gói tin thì nó biết được ứng dụng nào mà nó cần giao.  
Số thứ tự của gói tin, khi tầng vận chuyển chia một khối dữ liệu ra thành nhiều  
gói tin thì nó cần phải đánh số thứ tự các gói tin đó. Nếu chúng đi đến đích nếu sai  
thứ tự thì tầng vận chuyển của máy nhận thể phát hiện chỉnh lại thứ tự. Ngoài  
ra nếu lỗi trên đường truyền thì tầng vận chuyển của máy nhận sẽ phát hiện ra và  
yêu cầu gửi lại một cách chính xác.  
sửa lỗi: để đảm bảo các dữ liệu được nhận một cách chính xác thì trên cơ sở  
các dữ liệu của gói tin tầng vận chuyển sẽ tính ra một giá trị theo một công thức có  
sãn và gửi đi trong phần đầu của gói tin. Tầng vận chuyển nơi nhận thông qua  
giá trị đó xác định được gói tin đó bị lỗi trên đường truyền hay không.  
Bước tiếp theo tầng vận chuyển máy A sẽ chuyển từng gói tin và địa chỉ của máy tính đích  
(ở đây là B) xuống tầng tiếp cận mạng với yêu cầu chuyển chúng đi. Để thực hiện được  
yêu cầu này tầng tiếp cận mạng cũng tạo các gói tin của mình trước khi truyền qua mạng.  
Tại đây giao thức của tầng tiếp cận mạng sẽ thêm các thông tin điều khiển vào phần đầu  
của gói tin mạng.  
Hình 3.4: Mô hình thiết lập gói tin  
Trong phần đầu gói tin mạng sẽ bao gồm địa chỉ của máy tính nhận, dựa trên địa chỉ này  
mạng truyền gói tin tới đích. Ngoài ra có thể những thông số như mức độ ưu tiên.  
Như vậy thông qua mô hình truyền thông đơn giản chúng ta cũng thể thấy được phương  
thức hoạt động của các máy tính trên mạng, thể xây dựng và thay đổi các giao thức  
trong cùng một tầng.  
III. Các nhu cầu về chuẩn hóa đối với mạng  
Trong phần trên chúng ta đã xem xét một mô hình truyền thông đơn giản, trong thực tế  
việc phân chia các tầng như trong mô hình trên thực sự chưa đủ. Trên thế giới hiện một  
số cơ quan định chuẩn, họ đưa ra hàng loạt chuẩn về mạng tuy các chuẩn đó có tính chất  
khuyến nghị chứ không bắt buộc nhưng chúng rất được các quan chuẩn quốc gia coi  
trọng.  
Hai trong số các quan chuẩn quốc tế là:  
ISO (The International Standards Organization) - tổ chức tiêu chuẩn quốc  
tế hoạt động dưới sự bảo trợ của Liên hợp Quốc với thành viên là các quan  
chuẩn quốc gia với số lượng khoảng hơn 100 thành viên với mục đích hỗ trợ sự  
phát triển các chuẩn trên phạm vi toàn thế giới. Một trong những thành tựu của ISO  
trong lãnh vực truyền thông là mô hình hệ thống mở (Open Systems  
Interconnection - gọi tắt là OSI).  
CCITT (Commité Consultatif International pour le Telegraphe et la  
Téléphone) - Tổ chức tư vấn quốc tế về điện tín và điện thoại làm việc dưới sự bảo  
trợ của Liên Hiệp Quốc trụ sở chính tại Geneva - Thụy sỹ. Các thành viên chủ  
yếu là các quan bưu chính viễn thông các quốc gia. Tổ chức này có vai trò phát  
triển các khuyến nghị trong các lãnh vực viễn thông.  
IV. Một số mô hình chuẩn hóa  
1. Mô hình OSI (Open Systems Interconnection)  
Mô hình OSI là một cơ sở dành cho việc chuẩn hoá các hệ thống truyền thông, nó được  
nghiên cứu và xây dựng bởi ISO. Việc nghiên cứu về mô hình OSI được bắt đầu tại ISO  
vào năm 1971 với mục tiêu nhằm tới việc nối kết các sản phẩm của các hãng sản xuất khác  
nhau và phối hợp các hoạt động chuẩn hoá trong các lĩnh vực viễn thông và hệ thống thông  
tin. Theo mô hình OSI chương trình truyền thông được chia ra thành 7 tầng với những  
chức năng phân biệt cho từng tầng. Hai tầng đồng mức khi liên kết với nhau phải sử dụng  
một giao thức chung. Trong mô hình OSI có hai loại giao thức chính được áp dụng: giao  
thức có liên kết (connection - oriented) và giao thức không liên kết (connectionless)  
Giao thức có liên kết: trước khi truyền dữ liệu hai tầng đồng mức cần thiết lập  
một liên kết logic và các gói tin được trao đổi thông qua liên kết náy, việc có liên  
kết logic sẽ nâng cao độ an toàn trong truyền dữ liệu.  
Giao thức không liên kết: trước khi truyền dữ liệu không thiết lập liên kết logic  
mỗi gói tin được truyền độc lập với các gói tin trước hoặc sau nó.  
Nhiệm vụ của các tầng trong mô hình OSI:  
Tầng ứng dụng (Application layer): tầng ứng dụng quy định giao diện giữa  
người sử dụng và môi trường OSI, nó cung cấp các phương tiện cho người sử dụng  
truy cập vả sử dụng các dịch vụ củ mô hình OSI.  
Tầng trình bày (Presentation layer): tầng trình bày chuyển đổi các thông tin từ  
cú pháp người sử dụng sang cú pháp để truyền dữ liệu, ngoài ra nó có thể nén dữ  
liệu truyền và mã hóa chúng trước khi truyền đễ bảo mật.  
Tầng giao dịch (Session layer): tầng giao dịch quy định một giao diện ứng dụng  
cho tầng vận chuyển sử dụng. Nó xác lập ánh xa giữa các tên đặt địa chỉ, tạo ra các  
tiếp xúc ban đầu giữa các máy tính khác nhau trên cơ sở các giao dịch truyền thông.  
đặt tên nhất quán cho mọi thành phần muốn đối thoại riêng với nhau.  
Tầng vận chuyển (Transport layer): tầng vận chuyển xác định địa chỉ trên mạng,  
cách thức chuyển giao gói tin trên cơ sở trực tiếp giữa hai đầu mút (end-to-end). Để  
bảo đảm được việc truyền ổn định trên mạng tầng vận chuyển thường đánh số các  
gói tin và đảm bảo chúng chuyển theo thứ tự.  
Hình 3.5: Mô hình 7 tầng OSI  
Tầng mạng (Network layer): tầng mạng nhiệm vụ xác định việc chuyển  
hướng, vạch đường các gói tin trong mạng, các gói tin này có thể phải đi qua nhiều  
chặng trước khi đến được đích cuối cùng.  
Tầng liên kết dữ liệu (Data link layer): tầng liên kết dữ liệu nhiệm vụ xác  
định cơ chế truy nhập thông tin trên mạng, các dạng thức chung trong các gói tin,  
đóng các gói tin...  
Tầng vật lý (Phisical layer): tầng vật lý cung cấp phương thức truy cập vào  
đường truyền vật để truyền các dòng Bit không cấu trúc, ngoài ra nó cung cấp  
các chuẩn về điện, dây cáp, đầu nối, kỹ thuật nối mạch điện, điện áp, tốc độ cáp  
truyền dẫn, giao diện nối kết và các mức nối kết..  
2. Mô hình SNA (Systems Netword Architecture)  
Tháng 9/1973, Hãng IBM giới thiệu một kiến trúc mạng máy tính SNA (System Network  
Architecture). Đến năm 1977 đã có 300 trạm SNA được cài đặt. Cuối năm 1978, số lượng  
đã tăng lên đến 1250, rồi cứ theo đà đó cho đến nayđã có 20.000 trạm SNA đang được hoạt  
động. Qua con số này chúng ta có thể hình dung được mức độ quan trọng tầm ảnh  
hưởng của SNA trên toàn thế giới.  
Cần lưu ý rằng SNA không là một chuẩn quốc tế chính thức như OSI nhưng do vai trò to  
lớn của hãng IBM trên thị trường CNTT nên SNA trở thành một loại chuẩn thực tế và khá  
phổ biến. SNA là một đặc tả gồm rất nhiều tài liệu tả kiến trúc của mạng xử dữ liệu  
phân tán. Nó định nghĩa các quy tắc và các giao thức cho sự tương tác giữa các thành phần  
(máy tính, trạm cuối, phần mềm) trong mạng.  
SNA được tổ chức xung quanh khái niệm miền (domain). Một SNA domain là một điểm  
điều khiển các dịch vụ hệ thống (Systems Services control point - SSCP) và nó sẽ điều  
khiển tất cả các tài nguyên đó, Các tài nguyên ở đây thể là các đơn vị vật lý, các đơn vị  
logic, các liên kết dữ liệu và các thiết bị. thể ví SSCP như là "trái tim và khối óc" của  
SNA. Nó điều khiển SNA domain bằng cách gói các lệnh tới một đơn vị vật lý, đơn vị vật  
lý này sau khi nhận được lệnh sẽ quản tất cả các tài nguyên trực tiếp với nó. đơn vị vật  
thực sự một "đối tác" của SSCP và chứa một tập con các khả năng của SSCP. Các  
Đơn vị vật đảm nhiệm việc quản của mỗi nút SNA.  
SNA phân biệt giữa các nút miền con (Subarea node) và các nút ngoại vi (peripheral node).  
Một nút miền con có thể dẫn đường cho dữ liệu của người sử dụng qua toàn bộ  
mạng. Nó dùng địa chỉ mạng một số hiệu đường (router suember) để xác định  
đường truyền đi tới nút kế tiếp trong mạng.  
Một nút ngoại vi có tính cục bộ hơn. Nó không dẫn đường giữa các nút miền con.  
Các nút được nối điều khiển theo giao thức SDLC (Synchronous Data Link  
Control). Mỗi nút ngoại vi chỉ liên lạc được với nút miền con mà nó nối vào.  
Mạng SNA dựa trên cơ chế phân tầng, trước đây thì 2 hệ thống ngang hàng không được  
trao đổi trực tiếp. Sau này phát triển thành SNA mở rộng: Lúc này hai tầng ngang hàng  
nhau có thể trao đổi trực tiếp. Với 6 tầng có tên gọi chức năng tất như sau:  
Tầng quản trị chức năng SNA (SNA Function Manegement) Tầng này thật ra  
thể chia tầng này làm hai tầng như sau:  
Tầng dịch vụ giao tác (Transaction) cung cấp các dịch vụ ứng dụng đến người  
dùng một mạng SNA. Những dịch vụ đó như : DIA cung cấp các tài liệu phân bố  
giũa các hệ thống văn phòng, SNA DS (văn phòng dịch vụ phân phối) cho việc  
truyền thông bất đồng bộ giữa các ứng dụng phân tán và hệ thống văn phòng. Tầng  
dịch vụ giao tác cũng cung cấp các dịch vụ cấu hình, các dịch vụ quản để điều  
khiển các hoạt động mạng.  
Tầng dịch vụ trình diễn (Presentation Services): tầng này thì liên quan với sự  
hiển thị các ứng dụng, người sử dụng đầu cuối và các dữ liệu hệ thống. Tầng này  
cũng định nghĩa các giao thức cho việc truyền thông giữa các chương trình và điều  
khiển truyền thông ở mức hội thoại.  
Tầng kiểm soát luồng dữ liệu (Data flow control) tầng này cung cấp các dịch  
vụ điều khiểnluồng lưu thông cho các phiên từ logic này đến đơn vị logic khác (LU  
- LU). Nó thực hiện điều này bằng cách gán các số trình tự, các yêu cầu đáp ứng,  
thực hiện các giao thức yêu cầu về đáp ứng giao dịch hợp tác giữa các giao dịch  
gởi nhận. Nói chung nó yểm trợ phương thức khai thác hai chiều đồng thời (Full  
duplex).  
Tầng kiểm soát truyền (Transmission control): Tầng này cung cấp các điều  
khiển cơ bản của các phần tài nguyên truyền trong mạng, bằng cách xác định số  
trình tự nhận được, quản việc theo dõi mức phiên. Tầng này cũng hỗ trợ cho  
việc mã hóa dữ liệu và cung cấp hệ thống hỗ trợ cho các nút ngoại vi.  
Tầng kiểm soát đường dẫn (Path control): Tầng này cung cấp các giao thức để  
tìm đường cho một gói tin qua mạng SNA và để kết nối với các mạng SNA khác,  
đồng thời cũng kiểm soát các đường truyền này.  
Tầng kiểm soát liên kết dữ liệu (Data Link Control): Tầng này cung cấp các  
giao thức cho việc truyền các gói tin thông qua đường truyền vật giữa hai node  
cũng cung cấp các điều khiển lưu thông và phục hồi lỗi, các hỗ trợ cho tầng này  
là các giao thức SDLC, System/370, X25, IEEE 802.2 và 802.5.  
Tầng kiểm soát vật lý (Physical control): Tầng này cung cấp một giao diện vật  
lý cho bất cứ môi trường truyền thông nào mà gắn với nó. Tầng nào định nghĩa các  
đặc trưng của tín hiệu cần để thiết lập, duy trì và kết thúc các đường nối vật lý cho  
việc hỗ trợ kết nối.  
Hình 3.6: Tương ứng các tầng các kiến trúc SNI và OSI  
Chương 4  
Mô hình kết nối các hệ thống mở  
Open Systems Interconection  
Việc nghiên cứu về OSI được bắt đầu tại ISO vào năm 1971 với các mục tiêu nhằm nối kết  
các sản phẩm của các hãng sản xuất khác. Ưu điểm chính của OSI là ở chỗ hứa hẹn giải  
pháp cho vấn đề truyền thông giữa các máy tính không giống nhau. Hai hệ thống, dù có  
khác nhau đều thể truyền thông với nhau một các hiệu quả nếu chúng đảm bảo những  
điều kiện chung sau đây:  
Chúng cài đặt cùng một tập các chức năng truyền thông.  
Các chức năng đó được tổ chức thành cùng một tập các tầng. các tầng đồng mức  
phải cung cấp các chức năng như nhau.  
Các tầng đồng mức khi trao đổi với nhau sử dụng chung một giao thức  
Mô hình OSI tách các mặt khác nhau của một mạng máy tính thành bảy tầng theo mô hình  
phân tầng. Mô hình OSI là một khung mà các tiêu chuẩn lập mạng khác nhau có thể khớp  
vào. Mô hình OSI định rõ các mặt nào của hoạt động của mạng thể nhằm đến bởi các  
tiêu chuẩn mạng khác nhau. Vì vậy, theo một nghĩa nào đó, mô hình OSI là một loại tiêu  
chuẩn của các chuẩn.  
I. Nguyên tắc sử dụng khi định nghĩa các tầng hệ thống mở:  
Sau đây là các nguyên tắc mà ISO quy định dùng trong quá trình xây dựng mô hình OSI  
Không định nghĩa quá nhiều tầng để việc xác định và ghép nối các tầng không quá  
phức tạp.  
Tạo các ranh giới các tầng sao cho việc giải thích các phục vụ số các tương tác  
qua lại hai tầng nhỏ nhất.  
Tạo các tầng riêng biệt cho các chức năng khác biệt nhau hoàn toàn về kỹ thuật sử  
dụng hoặc quá trình thực hiên.  
Các chức năng giống nhau được đặt trong cùng một tầng.  
Lựa chọn ranh giới các tầng tại các điểm những thử nghiệm trong quá khứ  
thành công.  
Các chức năng được xác định sao cho chúng có thể dễ dàng xác định lại, và các  
nghi thức của chúng có thể thay đổi trên mọi hướng.  
Tạo ranh giới các tầng ở đó cần những mức độ trừu tượng khác nhau trong  
việc sử dụng số liệu.  
Cho phép thay đổi các chức năng hoặc giao thức trong tầng không ảnh hưởng đến  
các tầng khác.  
Tạo các ranh giới giữa mỗi tầng với tầng trên và dưới nó.  
II. Các giao thức trong mô hình OSI  
Trong mô hình OSI có hai loại giao thức chính được áp dụng: giao thức có liên kết  
(connection - oriented) và giao thức không liên kết (connectionless).  
Giao thức có liên kết: trước khi truyền dữ liệu hai tầng đồng mức cần thiết lập một  
liên kết logic và các gói tin được trao đổi thông qua liên kết náy, việc có liên kết  
logic sẽ nâng cao độ an toàn trong truyền dữ liệu.  
Giao thức không liên kết: trước khi truyền dữ liệu không thiết lập liên kết logic và  
mỗi gói tin được truyền độc lập với các gói tin trước hoặc sau nó.  
Như vậy với giao thức có liên kết, quá trình truyền thông phải gồm 3 giai đoạn phân biệt:  
Thiết lập liên kết (logic): hai thực thể đồng mức ở hai hệ thống thương lượng với  
nhau về tập các tham số sẽ sử dụng trong giai đoạn sau (truyền dữ liệu).  
Truyền dữ liệu: dữ liệu được truyền với các cơ chế kiểm soát và quản lý kèm theo  
(như kiểm soát lỗi, kiểm soát luồng dữ liệu, cắt/hợp dữ liệu...) để tăng cường độ tin  
cậy hiệu quả của việc truyền dữ liệu.  
Hủy bỏ liên kết (logic): giải phóng tài nguyên hệ thống đã được cấp phát cho liên  
kết để dùng cho liên kết khác.  
Đối với giao thức không liên kết thì chỉ có duy nhất một giai đoạn truyền dữ liệu mà thôi.  
Gói tin của giao thức: Gói tin (Packet) được hiểu như một đơn vị thông tin dùng trong  
việc liên lạc, chuyển giao dữ liệu trong mạng máy tính. Những thông điệp (message) trao  
đổi giữa các máy tính trong mạng, được tạo dạng thành các gói tin máy nguồn. những  
gói tin này khi đích sẽ được kết hợp lại thành thông điệp ban đầu. Một gói tin có thể chứa  
đựng các yêu cầu phục vụ, các thông tin điều khiển dữ liệu.  
Tải về để xem bản đầy đủ
doc 120 trang baolam 09/05/2022 5660
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Toàn tập Mạng máy tính", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • docgiao_trinh_toan_tap_mang_may_tinh.doc