Tác động của quảng cáo mạng xã hội tới hành vi mua sắm của người tiêu dùng đối với sản phẩm trang sức tại Việt Nam

VNU Journal of Economics and Business, Vol. 1, No. 1 (2021) 51-61  
VNU Journal of Economics and Business  
Journal homepage: https://js.vnu.edu.vn/EAB  
Original Article  
Impact of Social Network Advertisements on  
Consumers’ Purchasing of Jewelry Products in Vietnam  
Luu Thi Minh Ngoc*  
VNU University of Economics and Business, Vietnam National University, Hanoi  
144 Xuan Thuy, Cau Giay District, Hanoi, Vietnam  
Received 6 May 2021  
Revised 6 May 2021; Accepted 25 June 2021  
Abstract: This study examines the impacts of social media advertisements on consumers' behaviors  
shopping for jewelry products in Vietnam. The theory of planned behavior (TPB) and the technology  
adoption model (TAM) is used to build this research model. Social media advertisements include  
brand reputation, information, entertainment, distractions, interactivity, value, and trustworthiness  
inherited from previous research. The official research sample includes individuals living in the ten  
richest provinces and cities in Vietnam (i.e.: Hanoi, Ho Chi Minh City, Ba Ria Vung Tau, Bac Ninh,  
Binh Duong, Dong Nai, Hai Phong, Quang Ninh, Khanh Hoa, Da Nang) with a sample size of 227  
respondents. The research results show that social media advertisement factors have an impact on  
consumers' attitudes and behaviors. The results also show that there are differences in behavior due  
to the influence of demographic factors.  
Keywords: Shopping behavior, social media advertising, the theory of planned behavior (TPB),  
jewelry, Vietnam.  
_______  
*Corresponding author  
51  
L.T.M. Ngoc / VNU Journal of Economics and Business, Vol. 1, No. 1 (2021) 51-61  
52  
Tác động của quảng cáo mạng xã hội tới hành vi mua sắm  
của người tiêu dùng đối với sản phẩm trang sức tại Việt Nam  
Lưu Thị Minh Ngọc*  
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội  
144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam  
Nhận ngày 6 tháng 5 năm 2021  
Chỉnh sửa ngày 6 tháng 5 năm 2021; Chấp nhận đăng ngày 25 tháng 6 năm 2021  
Tóm tắt: Nghiên cứu này tập trung xem xét tác động của quảng cáo mạng xã hội tới hành vi mua  
sắm sản phẩm trang sức của người tiêu dùng tại Việt Nam. Lý thuyết hành vi dự định (TPB) và mô  
hình chấp nhận công nghệ (TAM) được sử dụng làm cơ sở để xây dựng mô hình nghiên cứu. Trong  
đó, các yếu tố của quảng cáo mạng xã hội bao gồm danh tiếng thương hiệu, tính thông tin, tính giải  
trí, tính phiền nhiễu, tính tương tác, tính giá trị và sự tin cậy. Mẫu nghiên cứu chính thức bao gồm  
các cá nhân tại 10 tỉnh, thành giàu nhất Việt Nam (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng  
Tàu, Bắc Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, Hải Phòng, Quảng Ninh, Khánh Hòa, Đà Nẵng) với cỡ mẫu  
227 phiếu khảo sát. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các yếu tố quảng cáo mạng xã hội có tác động tới  
thái độ và hành vi của người tiêu dùng, đồng thời có sự khác biệt về hành vi dưới tác động của yếu  
tố nhân khẩu học.  
Từ khóa: Hành vi mua sắm, quảng cáo mạng xã hội, trang sức, lý thuyết hành vi (TPB), Việt Nam.  
MXH, trong đó tỷ lệ nữ giới dùng Facebook  
nhiều hơn nam giới [1].  
1. Giới thiệu  
Trong bối cảnh thời đại công nghệ 4.0, khi  
Xu hướng quảng cáo trên MXH cũng có sự  
thay đổi cùng với xu hướng sử dụng MXH ngày  
càng gia tăng. Báo cáo của Vietnam Report cho  
thấy tỷ lệ doanh nghiệp bán lẻ tập trung đẩy  
mạnh cho truyền thông MXH là 45,5% [2]. Điều  
này cho thấy, sức hút của MXH đã làm thay đổi  
quan điểm của các doanh nghiệp bán lẻ về truyền  
thông và quảng cáo. So với các hoạt động quảng  
cáo truyền thống, quảng cáo trực tuyến trên  
MXH là công cụ tiếp thị có chi phí thấp hơn  
nhưng lại có khả năng tiếp cận tới khách hàng  
tiềm năng cao hơn rất nhiều nếu biết cách sử  
dụng hợp lý và đúng cách.  
Ngành hàng trang sức là một trong những  
ngành hàng có sức hút lớn và giàu tiềm năng. Sự  
phát triển kinh tế đi cùng với thu nhập của người  
dân ngày càng tăng dẫn đến nhu cầu mua sắm  
trang sức ngày càng lớn. Theo báo cáo của  
Vietnam Report, ba lĩnh vực bán lẻ dẫn đầu gồm:  
ngành hàng tiêu dùng nhanh, nhóm hàng lâu bền,  
điện máy, điện lạnh và vàng bạc, trang sức. Ngành  
hàng trang sức hiện là một trong những lĩnh vực  
kinh doanh được ứng dụng quảng cáo trực tuyến  
nhiều nhất ở thị trường Việt Nam [2]. Do đó, bài  
mà công nghệ thông tin được áp dụng rộng rãi  
trên mọi lĩnh vực của đời sống, internet đã làm  
thay đổi cách thức mua hàng truyền thống của  
người tiêu dùng. Thay vì phải đến trực tiếp các  
cửa hàng, chỉ cần một chiếc máy tính hoặc điện  
thoại có kết nối internet, người tiêu dùng có thể  
mua hàng ở bất cứ đâu. Cùng với đó, người tiêu  
dùng cũng dần quen với việc chấp nhận các  
thông tin quảng cáo trên mạng xã hội (MXH)  
nhiều hơn. Theo báo cáo Vietnam Digital 2020,  
hiện nay số người sử dụng MXH là 65 triệu  
người (tương đương 67% dân số), trong đó số  
người sử dụng MXH tăng 5,7 triệu người (9,6%)  
so với thời điểm thống kê tháng 4 năm 2019 [1].  
Báo cáo cũng cho thấy, quảng cáo MXH tập  
trung vào Facebook, YouTube, Zalo, Instagram  
và Facebook Messenger. Trong đó, số người  
theo dõi quảng cáo qua MXH cao nhất (61 triệu  
người). Thời gian trung bình sử dụng Facebook  
của người Việt là 17 phút 48 giây, sử dụng  
YouTube là 11 phút 44 giây, trung bình mỗi  
người dành 2 giờ 22 phút cho việc sử dụng  
* Tác giả liên hệ  
Địa chỉ email: minhngoc.edu@gmail.com  
L.T.M. Ngoc / VNU Journal of Economics and Business, Vol. 1, No. 1 (2021) 51-61  
53  
viết này trình bày kết quả nghiên cứu về tác động  
của quảng cáo MXH đến hành vi mua sắm của  
người tiêu dùng đối với sản phẩm trang sức tại  
Việt Nam. Ngoài phần giới thiệu, bài viết được  
kết cấu gồm tổng quan và giả thuyết nghiên cứu,  
phương pháp nghiên cứu, kết quả nghiên cứu và  
hàm ý quản trị, hạn chế của nghiên cứu.  
hưởng bởi các nhà quảng cáo như độ tin cậy của  
nhà quảng cáo, sự khác biệt giữa tuyên bố quảng  
cáo với các thông điệp tương tự [10]. MacKenzie  
và cộng sự (1986) giải thích rằng sự phức tạp của  
các biến số khác nhau có ảnh hưởng đến việc tạo  
ra thái độ của người tiêu dùng [10].  
Khác với quảng cáo truyền thống, người  
tiêu dùng chỉ tập trung vào các nội dung quảng  
cáo trên truyền hình thì với quảng cáo MXH,  
người tiêu dùng dễ bị phân tâm bởi các nội  
dung khác trên mạng [11]. Theo đó, trang  
mạng phức tạp thì người tiêu dùng coi là thú  
vị, tuy nhiên cũng có kết quả nghiên cứu cho  
rằng các trang mạng phức tạp có tác động tiêu  
cực đến thái độ đối với quảng cáo [9].  
2. Tổng quan lý thuyết và giả thuyết nghiên  
cứu  
2.1. Quảng cáo mạng xã hội  
Quảng cáo trên MXH là hình thức sử dụng hệ  
thống MXH trực tuyến để tiếp thị, marketing hay  
bán hàng trực tuyến. Sự ra đời của các nền tảng  
truyền thông xã hội đã làm thay đổi hoàn toàn bối  
cảnh truyền thông chung cùng với mô hình quảng  
cáo [3]. Quảng cáo trên MXH được hiểu là hình  
thức giao tiếp ngang hàng không trả tiền về nội  
dung được xác định bằng cách sử dụng internet để  
thuyết phục hoặc gây ảnh hưởng đến người khác  
[4]. Nhận thấy tiềm năng ngày càng gia tăng của  
truyền thông nội dung, các nhà tiếp thị cho rằng  
việc tạo ra nội dung quảng cáo có tính hấp dẫn có  
thmở rộng phạm vi tiếp cận tiềm năng - một chiến  
thuật rẻ hơn và hiệu quả hơn so với việctrả tiền cho  
quảng cáo truyền thống [3, 5, 6]. Ducoffe (1995)  
cho rằng quảng cáo trực tuyến có thể cung cấp giá  
trị cho người dùng internet dưới dạng thông tin phù  
hợp hơn [7].  
2.3. Hành vi tiêu dùng  
Hành vi người tiêu dùng là sự tương tác  
năng động của các yếu tố ảnh hưởng đến nhận  
thức, hành vi và môi trường mà qua đó con  
người thay đổi cuộc sống của họ [12]. Hành vi  
của người tiêu dùng là một quá trình mô tả  
cách thức mà người tiêu dùng ra quyết định lựa  
chọn và loại bỏ một loại sản phẩm hay dịch vụ  
[13, 14]. Hành vi tiêu dùng chịu sự chi phối  
bởi các yếu tố văn hóa, xã hội, hoàn cảnh cá  
nhân và yếu tố tâm lý [15].  
3. Mô hình và giả thuyết nghiên cứu  
Mô hình được đề xuất trong nghiên cứu này  
dựa trên mô hình thuyết hành vi dự định (TPB) và  
mô hình chấp nhận công nghệ (TAM). Mô hình  
có bổ sung các yếu tố được coi là có ảnh hưởng  
đến thái độ của người tiêu dùng với quảng cáo  
trực tuyến, đã được đề cập trong các nghiên cứu  
trước đây của Ducofee (1995), Brackett và Carr  
(2001) [7, 18]. Cụ thể: yếu tố thông tin quảng cáo  
(INF), tính giải trí (ENT), sự phiền nhiễu (IRR),  
giá trị quảng cáo (VAL) dựa vào mô hình Ducoffe  
(1995); yếu tố khả năng tương tác (INT) dựa vào  
nghiên cứu của Wang (2005) [29]; yếu tố sự tín  
nhiệm (CRE) tác động đến thái độ người dùng  
dựa vào nghiên cứu của Brackett và Carr (2001).  
Cùng với đó là các yếu tố thuộc về uy tín người  
bán hàng, đồng thời bổ sung các biến nhân khẩu  
học là một trong các yếu tố ảnh hưởng đến hành  
vi theo lý thuyết của Philip Kotler (2001) [30].  
2.2. Thái độ đối với quảng cáo  
Thái độ là một trong bốn yếu tố cơ bản ảnh  
hưởng rất lớn đến hành vi của người tiêu dùng  
(bốn yếu tố tâm lý cơ bản gồm: động cơ, nhận  
thức, niềm tin và thái độ) [8]. Khi xem xét quảng  
cáo MXH và nhận diện thương hiệu thì không thể  
không xem xét thái độ của người tiêu dùng [9].  
Một trong những cách quan trọng nhất để hiểu  
người tiêu dùng cũng như sự nhận thức và sự chấp  
nhận của họ đối với các thông điệp quảng cáo là  
nghiên cứu về thái độ. Thái độ đo lường cảm xúc  
tích cực hay tiêu cực của người tiêu dùng đối với  
quảng cáo, sản phẩm hoặc dịch vụ [10]. Một trong  
những biểu hiện của thái độ tích cực đối với quảng  
cáo là tác động mạnh mẽ đến thương hiệu, từ đó  
có tác động tích cực đến ý định mua hàng [11].  
Trong đó, thái độ đóng vai trò trung gian và bị ảnh  
L.T.M. Ngoc / VNU Journal of Economics and Business, Vol. 1, No. 1 (2021) 51-61  
54  
Tính thông tin  
Tính giá trị  
Sự tin cậy  
Hành vi  
Thái độ  
Sự phiền nhiễu  
Giá trị quảng cáo  
Tính tương tác  
Các biến nhân khẩu học  
Uy tín thương hiệu  
Hình 1: Mô hình nghiên cứu  
Nguồn: Tác giả đề xuất.  
người dùng càng hài lòng và càng tương tác cao  
với các công cụ tiếp thị truyền thông qua mạng  
internet sẽ dẫn tới thái độ tích cực và cải thiện  
tâm trạng của họ [20]. Shavitt và cộng sự (1998)  
cũng khẳng định tính giải trí được cảm nhận từ  
quảng cáo có ảnh hưởng mạnh tới thái độ người  
tiêu dùng đối với quảng cáo đó [21]. Tsang và  
cộng sự (2004) cũng cho thấy tính giải trí trong  
thông tin quảng cáo có tác động tích cực đến giá  
trị nhận thức và hành vi của người tiêu dùng [19].  
Do vậy, nghiên cứu đề xuất giả thuyết như sau:  
H2: Tính giải trí của quảng cáo MXH về  
mặt hàng trang sức càng cao sẽ có tác động  
tích cực đến thái độ của người tiêu dùng đối  
với quảng cáo.  
Tính thông tin (INF)  
Theo Ducoffe (1995), thông tin là yếu tố quan  
trọng đối với quảng cáo trực tuyến, khách hàng  
tiềm năng thường đòi hỏi các thông tin bổ sung cho  
sản phẩm mà họ có nhu cầu [7]. Waldt và cộng sự  
(2009) cho rằng thông tin được định nghĩa là khả  
năng quảng cáo cung cấp thông tin cho người tiêu  
dùng về những lựa chọn sản phẩm thay thế để họ  
thực hiện hành vi mua sắmtrong trạngthái hài lòng  
nhất [16]. Soares và cộng sự (2012) đã chỉ ra yếu  
tố thông tin chịu sự tác động của quan hệ xã hội và  
sự tin tưởng [17]. Thang đo INF dựa theo nghiên  
cứu giá trị nhận thức khách hàng và thái độ đối với  
quảng cáo của Ducoffe (1995), Brackett và Carr  
(2001) trong nghiên cứu thái độ người dùng quảng  
cáo trực tuyến so với các hình thức truyền thông  
khác [18]; nghiên cứu về vai trò của MXH trong  
tiếp thị của Soares và cộng sự (2012); nghiên cứu  
thái độ đối với quảng cáo trên thiết bị di động [19].  
Giả thuyết được đề xuất như sau:  
Sự tin cậy (CRR)  
Sự tin cậy vào quảng cáo chỉ mức độ tin  
tưởng của người tiêu dùng đối với thông điệp  
quảng cáo và dựa trên cơ sở lòng tin đặt vào  
nguồn gốc của các mẫu quảng cáo và niềm tin  
vào người đăng quảng cáo [22]. Goldsmith và  
cộng sự (2000) cho rằng sự tin cậy có ảnh  
hưởng trực tiếp, tác động tích cực tới thái độ  
đối với quảng cáo, thương hiệu và ý định mua  
hàng của người tiêu dùng [23]. Choi và Rifon  
(2002) cho rằng sự tín nhiệm là một trong  
những thành phần quan trọng thuyết phục và  
ảnh hưởng đến các kết quả thuyết phục của  
thông điệp [24]. Thang đo sự tin cậy dựa theo  
H1: Yếu tố thông tin của quảng cáo MXH về  
mặt hàng trang sức có tác động tích cực đến thái  
độ của người tiêu dùng đối với quảng cáo.  
Tính giải trí của quảng cáo (ENT)  
Theo Ducoffe (1995), tính giải trí của quảng  
cáo trực tuyến có thể tác động tích cực đến thái  
độ của người tiêu dùng [6]. Bên cạnh đó, nghiên  
cứu của Hoffman và cộng sự (1996) cũng chỉ ra  
L.T.M. Ngoc / VNU Journal of Economics and Business, Vol. 1, No. 1 (2021) 51-61  
55  
mô hình nghiên cứu của Brackett và Carr  
(2001) về thái độ người dùng quảng cáo trực  
tuyến so với các hình thức truyền thông khác;  
Tsang và cộng sự (2004) trong nghiên cứu thái  
độ đối với quảng cáo trên thiết bị di động [18,  
19]. Giả thuyết được đề xuất như sau:  
H3: Sự tin cậy của quảng cáo MXH về mặt  
hàng trang sức có tác động tích cực đến thái độ  
đối với quảng cáo.  
quảng cáo [7]. Thang đo giá trị của quảng cáo  
(VAL) dựa theo nghiên cứu của Ducoffe (1995).  
Giả thuyết được đề xuất như sau:  
H5: Giá trị của quảng cáo MXH về mặt hàng  
trang sức có tác động tích cực đến thái độ của  
người tiêu dùng đối với quảng cáo.  
Tính tương tác (INT)  
Tính tương tác (INT) là mức độ tương tác  
giữa người dùng với các loại hình quảng cáo.  
Cho và Leckenby (1999), Wu (1999), Sukpanick  
và Chen (2000) phân chia tính tương tác thành  
ba nhóm là tương tác giữa “người - người”,  
“người - thông điệp”, “người - máy tính” [26-  
28]. Đối với quảng cáo trực tuyến, Sukpanick và  
Chen (2000) phân loại sự tương tác thành ba loại:  
tương tác “máy”, “nội dung” và “người” [28].  
Các nghiên cứu này đã chỉ ra rằng tính tương tác  
là yếu tố có ảnh hưởng đến thái độ của người sử  
dụng đối với quảng cáo [28, 29]. Thang đo INT  
trong nghiên cứu này dựa theo nghiên cứu các  
yếu tố tác động đến giá trị nhận thức của khách  
hàng và thái độ quảng cáo của Brackett và Carr  
(2001), Wang và cộng sự (2002), Ko và cộng sự  
[30]. Giả thuyết được đề xuất như sau:  
Tính phiền nhiễu (IRR)  
Sự phiền nhiễu là những tác động tiêu cực  
của quảng cáo MXH đến người tiêu dùng. Theo  
Ducoffe (1995), quảng cáo sử dụng các kỹ thuật  
gây ra sự khó chịu, xúc phạm hay thái quá thì  
người tiêu dùng thường sẽ cảm thấy những tác  
động không mong muốn và khó chịu từ quảng  
cáo đó [7]. Sự khó chịu sẽ làm giảm tính hiệu quả  
của quảng cáo và gây ra phiền toái cho người tiêu  
dùng. Thang đo IRR trong nghiên cứu này dựa  
theo nghiên cứu của Ducoffe (1995) về thái độ  
đối với quảng cáo; Brackett và Carr (2001) trong  
nghiên cứu thái độ của người tiêu dùng quảng  
cáo trực tuyến so với các hình thức truyền thông  
khác [7, 18]; Tsang và cộng sự (2004) trong  
nghiên cứu thái độ đối với quảng cáo trên thiết  
bị di động [19]. Giả thuyết được đề xuất như sau:  
H4: Sự phiền nhiễu của quảng cáo MXH về  
mặt hàng trang sức có tác động tiêu cực đến thái  
độ của người tiêu dùng đối với quảng cáo.  
H6: Tính tương tác của quảng cáo MXH về  
mặt hàng trang sức có tác động tích cực đến thái  
độ của người tiêu dùng đối với quảng cáo.  
Danh tiếng thương hiệu (BE)  
Giá trị quảng cáo (VAL)  
Một thương hiệu được định nghĩa là tên đặc  
trưng hoặc biểu tượng thể hiện cho sản phẩm và  
dịch vụ [31]. Để thành công và đạt lợi nhuận cao,  
thương hiệu cần đạt được danh tiếng tốt [32].  
Danh tiếng thương hiệu được định nghĩa là một  
trong những yếu tố ảnh hưởng đến cảm nhận về  
chất lượng sản phẩm mang tên thương hiệu đó  
[33]. Tính kết nối và tương tác với thương hiệu  
là một trong những yếu tố để khách hàng gắn bó  
với thương hiệu [23]. Spreng và Mackoy (1996)  
cũng chỉ ra rằng chất lượng dịch vụ là tiền đề của  
sự hài lòng khách hàng [34]. Có thể thấy rằng có  
một cộng đồng khách hàng đối với thương hiệu  
là một trong những yếu tố tác động đến quyết  
định mua sắm của người tiêu dùng, nhận thức và  
cảm xúc có quan hệ với nhau trong một tổ chức  
dịch vụ [35].  
Giá trị quảng cáo là đánh giá chủ quan về các  
giá trị hữu ích của quảng cáo đối với người tiêu  
dùng [6]. Tính hữu ích có thể xây dựng dựa vào  
niềm tin của thương hiệu. Phân tích hành vi của  
khách hàng đối với các quảng cáo cho thấy khách  
hàng sẽ thích quảng cáo mà họ cho là có giá trị  
và ngược lại, một quảng cáo thiếu giá trị sẽ làm  
cho người tiêu dùng phản ứng tiêu cực. Bối cảnh  
truyền thông được cho là có ảnh hưởng đến giá  
trị quảng cáo. Theo Ducoffe (1995), quảng cáo  
web mang lại giá trị vì: (i) cho phép truy cập  
thông tin lập tức khi người tiêu dùng cần; (ii)  
thông tin có liên quan trực tiếp đến khách hàng,  
dễ dàng giao tiếp; (iii) quảng cáo linh hoạt, thay  
đổi cập nhật nhanh chóng, dễ dàng đáp ứng nhu  
cầu thị trường và người tiêu dùng; (iv) giao dịch  
có thể thực hiện trực tiếp khi người dùng xem  
L.T.M. Ngoc / VNU Journal of Economics and Business, Vol. 1, No. 1 (2021) 51-61  
56  
H7: Danh tiếng của thương hiệu được quảng  
cáo MXH có tác động tích cực đến thái độ của  
người tiêu dùng đối với quảng cáo.  
(3 câu hỏi) dựa trên nghiên cứu của Zhang và  
Wang (2005), giá trị_VAL (4 câu hỏi) dựa trên  
nghiên cứu của Fang và cộng sự (2016), Wu và  
cộng sự (2014), sự tin cậy_CRR (4 câu hỏi), thái  
độ_ATT (4 câu hỏi) dựa trên nghiên cứu của  
Brackett và Carr (2001). Đối với mỗi câu hỏi,  
những người được hỏi được yêu cầu thể hiện quan  
điểm của họ về các yếu tố ảnh hưởng đến quyết  
định sử dụng thanh toán điện tử trên thang đo  
Likert 5 điểm, từ 1 = “rất không đồng ý” đến 5 =  
“rất đồng ý”.  
Mối quan hệ giữa thái độ đối với quảng cáo  
(ATT) với hành vi mua sắm (CB)  
Thái độ đối với quảng cáo là thái độ tích cực  
hoặc tiêu cực ở góc độ chủ quan của người tiêu  
dùng. Lutz (1985) cho rằng nó là một trong  
những yếu tố quyết định đến thái độ đối với một  
quảng cáo cụ thể [36]. Theo Mehta (2000), thái  
độ đối với quảng cáo ảnh hưởng đến sự thành  
công của bất kỳ hình thức quảng cáo nào [37].  
Thái độ đối với quảng cáo chịu sự tác động của  
quan hệ xã hội và sự tin tưởng [17]. Nó luôn  
được giả định có ảnh hưởng cùng chiều đến hành  
vi mua, thái độ tích cực sẽ dẫn đến hành vi mua  
hàng và ngược lại. Thang đo thái độ đối với  
quảng cáo trong nghiên cứu này dựa theo nghiên  
cứu của Ducofee (1995), Brackett và Carr  
(2001), Tsang và cộng sự (2004). Giả thuyết  
được đề xuất như sau:  
Bảng hỏi khảo sát sau khi điều chỉnh dựa trên  
các góp ý của chuyên gia được sử dụng để nghiên  
cứu chính thức. Trước khi tiến hành nghiên cứu  
định lượng chính thức, tác giả tiến hành nghiên  
cứu thử nghiệm với cỡ mẫu là 50 mẫu. Kết quả  
nghiên cứu thử nghiệm cho thấy độ tin cậy của  
thang đo với hệ số Cronbach’s Alpha của các  
biến thành viên đều lớn hơn 0,6. Tuy nhiên, biến  
quan sát danh tiếng thương hiệu (BE2), hành vi  
(CB3), tính phiền nhiễu (IRR1), giá trị quảng cáo  
(VAL2) có hệ số tương quan biến tổng < 0,3, do  
vậy các biến này bị loại ra khỏi mô hình nghiên  
cứu để phân tích lại độ tin cậy của các thang đo.  
Kết quả cho thấy các biến quan sát có hệ số sau  
khi loại bỏ biến đều nhỏ hơn hệ số Cronbach’s  
Alpha và hệ số Cronbach’s Alpha biến tổng đều  
lớn hơn 0,3. Kiểm định độ tin cậy của thang đo  
và phân tích nhân tố khám phá EFA, hệ số KMO  
và kiểm định Bartlett’s được áp dụng để xác  
minh sự phù hợp của 31 biến trước khi đưa vào  
nghiên cứu định lượng chính thức. Trong phân  
tích EFA sử dụng phép phân tích thành phần  
chính (PCA) với phép quay promax. Các biến có  
trọng số nhỏ hơn 0,50 tiếp tục bị loại bỏ. Kết quả  
phân tích EFA với 31 biến với giá trị KMO là  
0,834 > 0,05 và Sig là 0,000. Kết quả phân tích  
31 biến được tích hợp thành 9 nhóm chính với  
tổng phương sai trích 77,178%.  
H8: Thái độ của người tiêu dùng đối với  
quảng cáo MXH có tác động tích cực đối với  
hành vi mua sắm.  
Nhân khẩu học (MID)  
Yếu tố nhân khẩu học là những thông tin liên  
quan tới cá nhân. Các yếu tố nhân khẩu học quan  
trọng bao gồm: độ tuổi, giới tính, thu nhập, trình  
độ học vấn, nghề nghiệp. Thang đo các thành  
phần nhân khẩu học được dùng để xem xét sự  
khác biệt về thái độ đối với quảng cáo và hành vi  
đối với quảng cáo của từng nhóm nhân khẩu học.  
Giả thuyết được đề xuất như sau:  
H9: Có sự khác biệt về hành vi đối với quảng  
cáo MXH theo các yếu tố nhân khẩu học.  
4. Phương pháp nghiên cứu  
4.2. Mẫu nghiên cứu  
4.1. Đo lường  
Mẫu nghiên cứu chính thức bao gồm các cá  
nhân tại 10 tỉnh, thành giàunhất Việt Nam: Hà Nội,  
Hồ Chí Minh, Bà Rịa Vũng Tàu, Bắc Ninh, Bình  
Dương, ĐồngNai, Hải Phòng, Quảng Ninh, Khánh  
Hòa, Đà Nẵng [41]. Phương pháp lấy mẫu ngẫu  
nhiên thuận tiện được áp dụng. Khảo sát được tiến  
hành theo hình thức điều tra bằng bảng hỏi trực  
tiếp. Sau 30 ngày tiến hành khảo sát, tác giả thu  
Bảng hỏi khảo sát được xây dựng dựa trên các  
nghiên cứu trước đây. Trong đó, thang đo danh  
tiếng của thương hiệu _BE (4 câu hỏi), tính thông  
tin_INF (3 câu hỏi), tính giải trí_ENT (3 câu hỏi),  
tính phiền nhiễu_IRR (4 câu hỏi), hành vi_CB (5  
câu hỏi) dựa trên nghiên cứu của Tsang và cộng  
sự (2004), Ducoffe (1995). Tính tương tác_INT  
L.T.M. Ngoc / VNU Journal of Economics and Business, Vol. 1, No. 1 (2021) 51-61  
57  
được 227 phiếu khảo sát, trong đó: 79,74% nữ giới,  
20,26% nam giới, dưới 18 tuổi chiếm tỷ lệ 10,57%,  
từ 18 đến 30 tuổi chiếm 65,64%, trên 30 tuổi chiếm  
10,57%, 44,94% đang đi học và 50,07% đã đi làm,  
64,76% có thu nhập dưới 20 triệu đồng/tháng và  
35,24% có thu nhập trên 20 triệu đồng/tháng.  
hợp và chỉ số trích xuất phương sai trung bình đều  
cao hơn tiêu chí đánh giá cho tất cả các biện pháp  
(CR > 0,60; AVE > 0,50) [38]. Ngoài ra, Bảng 2  
cũng chỉ ra rằng tất cả các giả thuyết và các ước  
tính đều tích cực và có ý nghĩa, cung cấp bằng  
chứng về tính hợp lệ hội tụ [39].  
Kết quả kiểm tra giả thuyết trong Bảng 3 cho  
thấy tầm quan trọng của tất cả các giả thuyết. Trong  
nghiên cứu này, tính tin cậy và tương tác đã được  
tìm thấy có tác động tích cực đến thái độ (ước tính β  
= 0,370, CR = 4,541) và (ước tính β = 0,233, CR =  
3,233). Do đó, H1 và H2 được chấp nhận. Sự phiền  
nhiễu đã được chứng minh là có mối quan hệ tiêu  
cực đến thái độ đối với quảng cáo (ước tính β = -  
0,192, CR = -2,767). Do đó, H3 cũng được chấp  
nhận trong nghiên cứu này. Giả thuyết 4 và 5 cho  
rằng giá trị quảng cáo và danh tiếng thương hiệu có  
tác động tích cực đến thái độ đối với quảng cáo đã  
được chấp nhận (ước tính β = 0,122, CR = 1,800) và  
(ước tính β = 0,506, CR = 5,464). Ngoài ra, H6 (ước  
tính β = 0,307, CR = 3,867) cho thấy tính giải trí có  
ảnh hưởng tích cực đến thái độ đối với quảng cáo.  
Tương tự, không thể phủ nhận rằng thông tin quảng  
cáo có tác động tích cực đến thái độ đối với quảng  
cáo của người tiêu dùng tại Việt Nam với ước tính  
của hai biến lần lượt là ước tính β = 0,255 và CR =  
3,306. Do đó, giả thuyết H7 được chấp nhận. Cuối  
cùng, kết quả cho thấy thái độ đối với quảng cáo có  
cđộngtíchccđếnhành vi mua sắmtrang sức của  
người tiêu dùng tại Việt Nam với ướctính β = 0,860  
và CR = 6,257. Giả thuyết H8 được chấp nhận. Kết  
quả nghiên cứu cũng cho thấy thái độ đối với quảng  
cáo chịu tác động mạnh của danh tiếng thương hiệu,  
tiếp đến là độ tin cậy, tính giải trí của quảng cáo,  
thôngtin, tương tác và cuối cùnglà giátrị của quảng  
cáo. Trong khi đó, hành vi mua trang sức chịu tác  
động mạnh của thái độ đối với quảng cáo.  
5. Kết quả nghiên cứu  
5.1. Kết quả phân tích tương quan biến  
Bảng 1 cho thấy tất cả các biến có tương  
quan dương với các biến còn lại và các hệ số  
tương quan đều nằm trong khoảng từ 0,270 đến  
0,834, thể hiện các biến có mối tương quan chặt  
chẽ với nhau. Do đó, mô hình đo lường thỏa mãn  
các điều kiện để kiểm tra sự phù hợp của mô hình  
trong các bước tiếp theo.  
5.2. Kiểm định tính hội tụ và phân biệt  
Việc kiểm tra mô hình đo lường gồm các ước  
lượng tính nhất quán bên trong, tính hội tụ hợp  
lệ và phân biệt của các thang đo nghiên cứu. Để  
kiểm tra, tác giả tiến hành phân tích nhân tố  
khẳng định CFA của 9 biến với 31 biến quan sát  
để đánh giá tính đơn chiều của từng cấu trúc [37].  
Mô hình đo lường cung cấp sự phù hợp của dữ  
liệu nghiên cứu (Chi-bình phương = 203,854; Df  
= 209; Cmin/df = 0,975 (< 3); GFI = 0,930; TLI  
= 0,956; CFI = 0,957; RMSEA = 0,000; RMR =  
0,026; P = 0,587).  
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng chỉ  
số độ tin cậy tổng hợp của Bagozzi và Yi (1988)  
và chỉ số trích xuất phương sai trung bình của  
Fornell và Larcker (1981) để tính độ tin cậy của  
các biện pháp [39, 38]. Cả chỉ số độ tin cậy tổng  
Bảng 1: Phân tích tương quan biến  
ATT INF VAL ENT  
BE  
CRR  
IRR  
INT  
CB  
BE  
1
0,270** 0,666** 0,413** 0,316** 0,357** -0,315** 0,328** 0,647**  
0,552** 0,300** 0,301** 0,319** -0,249** 0,361** 0,592**  
0,522** 0,428** 0,498** -0,435** 0,473** 0,834**  
0,237** 0,240** -0,271** 0,243** 0,546**  
0,266** -0,269** 0,235** 0,400**  
-0,316** 0,271** 0,494**  
CRR  
ATT  
INF  
VAL  
ENT  
IRR  
INT  
CB  
1
1
1
1
1
1
-0,338** -0,470**  
1
0,456**  
1
Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả.  
L.T.M. Ngoc / VNU Journal of Economics and Business, Vol. 1, No. 1 (2021) 51-61  
58  
Bảng 2: Phân tích nhân tố khẳng định và  
yếu tố nhân khẩu học. Kết quả Bảng 4 cho thấy,  
độ tin cậy của thang đo  
Sig của kiểm định bằng nhau về phương sai đều  
lớn hơn 0,05, do vậy tác giả sử dụng kết quả Sig  
kiểm định t hàng phương sai đồngnhất để đánh giá.  
Kết quả cho thấy có sự khác biệt về hành vi mua  
sắm giữa cácnhóm giới tính khác nhau(nữ có hành  
vi mua sắm nhiều hơn nam), giữa người đi làm và  
chưa đi làm (người đi làm có hành vi mua sắm cao  
hơn), giữa những người có mức thu nhập cao hơn  
(người có mức thu nhập hơn 20 triệu đồng có hành  
vi mua sắm cao hơn).  
Kết quả kiểm định sự khác biệt liên quan đến  
biến độ tuổi cho thấy với Sig kiểm định bằng nhau  
về phương sai bằng 0,005 < 0,05. Ta sử dụng kết  
quả Sig kiểm định Welch ở bảng kiểm định chuẩn  
mạnh. Kết quả cho thấy với Sig kiểm định Welch  
bằng 0,001 < 0,05, như vậy có sự khác biệt về hành  
vi mua sắm giữa các độ tuổi khác nhau (Bảng 4).  
Giả thuyết H9 được chấp nhận.  
Số biến Độ tin Phương sai  
Nhân tố quan cậy tổng rút trích Kết luận  
sát hợp CR  
AVE  
CRR  
4
0,813  
0,521  
Thỏa mãn  
INT  
IRR  
VAL  
BE  
4
3
3
3
0,817  
0,807  
0,768  
0,790  
0,528  
0,583  
0,556  
0,559  
Thỏa mãn  
Thỏa mãn  
Thỏa mãn  
Thỏa mãn  
ENT  
INF  
ATT  
CB  
3
3
4
4
0,758  
0,779  
0,816  
0,812  
0,512  
0,541  
0,526  
0,590  
Thỏa mãn  
Thỏa mãn  
Thỏa mãn  
Thỏa mãn  
Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả.  
5.4. Kết quả kiểm định sự khác biệt hành vi đối  
với quảng cáo mạng xã hội  
Phân tích Anova được sử dụng để kiểm định  
sự khác biệt hành vi đối với quảng cáo MXH theo  
Hình 2: Kết quả phân tích SEM  
Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả  
L.T.M. Ngoc / VNU Journal of Economics and Business, Vol. 1, No. 1 (2021) 51-61  
59  
Bảng 3: Kết quả kiểm định sự khác biệt hành vi đối với quảng cáo MXH  
Kiểm định bằng nhau về  
phương sai  
Kiểm định T  
Ý nghĩa thống kê  
(2 phía)  
0,021  
F
Sig  
t
Bậc tự do  
225  
Giới tính  
CB Phương sai đồng nhất  
Phương sai không đồng nhất  
0,127  
0,722  
-2,327  
-2,421  
-3,105  
73,367  
225  
0,018  
0,002  
0,002  
0,003  
0,004  
Nghề nghiệp CB Phương sai đồng nhất  
Phương sai không đồng nhất  
1,120  
0,288  
0,291  
0,592  
-3,080 208,457  
-2,997 225  
-2,891 146,256  
Thu nhập  
CB Phương sai đồng nhất  
Phương sai không đồng nhất  
Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả.  
Bảng 4: Kiểm định sự khác biệt về hành vi đối với quảng cáo MXH theo biến độ tuổi  
Kiểm định chuẩn mạnh  
Hành vi (CB)  
Welch  
Thống kêa  
7,914  
Bậc tự do 1  
2
Bậc tự do 2  
53,192  
Sig.  
0,001  
a. Phân phối tiệm cận F  
Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả.  
các nghiên cứu trước đây [16, 24, 35]. Mặt khác,  
kết quả nghiên cứu cũng cho thấy thái độ của  
người tiêu dùng chịu sự tác động từ các nhân tố  
khác như giới tính, thu nhập, trình độ học vấn.  
Nữ giới có hành vi mua sắm nhiều hơn nam giới  
đối với sản phẩm trang sức. Người trẻ tuổi dưới  
30 tuổi, đã đi làm và những người có thu nhập  
cao hơn (> 10 triệu đồng/tháng) có hành vi mua  
sắm trang sức nhiều hơn. Dựa trên kết quả  
nghiên cứu, nhóm tác giả đề xuất một số gợi ý  
cho các nhà bán lẻ kinh doanh ngành hàng trang  
sức như: Cần xây dựng hình ảnh thương hiệu bởi  
đây là nhân tố được đánh giá có tác động lớn nhất  
đến thái độ khi quyết định mua sắm qua mạng  
của người tiêu dùng. Để xây dựng danh tiếng cho  
thương hiệu, các nhà bán lẻ cần xây dựng các  
cộng đồng khách hàng thân thiết. Khách hàng có  
xu hướng tham khảo và tin tưởng vào những bình  
luận, nhận xét của người khác hơn là thông tin  
được cung cấp bởi người bán, phản hồi từ khách  
hàng cũ sẽ giúp thương hiệu tạo dựng được uy  
tín lâu dài. Bên cạnh đó, các nhà bán lẻ cần phải  
giảm thiểu cảm nhận rủi ro cho khách hàng mua  
trực tuyến, đặc biệt là rủi ro tài chính. Nhà bán  
lẻ có thể lựa chọn phương thức thanh toán khi  
giao hàng (COD), giúp người mua trải nghiệm  
6. Kết luận và hạn chế của nghiên cứu  
Phân tích EFA của các biến trong nghiên cứu  
này đều có hệ số tải nhân tố khá cao, thang đo  
đạt giá trị phân biệt và giá trị hội tụ, các thang đo  
đều đảm bảo độ tin cậy. Phân tích hồi quy tuyến  
tính cho thấy các yếu tố danh tiếng của thương  
hiệu, tính thông tin, tính giải trí, tính phiền nhiễu,  
tính tương tác, giá trị, sự tin cậy, thái độ, hành vi  
phù hợp. Mô hình giải thích được 68,5% thái độ  
đối với quảng cáo và 69,5% với hành vi mua sắm  
trang sức của người tiêu dùng Việt Nam, kết quả  
này đáp ứng được yêu cầu trong bối cảnh Việt  
Nam là một quốc gia có tỷ lệ tham gia và tốc độ  
tăng trưởng vượt bậc về thanh toán điện tử, với  
số lượng người dùng internet là 68,17 triệu  
người, chiếm 70% dân số [42] và 44,8 triệu  
người tham gia mua sắm trực tuyến [43].  
Kết quả nghiên cứu này cũng đóng góp hoàn  
thiện hơn khung nghiên cứu về tác động của  
quảng cáo MXH đến hành vi của người tiêu  
dùng. Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu cho  
thấy có sự khác biệt về hành vi đối với quảng cáo  
MXH. Theo đó, khi khách hàng có thái độ tích  
cực đối với quảng cáo trực tuyến thì họ sẽ mua  
sắm nhiều hơn. Kết quả này cũng đồng nhất với  
L.T.M. Ngoc / VNU Journal of Economics and Business, Vol. 1, No. 1 (2021) 51-61  
60  
six-segment message strategy wheel", Journal  
of Computer-Mediated Communication, 2008.  
13(4): p. 959-972.  
tương tự như mua hàng truyền thống, nhận hàng  
trả tiền. Tuy nhiên, phương pháp này có rủi ro  
cho người bán, do đó người bán nên kết hợp sử  
dụng phương thức thanh toán qua bên thứ ba,  
điều này giảm thiểu rủi ro tài chính cho cả người  
mua và người bán. Ngoài ra, nhà bán lẻ cần chú  
trọng đến việc cung cấp thông tin về sản phẩm  
và người bán một cách đầy đủ, rõ ràng để tránh  
tình trạng không rõ ràng, gây mất niềm tin đối  
với người tiêu dùng.  
[7] Ducoffe, R.H., "How consumers assess the  
value of advertising", Journal of Current Issues  
Research in Advertising 1995, 17(1): p. 1-18.  
[8] Hoang Thi Thanh., "Research on consumer  
attitudes towards direct marketing activities of  
retailers in Hanoi city", Industry and Trade  
Magazine, 2020.  
[9] Hadija, Z., S.B. Barnes, and N. Hair, "Why we  
Tuy nhiên, nghiên cứu vẫn tồn tại một số  
hạn chế sau: Thứ nhất, sự tập trung những  
người được khảo sát tại 10 tỉnh, thành phố giàu  
nhất của Việt Nam với phương pháp lấy mẫu  
ngẫu nhiên thuận tiện có thể chưa phản ánh đầy  
đủ kết quả nghiên cứu bởi các yếu tố khác biệt  
về văn hóa và thói quen tiêu dùng. Do vậy,  
ngoài nghiên cứu sự khác biệt về nhân khẩu  
học thì cần nghiên cứu thêm sự khác biệt về  
tác động của văn hóa đến hành vi của người  
tiêu dùng. Thứ hai, nghiên cứu này không đề  
cập đến tác động trực tiếp của các yếu tố quảng  
cáo MXH đến hành vi mua sắm trang sức của  
người tiêu dùng. Các nghiên cứu trong tương  
lai có thể thể hiện cả tác động trực tiếp và gián  
tiếp của các yếu tố quảng cáo MXH đến hành  
vi của người tiêu dùng. Đây là cơ sở để thực  
hiện các nghiên cứu tiếp theo hoàn chỉnh hơn.  
ignore  
social  
networking  
advertising",  
Qualitative Market Research: An International  
Journal, 15 (1), 2012, pp. 19-32(14).  
[10] MacKenzie, S.B., R.J. Lutz, and G.E. Belch,  
"The role of attitude toward the ad as a mediator  
of advertising effectiveness: A test of competing  
explanations", Journal of Marketing Research,  
1986, 23(2): p. 130-143.  
[11] Bruner, G.C. and A. Kumar, "Web commercials  
and advertising hierarchy-of-effects", Journal of  
Advertising Research, 2000, 40(1-2): p. 35-42.  
[12] Schiffman, L., et al., Consumer behaviour,  
Frenchs Forest, New South Wales: Pearson  
Education Australia, 2005.  
[13] Lamb Jr, C.W. and J.F. Hair Jr., Essential of  
Marketing, South-Western, a part of Cengage  
Learning, 2000.  
[14] Loudon, D.L. and A.J. Della Bitta, Consumer  
behavior: Concepts and applications, 1984:  
McGraw-Hill Companies.  
[15] Hoyer, W.D., et al., Consumer behaviour, 2020:  
Cengage AU.  
Tài liệu tham khảo  
[16] Der Waldt, V. et al., Attitudes of young  
consumers towards SMS advertising, 2009.  
[17] Soares, A.M., J.C. Pinho, and H. Nobre, "From  
social to marketing interactions: The role of  
social networks", Journal of Transnational  
Management, 2012, 17(1): p. 45-62.  
[18] Brackett, L.K. and B.N. Carr, "Cyberspace  
advertising vs. other media: Consumer vs.  
mature student attitudes", Journal of Advertising  
Research, 2001, 41(5): p. 23-32.  
[1] We Are Social, Vietnam Digital 2020, 2020.  
[2] Vietnam E-Commerce Association, "Vietnam  
E-business Index 2019 Report", 2019, available  
from:  
(accessed on 27/03/2019).  
[3] Himelboim, I. and G.J. Golan, "A social  
networks approach to viral advertising: The role  
of primary, contextual, and low influencers",  
Social Media+ Society, 2019, 5(3): p.  
2056305119847516.  
[19] Tsang, M.M., S.C. Ho, and T.P. Liang,  
"Consumer attitudes toward mobile advertising:  
An empirical study", International Journal of  
Electronic Commerce, 2004, 8(3): p. 65-78.  
[20] Hoffman, D.L. and T.P. Novak, "Marketing in  
hypermedia computer-mediated environments:  
Conceptual foundations", Journal of Marketing,  
1996. 60(3): p. 50-68.  
[4] Lance, P. and G. Guy J, "From subservient  
chickens to brawny men: A comparison of viral  
advertising to television advertising", Journal of  
Interactive Advertising, 2006, 6(2): p. 4-33.  
[5] Cho, S., J. Huh, and R.J. Faber, "The influence  
of sender trust and advertiser trust on multistage  
effects of viral advertising", Journal of  
Advertising, 2014. 43(1): p. 100-114.  
[21] Shavitt, S., P. Lowrey, and J. Haefner, "Public  
attitudes toward advertising: More favorable  
[6] Golan, G.J. and L. Zaidner, "Creative strategies  
in viral advertising: An application of Taylor’s  
L.T.M. Ngoc / VNU Journal of Economics and Business, Vol. 1, No. 1 (2021) 51-61  
61  
than you might think", Journal of Advertising  
Research, 1998, 38(4): p. 7-22.  
[34] Veloutsou, C. and L. Moutinho, "Brand  
relationships through brand reputation and  
brand tribalism", Journal of Business Research,  
2009, 62(3): p. 314-322.  
[35] Spreng, R.A. and R.D. Mackoy, "An empirical  
examination of a model of perceived service  
quality and satisfaction", Journal of Retailing,  
1996, 72(2): p. 201-214.  
[36] Patterson, P.G., E. Cowley, and K.  
Prasongsukarn, "Service failure recovery: The  
moderating impact of individual-level cultural  
value orientation on perceptions of justice",  
International Journal of Research in Marketing,  
2006, 23(3): p. 263-277.  
[37] Lutz, R.J., "Affective and cognitive antecedents  
of attitude toward the ad: A conceptual  
framework", Psychological Process Advertising  
Effects: Theory, Research, Application, 1985: p.  
45-63.  
[22] MacKenzie, S.B. and R.J. Lutz, "An empirical  
examination of the structural antecedents of  
attitude toward the ad in an advertising  
pretesting context", Journal of Marketing, 1989,  
53(2): p. 48-65.  
[23] Goldsmith, R.E., B.A. Lafferty, and S.J. Newell,  
"The impact of corporate credibility and  
celebrity credibility on consumer reaction to  
advertisements and brands", Journal of  
Advertising, 2000, 29(3): p. 43-54.  
[24] Choi, S.M. and N.J. Rifon, "Antecedents and  
consequences of web advertising credibility: A  
study of consumer response to banner ads",  
Journal of Interactive Advertising, 2002, 3(1): p.  
12-24.  
[25] Ling, K.C., T.H. Piew, and L.T. Chai, "The  
determinants of consumers’ attitude towards  
advertising", Canadian Social Science, 2010,  
6(4): p. 114-126.  
[38] Mehta, A., "Advertising attitudes and  
advertising  
effectiveness",  
Journal  
of  
[26] Cho, C.H. and J.D. Leckenby, "Interactivity as a  
Advertising Research, 2000, 40(3): p. 67-72.  
measure  
of  
advertising  
effectiveness:  
[39] Anderson, J.C. and D.W. Gerbing, "Structural  
equation modeling in practice: A review and  
Antecedents and consequences of interactivity  
in web advertising", in Proceedings of the  
Conference-American Academy of Advertising,  
1999, American Academy of Advertising.  
[27] Wu, G., "Perceived interactivity and attitude  
toward web sites", in Proceedings of the  
Conference-American Academy of Advertising,  
1999, American Academy of Advertising.  
[28] Sukpanich, N. and L.D. Chen, Interactivity as  
the driving force behind e-commerce, 2000,  
AMCIS Proceedings, 244.  
[29] Wang, C., "An empirical study on consumer’s  
perceived value and attitude toward  
advertising", in Proceedings of the 6th Global  
Information Technology and Management  
(GITM) World Conference, 2005.  
recommended  
two-step  
approach",  
Psychological Bulletin, 1988, 103(3): p. 411.  
[40] Fornell, C. and D.F. Larcker, Structural  
equation models with unobservable variables  
and measurement error: Algebra and statistics,  
1981, Sage Publications Sage CA: Los Angeles,  
CA.  
[41] Bagozzi, R.P. and Y. Yi, "On the evaluation of  
structural equation models", Journal of the  
Academy of Marketing Science, 1988, 16(1): p.  
74-94.  
[42] Hong Quyen, "Top 10 provinces are considered  
to be the richest in Vietnam", 03/09/2020,  
nhat-vn/ (accessed on 27/4/2021)  
[30] Kotler, P., Dirección de marketing, Pearson  
Education, 2001.  
[43] Wearesocial,  
18/2/2020,  
"Vietnam  
Digital  
2020",  
[31] Ko, H., C.H. Cho, and M.S. Roberts, "Internet  
uses and gratifications: A structural equation  
model of interactive advertising", Journal of  
Advertising, 2005, 34(2): p. 57-70.  
vietnam (accessed on 27/4/2021)  
[44] Ngoc An, "55% of the population will shop  
online?”,  
31/05/2020  
08:07,  
[32] Aaker, J., "The negative attraction effect? A  
study of the attraction effect under judgment and  
choice", ACR North American Advances, 1991.  
[33] Herbig, P. and J. Milewicz, "The relationship of  
reputation and credibility to brand success",  
Journal of Consumer Marketing, 1995, 12(4): p.  
5-11.  
online-20200531074436835.htm (accessed on  
27/4/2021).  
pdf 11 trang baolam 14/05/2022 2900
Bạn đang xem tài liệu "Tác động của quảng cáo mạng xã hội tới hành vi mua sắm của người tiêu dùng đối với sản phẩm trang sức tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdftac_dong_cua_quang_cao_mang_xa_hoi_toi_hanh_vi_mua_sam_cua_n.pdf