Bài giảng Phòng chống chiến lược "Diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam

.
BỘ QUỐC PHÒNG  
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ SỐ 23  
-----  -----  
BÀI GIẢNG  
PHÒNG CHỐNG CHIẾN LƯỢC "DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH",  
BẠO LOẠN LẬT ĐỔ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH  
ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM  
(Dùng cho giảng dạy sinh viên trình độ Cao đẳng, Trung cấp)  
Thừa Thiên Huế, 30 tháng 04 năm 7  
1
.
BỘ QUỐC PHÒNG  
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ SỐ 23  
-----  -----  
BÀI GIẢNG  
PHÒNG CHỐNG CHIẾN LƯỢC "DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH",  
BẠO LOẠN LẬT ĐỔ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH  
ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM  
(Dùng cho giảng dạy sinh viên trình độ Cao đẳng, Trung cấp)  
Huế, năm 2017  
2
B. NỘI DUNG GIẢNG DẠY  
I. Chiến lược "Diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù  
địch chống phá chủ nghĩa hội  
1. Chiến lược “Diễn biến hòa bình”  
a) Khái niệm:  
“Diễn biến hoà bình” còn có những tên gọi khác nhau như “Chuyển hoá hoà  
bình” (Peaceful change), “Biến đổi hoà bình” (Peaceful transformation), “Cạnh  
tranh hoà bình” (Peace competition), “Chiến thắng không cần chiến tranh”, “Cuộc  
đại chiến thế giới không có khói súng” …  
Theo từ điển bách khoa quân sự Việt Nam: "Diễn biến hoà bình" là chiến lược  
bản nhằm lật đổ chế độ chính trị của các nước tiến bộ, trước hết là các nước  
XHCN từ bên trong bằng biện pháp phi quân sự do chủ nghĩa đế quốc và các thế  
lực phản động tiến hành.1  
* Nội dung chính của chiến lược "DBHB" là:  
- Kẻ thù sử dụng mọi thủ đoạn kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá, xã hội, đối  
ngoại, an ninh..., để phá hoại, làm suy yếu từ bên trong các nước XHCN.  
- Kích động các mâu thuẫn trong xã hội, tạo ra các lực lượng chính trị đối lập  
núp dưới chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo, sắc tộc, khuyến  
khích nhân hoá về kinh tế đa nguyên về chính trị, làm mơ hgiai cp và đấu  
tranh giai cp trong nhân dân lao động.  
- Coi trng khích lli sng tư sn và tng bước làm phai nht mc tiêu, lí tưởng  
hi chnghĩa mt bphn hc sinh, sinh viên.  
- Trit để khai thác và li dng nhng khó khăn, sai sót ca Đảng, Nhà nước xã  
hi chnghĩa trên các lĩnh vc ca đời sng xã hi, to nên sc ép, tng bước chuyn  
hoá và thay đổi đường li chính tr, chế độ hi theo quỹ đạo chnghĩa tư bn.  
b) Sự hình thành và phát triển của chiến lược "Diễn biến hoà bình"  
Chiến lược “DBHB” đã ra đời, phát triển cùng với sự điều chỉnh phương thức,  
thủ đoạn chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế để  
chống phá các nước hội chủ nghĩa. Chiến lược "DBHB" của chủ nghĩa đế quốc  
và các thế lực thù địch hình thành và phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau.  
* Giai đoạn từ 1947 – 1988: đây là giai đoạn manh nha hình thành chiến lược  
"diễn biến hoà bình" được bắt nguồn từ nước Mĩ.  
- Tháng 3 năm 1947, chính quyền Truman đã trên cơ sở kế thừa tư tưởng của  
Kennan đã bổ sung, hình thành và công bố thực hiện chiến lược "ngăn chặn"2 chủ  
nghĩa cộng sản.  
1 Bộ quốc phòng, Trung tâm từ điển BKQS, Từ điển BKQSVN, Nxb QĐND, H 2004, tr 303.  
2
Nội dung ngăn chặn:  
Viện trợ kinh tế nhằm phục hưng nền kinh tế Tây Âu và Nhật Bản;  
Lợi dụng “chủ nghĩa dân tộc” chia rẽ khối đoàn kết của phong trào cộng sản quốc tế;  
Bằng thủ đoạn chính trị, kinh tế ngoại giao buộc Liên Xô thay đổi cách nhìn đối với các chuẩn tắc quan  
hệ quốc tế.  
(Hãy cảnh giác cuộc chiến tranh thế giới không có khói súng, Nxb CTQG-1994, tr.15)  
3
- Tháng 4 năm 1948, Quốc hội Mĩ chính thức phê chuẩn kế hoạch Mác San3,  
tăng viện trợ để khích lệ lực lượng dân chủ, cài cắm gián điệp vào các đảng cộng  
sản để phá hoại các nước hội chủ nghĩa ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản ở Tây  
Âu, hướng họ phụ thuộc vào Mĩ.  
- Tháng 12 năm 1957, Tổng thống Aixenhao đã tuyên bố "Mĩ sẽ giành thắng  
lợi bằng hoà bình" và mục đích của chiến lược để làm suy yếu lật đổ các nước  
XHCN.  
- Từ những năm 60 đến 80 của thế kỉ XX, nhiều đời tổng thống kế tiếp của Mĩ  
như Kennơđi, Giônxơn, Níchxơn, Pho, đã coi trọng thực hiện biện pháp  
"DBHB" để chống lại làn sóng cộng sản, lật đổ các nước XHCN. Đặc biệt, từ sau  
thất bại ở Việt Nam, Mĩ đã từng bước thay đổi chiến lược chuyển từ tiến công bằng  
sức mạnh quân sự là chính, sang tiến công bằng "DBHB" là chủ yếu. Từ vị trí là  
thủ đoạn kết hợp với chiến lược "ngăn chặn", đã phát triển thành một chiến lược cơ  
bản, ngày càng hoàn thiện để chống các nước cộng sản.  
TÓM LẠI: Thời kỳ này hệ thống XHCN còn đang vững mạnh, Mỹ thực hiện  
chiến lược “ngăn chặn”; chiến lược này dặt trên cơ sở cho sự hình thành chiến lược  
“diễn biến hòa bình”. Ở thời kỳ này, bên cạnh các biện pháp quân sự chủ yếu,  
lần đầu tiên các biện pháp chính trị, kinh tế, ngoại giao, văn hóa … được sử dụng  
đồng bộ để ngăn chặn ảnh hưởng, làm suy yếu Liên Xô và các nước XHCN.  
* Giai đoạn từ năm 1989 đến nay:  
- Từ năm 1989 -1993:  
+ Hệ thống XHCN đã xuất hiện sự rạn nứt, suy yếu sụp đổ nên chiến lược  
“vượt trên ngăn chặn” đã ra đời. Đây chiến lược tiến công, đối tượng chủ yếu  
nhằm vào Liên Xô và các nước XHCN; Như vậy trong giai đoạn này, chủ nghĩa đế  
quốc (CNĐQ) và các thế lực thù địch đã tiến hành 3 chiến lược: ngăn chặn, vượt  
trên ngăn chặn4 mở rộng dính líu5, với mục tiêu chính trị xuyên suốt là xóa bỏ  
CNXH.  
3 Tháng 6.1947, Ngoại trưởng Mỹ Macsan đã đề xuất kế hoạch viện trợ khẩn cấp nhằm khôi phục kinh tế châu Âu  
được QH Mỹ thông qua gọi “Kế hoạch Macsan”. Trong các năm từ 1948-1952, Mỹ đã viện trợ hơn 13 tỷ USD  
cho các nước Tây Âu. Song, các nước nhận viện trợ phải chấp nhận các yêu cầu của Mỹ như: huỷ bỏ hàng rào thuế  
quan, nới lỏng giám sát về ngoại hối; chịu sự giám sát của Mỹ về sử dụng viện trợ; bảo hộ cho đầu tư của Mỹ; giảm  
quan hệ buôn bán với các nước XHCN, từ bỏ kế hoạch “quốc hữu hoá”; thậm chí phải loại bỏ các bộ trưởng đảng  
viên Cộng sản ra khỏi chính phủ liên hiệp Hơn thế nữa, Mỹ đã sử dụng chương trình viện trợ theo “kế hoạch  
Macsan” để can thiệp công khai vào các cuộc bầu cử ở các nước có phong trào Cộng sản lớn mạnh như Pháp,  
Italia…”Kế hoạch Macsan” đã góp phần quan trọng vào việc khôi phục kinh tế Châu Âu sau chiến tranh; đồng thời,  
củng cố chế độ TBCN ở đây, ngăn chặn sự phát triển của CNCS, ngăn ngừa cách mạng ở Tây Âu. Mặt khác, thông  
qua viện trợ, Mỹ đã can thiệp vào nội bộ, khống chế các nước Tây Âu, mở rộng hơn địa vị của Mỹ hơn nữa thúc  
đẩy sự liên kết giữa Mỹ và Tây Âu, hình thành các liên minh kinh tế, chính trị, quân sự đối đầu với Liên Xô và hệ  
thống XHCN. [Trang15]. Phòng, chống “DBHB” và “cách mạng màu” VN; GS.TS. Phạm Ngọc Hiển; Nxb  
CTQG-2010.  
4 Năm 1989, chiến lược “vượt trên ngăn chặn” với nội dung chính :  
-Công kích chủ nghĩa Mác và tư tưởng cộng sản, thổi phồng “dân chủ” của Mỹ, “tdo” của phương Tây;  
-Về chính trị, mục tiêu chiến lược xây dựng “châu Âu tự do thống nhất hoàn chỉnh”;  
-Về kinh tế, áp dụng phương châm “phân biệt đối xử” đối với các nước XHXN Đông Âu, kết hợp viện trợ  
kinh tế với khuyến khích tự do hóa thị trường và dân chủ hóa chính trị, trọng điểm Ba Lan và Hunggari;  
-Về an ninh và giải trừ quân bị, có thái độ linh hoạt hơn cùng với Liên Xô tìm cách kiềm chế cân bằng quân  
bị ở mức độ thấp nhất.  
(Hãy cảnh giác cuộc chiến tranh thế giới không có khói súng, Nxb CTQG-1994)  
4
+ Dựa trên cơ sở duy trì sức mạnh quân sự răn đe, tiến hành tổng hợp các thủ  
đoạn, biện pháp về: chính trị - tư tưởng, kinh tế, văn hóa - xã hội khiến cho các  
nước này TỰ DIỄN BIẾN 6 và tan rã từ bên trong.  
- Từ năm 1993 – đến nay:  
+ CNĐQ và các thế lực phản động thực hiện chiến lược “dính líu, khuếch  
trương”, bước phát triển của chiến lược “diễn biến hòa bình” ở thời kỳ sau Liên  
xô tan rã và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ, nhằm xóa bỏ các nước XHCN còn  
lại, hình thành trật tự thế giới mới.  
+ Hiện nay, chiến lược “DBHB” trong đó kinh tế7 được chọn làm “đòn bẩy”,  
chính trị - tư tưởng8 “mũi nhọn”, với sự “hỗ trợ” của ngoại giao và “răn đe”  
quân sự9. Chiến lược “diễn biến hòa bìnhhiện đang được tiến hành trên cơ sở trực  
tiếp “dính líu” với từng nước để từng bước chuyển hóa, xóa bỏ chế độ XHCN.  
5 Tháng 2.1992, Mỹ lại tiếp tục cho ra đời chiến lược “Dính líu và khuếch trương” sự tiếp nối của “Vượt trên ngăn  
chặn” bước phát triển mới của “DBHB”. Nội dung chủ yếu của chiến lược này là phát huy “thắng lợi” ban đầu  
làm tan rã Liên Xô và sụp đổ chế độ XHCN các nước Đông Âu, đẩy CNXH vào thoái trào, đẩy mạnh hơn nữa  
“DBHB” nhắm xoá bỏ nốt các nước XHCN còn lại; hỗ trợ cho cái gọi là “các nước dân chủ mới” (các nước trước  
đây thuộc Liên Xô và Đông Âu) củng cố thành quả của “DBHB”, hướng các nước này vào quỹ đạo, chịu ảnh hưởng  
của Mỹ phương Tây. [Trang 41]. Phòng, chống “DBHB” và “cách mạng màu” VN; GS.TS. Phạm Ngọc Hiển;  
Nxb CTQG-2010.  
6
Những năm 80 (Thế kỷ XX), CNĐQ chọn Ba Lan, Hung ga ri làm đột phá khẩu thực hiện DBHB ở Đông  
Âu. Đến năm 1989, do bị DBHB và sự yếu kém về nhiều mặt nên chế độ XHCN các nước này bị sụp đổ, các lực  
lượng đối lập lên cầm quyền. Mỹ chủ trương viện trợ kinh tế cho Ba Lan và Hung -ga-ri nhằm mục đích hậu thuẫn  
cho chính phủ “dân chủ mới lên”, giúp đỡ các chính phủ này thoát khỏi khó khăn về kinh tế. dụ như tháng  
4/1989, Công đoàn kết Ba Lan giành được địa vị cầm quyền, Mỹ đã tuyên bố cung cấp viện trợ kinh tế cho Ba Lan,  
quyết định cho hưởng Quy chế tối huệ quốc về buôn bán và đầu tư, cung cấp viện trợ 1 tỷ USD dùng vào việc giảm  
món nợ 39 tỷ USD của Ba Lan. Mỹ cũng gợi ý nếu Hung-ga-ri loại bỏ chính quyền sản, Mỹ sẽ:  
# Kiến nghị phương Tây giúp đỡ kinh tế kỹ thuật cho Hung-ga-ri.  
# Kiến nghị quốc hội Mỹ thông qua món tiền 25 triệu USD làm quỹ phát triển kinh tế tư doanh.  
# Sau khi quốc hội Hung-ga-ri thông qua luật mới về định cư ở nước ngoài, Mỹ sẽ bãi bỏ thực hiện dự luật  
bổ sung Jackson Vanik về luật mậu dịch năm 1974 đối với Hung-ga-ri.  
# Miễn thuế với Hung-ga-ri ở một số lĩnh vực.  
# Uy quyền cho Hiệp hội đầu tư tư nhân hải ngoại mở rộng hoạt động đầu tư sang Hung-ga-ri. (Tạp chí  
Thông tin KHQS chuyên đề: quân đội với nhiệm vụ phòng chống chiến lược DBHB; tháng 5/2005).  
7 Thực chất là phá hoại cơ sở hạ tầng (nền tảng kinh tế bao gồm toàn bộ quan hệ sản xuất của hội phù hợp với sự  
phát triển nhất định của lực lượng sản xuất, trong quan hệ với kiến trúc thượng tầng xây dựng trên đó …Suy cho  
cùng là sự chuyển đổi cơ chế lãnh đạo, quản lý KT-XH theo hướng XHCN sang cơ chế lãnh đạo, quản lý KT-XH  
theo hình mẫu của nước TBCN. [Trang 50]. Phòng, chống “DBHB” và “cách mạng màu” VN; GS.TS. Phạm Ngọc  
Hiển; Nxb CTQG-2010.  
8
Thực chất là xoá bỏ kiến trúc thượng tầng (hệ tư tưởng và các tổ chức chính trị hội, cơ quan nhà nước tương  
ứng với hệ tư tưởng đó) dưới chế độ XHCN; đồng thời xác lập kiến trúc thượng tầng theo hình mẫu của chế độ  
TBCN các nước XHCN. Có thể nói, hoạt động phá hoại tư tưởng mặt trận hàng đầu trong cuộc tiến công chống  
phá CNXH hiện thực bằng “DBHB” của các thế lực thù địch. Hoạt động chống phá tư tưởng tạo ra những tiền đề,  
nhân tố điều kiện có tính chất quyết định cho việc xoá bỏ chế độ XHCN từ bên trong. [Trang 46]. Phòng, chống  
“DBHB” và “cách mạng màu” VN; GS.TS. Phạm Ngọc Hiển; Nxb CTQG-2010.  
9 Theo cách hiểu của các chiến lược gia ở Mỹ phương Tây hiện nay không phải răn đe quân sự thông thường mà  
răn đe hạt nhân… Chiến lược “răn đe” của Mỹ muốn thực hiện được phải có 3 yếu tố “phải sức mạnh; phải có  
quyết tâm sử dụng sức mạnh đó phải làm cho đối phương hiểu rằng Mỹ sức mạnh Mỹ quyết tâm sử  
dụng sức mạnh”.  
[Trang 55]. Phòng, chống “DBHB” và “cách mạng màu” VN; GS.TS. Phạm Ngọc Hiển; Nxb CTQG-2010.  
5
TÓM LẠI: Những năm gần đây, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tiếp  
tục ra sức sử dụng chiến lược "DBHB". Chúng cho rằng, phải làm xói mòn tư  
tưởng, đạo đức niềm tin cộng sản của thế hệ trẻ để "tự diễn biến", tự suy yếu,  
dẫn đến sụp đổ, tan rã chế độ XHCN ở một số nước còn lại.  
c) Đặc trưng của chiến lược “diễn biến hòa bình”:  
- Một , sử dụng biện pháp phi trang để chống phá các nước XHCN và  
phong trào độc lập dân tộc. Bằng phương thức hòa bình, từng bước gây ảnh hưởng  
lợi tiến tới xóa bỏ chế độ XHCN, dập tắt phong trào CM, phong trào độc lập  
dân tộc. Đây cuộc chiến tranh không có khí, không mùi thuốc súng nhưng  
cực kỳ nguy hiểm.  
- Hai là, thông qua các “công cụ mềm”: ngoại giao, kinh tế, văn hóa rồi đến  
chính trị để làm sụp đổ các nước XHCN. Tuy bọn địch sử dụng các biện pháp, thủ  
đoạn “phi quân sự” chủ yếu để tác động làm suy yếu sụp đổ chế độ XHCN  
nhưng chúng vẫn coi trọng sức mạnh quân sự để răn đe, làm áp lực hậu thuẫn cho  
các thủ đoạn trên.  
- Ba là, sự tác động của bên ngoài tạo sự chuyển hóa, diễn biến từ bên trong.  
Chủ yếu dùng lực lượng con người, phương tiện của đối phương đánh phá từ trong  
nội bộ đối phương với sự hỗ trợ từ lực lượng bên ngoài; làm cho đối phương mơ  
hồ, mất cảnh, tự diễn biến, biến đổi suy yếu, sụp đổ nhanh chóng.  
- Bốn , không phá hoại, hủy diệt của cải vật chất một cách rầm rộ bằng vũ  
lực. Bọn địch thực hiện ý đồ chiến lược một cách khôn khéo, che đậy bằng nhiều  
thủ đoạn lắt léo, tinh vi, xảo quyệt bằng cách quyến rũ, mua chuộc vật chất, núp  
dưới danh nghĩa viện trợ nhân đạo, từ thiện, đòi mở rộng dân chủ, tự do không giới  
hạn, thực hiện đa nguyên, đa đảng, xâm nhập, thao túng, khống chế về kinh tế để  
làm mục rỗng nội bộ, sụp đổ chế độ XHCN, nhịp điệu phát triển “thẩm thấu hòa  
bình” từ từ, ít khốc liệt, rầm rộ, tàn phá như chiến tranh vũ lực nhưng hiệu quả lớn  
hơn chiến tranh vũ lực  
- Năm , chiến lược “DBHB” mang tính toàn cầu, không giới hạn về thời gian,  
không gian.  
2. Bạo loạn lật đổ:  
a. Khái niệm: bạo loạn lật đổ là hành động chống phá bằng bạo lực tổ chức  
do lực lượng phản động hay lực lượng li khai, đối lập trong nước hoặc cấu kết với  
nước ngoài tiến hành gây rối loạn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội (ANCT-  
TTATXH) hoặc lật đổ chính quyền ở địa phương hay trung ương10.  
b. Hình thức của bạo loạn, gồm có:  
- Bạo loạn chính trị,  
- Bạo loạn vũ trang;  
- Bạo loạn chính trị kết hợp với bạo loạn vũ trang, trong đó bạo loạn chính trị  
chủ yếu.  
c. Quy mô bo lon lt đổ:  
- Có thdin ra nhiu mc độ (tthp đến cao);  
- Tquy mô nhỏ đến quy mô ln.  
10 Bộ quốc phòng, Trung tâm từ điển BKQS, Từ điển BKQSVN, Nxb QĐND, H 2004, tr 63  
6
- Phạm vi địa bàn xảy ra bạo loạn lật đổ thể ở nhiều nơi, nhiều vùng của đất  
nước, trọng điểm những vùng trung tâm về kinh tế, chính trị, văn hoá của Trung  
ương địa phương, nơi nhạy cảm về chính trị hoặc ở các khu vực, địa bàn cơ  
sở chính trị của địa phương yếu kém.  
d. Lực lượng tiến hành bạo loạn lật đổ:  
- Lực lượng phản động nội địa (3):  
+ Bọn phản động đội lốt tôn giáo, dân tộc ở các địa phương;  
+ Các phần tử cơ hội chính trị, bất mãn nhen nhóm thành các tổ chức công  
khai, hợp pháp, dưới danh nghĩa các hội, đoàn;  
+ Bọn thoái hóa biến chất, lưu manh và một số quần chúng bị lừa gạt, ép  
buộc tham gia.  
- Lực lượng bên ngoài (3):  
+ Các tổ chức phản động lưu vong sống ở nước ngoài được sự huấn luyện,  
trang bị, chỉ đạo trực tiếp hoặc gián tiếp của CNĐQ và các thế lực thù địch, thể  
được đưa về nước trước hoặc ngay khi xảy ra bạo loạn.  
+ Lực lượng quân sự của CNĐQ và các thế lực thù địch ngoài vai trò răn đe,  
khi cần và có điều kiện thể sử dụng lực lượng phản ứng nhanh trực tiếp tham  
gia chi viện, hỗ trợ cho bọn phản động trong nước để đánh chiếm một số vị trí  
trọng điểm, những mục tiêu chiến lược;  
+ Có thể chi viện hỏa lực vũ khí công nghệ cao cho lực lượng lật đổ đánh  
chiếm các mục tiêu trọng yếu của ta.  
TÓM LẠI:  
Mặt mạnh của địch chủ động về không gian, thời gian; là người bản xứ nên  
lực lượng phản động nội địa hiểu về phong tục, tập quán, địa bàn, hoàn cảnh  
tâm lý, đặc tính dân tộc để lôi kéo kích động. sự chỉ đạo, hỗ trợ của các thế lực  
phản động bên ngoài cả lực lượng, vật chất, phương tiện, trong điều kiện cụ thể có  
thể cả hành động quân sự.  
Song, địch những mặt yếu sau:  
+ Sử dụng nhiều thành phần lực lượng tham gia bạo loạn, tổ chức thường  
thiếu thống nhất;  
+ Chỉ đạo, chỉ huy giữa các lực lượng gặp nhiều khó khăn, kinh nghiệm hạn  
chế;  
+ Do mục đích, quyền lợi khác nhau nên dễ phát sinh mâu thuẫn;  
+ Lực lượng vũ trang phản động lúc đầu thường hạn chế về số lượng, trang  
bị, khó đối phó với lực lượng trang;  
+ Quần chúng nhân dân bị địch lừa gạt, lôi kéo kích động, nếu ta vận động  
tuyên truyền tốt dễ bị phân hóa có lợi cho ta.  
KẾT LUẬN: Bạo loạn lật đổ một thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế  
lực phản động gắn liền với chiến lược "DBHB" để xoá bỏ CNXH. Khi tiến hành  
bạo loạn lật đổ, các thế lực thù địch thường kích động nhng phn tquá khích,  
làm mt n định trt tan toàn xã hi mt skhu vc và trong mt thi gian  
nht định (thường chdin ra trong không gian hp và thi gian ngn) tiến ti  
lt đổ chính quyn ở địa phương hoc nhà nước XHCN.  
7
II. Chiến lược "Diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù  
địch chống phá cách mạng Việt Nam  
1. Âm mưu, mc tiêu, thủ đon ca chiến lược "Din biến hoà bình" đối vi  
Vit Nam  
a) Âm mưu:  
Chủ nghĩa đế quốc cùng các thế lực thù địch luôn coi Việt Nam là một trọng  
điểm trong chiến lược "DBHB" chống CNXH.  
- Từ đầu năm 1950 đến 1975, chủ nghĩa đế quốc dùng hành động quân sự để  
xâm lược muốn biến Việt Nam thành thuộc địa vĩnh viễn của chúng nhưng cuối  
cùng đã bị thất bại hoàn toàn. Sau khi sử dụng những đòn tấn công bằng quân sự  
để xâm lược Việt Nam không thành công, chúng đã chuyển sang chiến lược mới  
như "bao vây cấm vận kinh tế", "cô lập về ngoại giao"11 kết hợp với "DBHB", bạo  
loạn lật đổ nhằm xoá bỏ chế độ hội chủ nghĩa ở Việt Nam.  
11 Đến năm 2012, Việt Nam phải trải qua 30 năm chiến tranh, chia cắt, mất hàng chục năm khắc phục hậu  
quả chiến tranh và tìm tòi cơ chế, bị bao vây cấm vận, bị hụt hẫng về vốn đầu tư, thị trường do sự đổ vỡ chủ nghĩa  
hội ở Liên Xô (cũ) Đông Âu, rồi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội ở trong nước và tác động của các cuộc  
khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở khu vực, khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới trăm năm mới có...  
Mặc vậy, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu lớn. Về mặt chính trị, đối ngoại, Việt Nam đã trở thành một  
nước hoàn toàn độc lập, quyền tự quyết định vận mệnh của mình. Việt Nam đã là thành viên của Liên hiệp quốc,  
tham gia Hiệp hội các nước Đông Nam Á, có quan hệ ngoại giao với trên 170 nước, có quan hệ buôn bán với trên  
200 nước và vùng lãnh thổ, tham gia hầu hết các tổ chức định chế quốc tế, đã trở thành thành viên của Tổ chức  
Thương mại Thế giới (WTO), thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc,... Vị thế của Việt  
Nam trong khu vực và trên trường quốc tế ngày càng tăng. Về kinh tế, nhiều chỉ tiêu chủ yếu của năm 2011 gấp  
nhiều lần trước Cách mạng. GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái của Việt Nam năm 1988  
chỉ đạt 86 USD - là một trong mấy nước thấp nhất thế giới, nhưng đã tăng gần như liên tục qua các năm sau đó và  
đến năm 2011 đã đạt 1.375 USD, đã ra khỏi nhóm nước thu thập thấp để trở thành nước có thu nhập trung bình  
(thấp). Tăng trưởng GDP của Việt Nam tính đến năm 2011 đã đạt 31 năm liên tục, chỉ thua kỷ lục 33 năm hiện do  
Trung Quốc nắm giữ... Nếu bình quân thời kỳ 1977-1980, tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 0,4%/năm, thấp xa so với tốc  
độ tăng dân số, làm cho thu nhập quốc dân bình quân đầu người bị sụt giảm mạnh, nếu tính bình quân thời kỳ 1977-  
1985 cũng chỉ tăng 3,7%/năm, cao hơn không bao nhiêu tốc độ tăng dân số, nếu bình quân thời kỳ 1986-1990 chỉ  
đạt 4,4%/năm, thì bình quân thời kỳ 1991-2011 đạt 7,34%/năm, thuộc loại cao trong khu vực, châu Á và trên thế  
giới. Như vậy, quy mô kinh tế năm 2011 gấp khoảng 20,8 lần năm 1955, gấp khoảng 5,5 lần năm 1985 và gấp trên  
4,4 lần năm 1990, gấp trên 2,1 lần năm 2000 (bình quân 1 năm thời kỳ 2001-2011 đạt 7,14%). Cơ cấu kinh tế đó có  
sự chuyển dịch quan trọng: tỷ trọng trong GDP của nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thuỷ sản đã giảm từ 40,2%  
(1985) xuống còn 22,02% (2011), của nhóm ngành công nghiệp - xây dựng đã tăng từ 27,4% lên gần 40,79%, của  
nhóm ngành dịch vụ tăng từ 32,4% lên đạt 37,19% trong thời gian tương ứng!  
Nông nghiệp sự biến đổi thần kỳ, đã chuyển từ độc canh lúa, năng suất thấp thiếu hụt lớn,  
sang không những đủ dùng trong nước, còn xuất khẩu gạo với khối lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần vào  
an ninh lương thực quốc tế; xuất khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thuỷ sản với khối lượng lớn đứng thứ hạng  
cao trên thế giới.  
Sản xuất công nghiệp trước Cách mạng còn rất sơ khai. Cả nước chỉ có 200 xí nghiệp, với 90  
nghìn công nhân, chủ yếu phục vụ sự vơ vét tài nguyên và bóc lột nhân công rẻ mạt của thực dân. Số sản phẩm chỉ  
đếm trên đầu ngón tay với sản lượng còn rất ít ỏi. Đến nay cả nước gần nửa triệu doanh nghiệp, trên 4,2 triệu cơ  
sở thể, với gần 1,5 triệu lao động... Sản phẩm công nghiệp vừa nhiều gấp bội về số loại, vừa gấp nhiều lần về sản  
lượng.  
Thương mại trước Cách mạng còn rất nhỏ bé phân tán. Ngày nay, việc mua bán trong nước đã  
được tự do hoá, hàng nghìn siêu thị, trung tâm thương mại được hình thành. Số nước và vùng lãnh thổ Việt Nam  
có quan hệ buôn bán nếu năm 1986 mới có 43 thì đến nay đã lên đến trên 200. Kim ngạch xuất khẩu năm 2012 có  
thể vượt qua mốc 100 tỷ USD. Tỷ lệ kim ngạch xuất, nhập khẩu so với GDP năm 2011 đã đạt xấp xỉ 170%, đứng  
thứ 5 thế giới.  
Vốn FDI tính từ 1988 đến tháng 7/2012 đăng đạt trên 236 tỷ USD, thực hiện đạt trên 96,6 tỷ  
USD. Vốn ODA từ 1993 đến nay cam kết đạt gần 80 tỷ USD, giải ngân đạt trên 35 tỷ USD.  
8
- Lợi dụng thời nước ta gặp nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội, từ năm 1975  
- 1994 do hậu quả của chiến tranh để lại sự biến động chế độ XHCN Liên Xô,  
Đông Âu12, các thế lực thù địch càng ráo riết đẩy mạnh “DBHB” đối với Việt  
Nam.  
Về mặt hội, tổng quát nhất chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đã đạt được ba sự vượt  
trội: chỉ số đã tăng lên qua các năm; thứ bậc về HDI tăng lên qua các năm; chỉ số thứ bậc về tuổi thọ học vấn  
cao hơn chỉ số về kinh tế.  
Báo điện tử của Thời báo kinh tế Việt Nam  
12  
Cùng chịu tác động mạnh mẽ của chiến lược "diễn biến hòa bình” và "cách mạng màu” do các thế lực thù  
địch tiến hành, song sự sụp đổ, tan rã của Liên Xô có những điểm khác với các nước Đông Âu. Đối với các nước  
như Ba Lan, Hung-ga-ri, An-ba-ni, Tiệp Khắc, CHDC Đức…, các thế lực thù địch tập trung thúc đẩy "cách mạng  
đường phốvới "công nghệ biểu tình” gây áp lực, kết hợp với tác động làm tha hóa và phân hóa nội bộ Đảng cầm  
quyền và Nhà nước XHCN, dẫn tới những sai lầm nghiêm trọng về chiến lược, chấp nhận chế độ đa đảng và thành  
lập chính phủ liên minh có phe đối lập tham gia. Đồng thời chúng thực hiện kịch bản "cách mạng pháp luật” và  
"công nghệ bầu cđể giành quyền lãnh đạo, kiểm soát các quan quyền lực Nhà nước cho lực lượng đối lập thân  
phương Tây TBCN. Còn đối với Liên Xô, các thế lực thù địch lựa chọn kịch bản tích cực, kiên trì, thận trọng từng  
bước vượt qua "tấm màn sắt”, can dự ngày càng sâu rộng vào các lĩnh vực của đời sống hội, tập trung thúc đẩy  
"tự diễn biến”, "tự chuyển hóa” bên trong và từ bên trên, dẫn tới cuộc "cách mạng cung đình” làm sụp đổ và tan  
rã Liên bang Cộng hòa XHCN Xô Viết.  
Sự sụp đổ và tan rã của Liên Xô chủ yếu là do những sai lầm nghiêm trọng về chiến lược của Đảng Cộng sản  
Liên Xô (ĐCS), trước hết là trong công tác cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt cấp chiến lược. Ngay từ những năm 80  
của thế kỷ XX, ban lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô đã không tỉnh táo và kiên quyết đấu tranh loại bỏ những  
phần tử cơ hội, thực dụng trong đội ngũ cán bộ chủ chốt. (Năm 1959, lần đầu tiên có 4 người của Liên Xô sang học  
ở Mỹ. Sau này hai người trong số đó A.Y-a-kốp-lép, Ủy viên Bộ Chính trị, thư Trung ương Đảng phụ trách  
công tác tư tưởng-lý luận tướng tình báo C.Da-ni-lô-vích đã trở thành những "Điệp viên ảnh hưởngcủa CIA, là  
đạo diễn chính của công cuộc cải tổ làm sụp đổ và tan rã Liên bang Cộng hòa XHCN Xô Viết; năm 1975, M.Goóc-  
ba-chốp đã tiếp xúc với Matlock là người "phụ trách Đại sứ quán Mỹ ở Mát-xcơ-va”, từ đó trở thành đối tượng mà  
phương Tây TBCN tiếp cận lợi dụng). Khi M. Goóc-ba-chốp làm Tổng thư ĐCS Liên Xô (1985-1991), ông ta  
cùng cộng sự đã nhân danh "cải tổ” để thực hiện sự thay đổi lớn về nhân sự trong đội ngũ cán bộ, dùng mọi thủ  
đoạn loại bỏ những người cộng sản kiên trung ra khỏi bộ máy lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và quân đội, có 8 ủy  
viên trong Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương Đảng, hơn 20 bộ trưởng và hàng chục lãnh đạo cấp bộ, 92,5%  
trong 150 bí thư khu ủy, thành ủy, tỉnh ủy bị cách chức hoặc thay thế; trong ba năm 1987-1989 có khoảng 50% cán  
bộ cơ quan chiến lược của quân đội, hơn 100 cán bộ chính trị cấp chiến dịch-chiến lược và 30% tướng lĩnh bị cách  
chức hoặc cho ra quân với lý do "tư tưởng bảo thủ, không ủng hộ cải tổ”, thay thế họ những phần tử "cấp tiến”; từ  
1986 đến 1988, một loạt cán bộ chủ chốt của các tờ báo có ảnh hưởng lớn tại Liên Xô được thay thế bởi những  
người ủng hộ chủ trương "tây hóa” của M.Goóc-ba-chốp, từ đó các tờ báo này đã "quạt gió châm lửa” khuynh đảo  
dư luận, làm cho nhiều người ngộ nhận, say đắm và quá ảo tưởng đối với phương Tây TBCN. M.Goóc-ba-chốp  
cũng lũng đoạn đội ncán bộ cao cấp trong Đảng và Nhà nước, tước bỏ dần các khả năng hành động đúng đắn của  
họ, góp phần đẩy nhanh sự sụp đổ và tan rã của Liên Xô.  
Các phần tử cơ hội, thực dụng về kinh tế và chính trị nắm giữ những trọng trách trong ban lãnh đạo Đảng và  
Nhà nước Liên Xô đã phản bội tưởng XHCN và lợi ích dân tộc, phản bội tư tưởng của V.I.Lê-nin về xây dựng và  
bảo vệ Tổ quốc, nhất là xóa bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ, xóa bỏ vai trò lãnh đạo và làm tan rã ĐCS Liên Xô,  
làm cho quân đội bị "phi chính trị hóa”. Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc lần thứ 19 của ĐCS Liên Xô (từ 28-6 đến  
01-7-1988), M.Goóc-ba-chốp đã báo cáo về "Tình hình thực hiện nghị quyết Đại hội XXVII ĐCS Liên Xô và nhiệm  
vụ đi sâu cải tổ”, trong đó đưa ra phương án cải tổ với mục tiêu xây dựng "CNXH dân chủ nhân đạo”. Điều này về  
9
- Từ năm 1995 đến nay, trước những thắng lợi to lớn của công cuộc đổi mới  
toàn diện đất nước theo định hướng hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam  
khởi xướng và lãnh đạo, thì các thế lực thù địch lại tiếp tục điều chỉnh thủ đoạn  
chống phá cách mạng nước ta. Chúng đã tuyên bố xoá bỏ "cấm vận kinh tế" và  
bình thường hoá quan hệ ngoại giao để chuyển sang thủ đoạn mới, đẩy mạnh hoạt  
động xâm nhập như: "dính líu", "ngầm", "sâu, hiểm" nhằm chống phá cách  
mạng Việt Nam.  
b) Mục tiêu của các thế lực thù địch:  
Nhất quán của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch trong sử dụng chiến  
lược "DBHB" đối với Việt Nam là ráo riết đẩy mạnh âm mưu  
- Xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản tiến tới xoá bỏ chế độ XHCN;  
- Đưa Nước ta vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản lệ thuộc vào CNĐQ.  
c) Thủ đoạn chủ yếu:  
Ở Việt Nam, CNĐQ cho rằng không thể áp dụng hoàn toàn các biện pháp thủ  
đoạn ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu mà cần phải điều chỉnh biện pháp,  
thay đổi thủ đoạn cho phù hợp. Để đạt được mục tiêu đó, các thế lực thù địch  
không từ bỏ bất thủ đoạn chống phá nào như sử dụng bạo lực phi trang, bạo  
lực vũ trang, kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội,...Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực  
thực chất phủ nhận triệt để chủ nghĩa Mác - Lê-nin, áp dụng thể chế chính trị TBCN, thực hiện đa đảng qua cái  
gọi là "phân chia lại quan hệ quyền lực giữa Đảng với Viết”, giải tán 23 ban trực thuộc Trung ương Đảng, tiến  
tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của ĐCS Liên Xô với tư cách Đảng cầm quyền. Hội nghị này là bước ngoặt cơ bản thay  
đổi thể chế chính trị của Liên Xô. Trong báo cáo tại Đại hội XXVIII của ĐCS Liên Xô (7-1990), M.Goóc-ba-chốp  
công khai bài xích nguyên tắc tập trung dân chủ. Điều lệ Đảng do Đại hội thông qua chính thức xóa bỏ nguyên tắc  
quan trọng nhất về tổ chức hoạt động của Đảng. Ngày 24-8-1991, M.Goóc-ba-chốp tự ý tuyên bố giải tán  
BCHTW Đảng từ chức Tổng thư. Ngày 29-8-1991 với tư cách là Tổng thống Liên Xô, M.Goóc-ba-chốp ra  
lệnh giải thể các quan chính trị từ 1-9-1991 chấm dứt các hoạt động của Đảng trong quân đội, làm cho quân  
đội bị "phi chính trị hóa”. Ngày 25-12-1991, M.Goóc-ba-chốp tuyên bố từ chức Tổng thống và bàn giao nút bấm  
toàn bộ kho khí hạt nhân cho B.En-sin, đánh dấu sự sụp đổ và tan rã của Liên Xô.  
Ban lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô cũng mắc sai lầm nghiêm trọng trong hoạch định tổ chức thực  
hiện chiến lược phát triển KT-XH, không hợp lòng dân. Cuối thập kỷ 80 thế kỷ XX, Liên Xô đã thực hiện chiến  
lược cải cách kinh tế theo Chương trình kinh tế 500 ngày của Sta-ta-lin và chương trình kinh tế mang tên "Cuộc  
mặc cả vĩ đại” của Y-a-vô-lin-xki - sản phẩm của sự thỏa hiệp giữa các phần tử cơ hội, thực dụng trong quan  
tham mưu chiến lược của Liên Xô với Trung tâm Ha-vớt của Mỹ, đưa nền kinh tế ngả theo quỹ đạo của CNTB, dẫn  
tới sự phân hóa xã hội và xung đột hội ngày càng sâu sắc, làm gia tăng những khó khăn sự bức xúc, bất bình,  
suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Trong khi đó, tầng lớp đặc quyền là các phần tử thoái  
hóa, biến chất lạm dụng chức vụ mưu lợi riêng trong đội ngũ cán bộ ngày càng lộng hành, làm tổn hại nghiêm trọng  
uy tín của Đảng và Nhà nước XHCN. Hiện tượng độc quyền không chỉ thể hiện ở lĩnh vực phân phối, mà còn trong  
hoạch định, thực thi các chính sách, bố trí sử dụng cán bộ, uốn cong luật pháp để mưu lợi riêng cho bản thân, cho  
"nhóm lợi ích” "tập đoàn lợi ích đặc biệt”, đồng thời né tránh sự kiểm tra, giám sát của kỷ luật Đảng và pháp  
luật Nhà nước. Căn bệnh này trở nên đặc biệt nghiêm trọng dưới thời M.Goóc-ba-chốp, làm cho bộ máy của Đảng  
và Nhà nước XHCN bị tha hóa, biến chất, làm rạn vỡ quan hệ giữa Đảng và Nhà nước với nhân dân, khiến đông đảo  
cán bộ, đảng viên và nhân dân không tin Đảng, thờ ơ lãnh đạm với các nghị quyết, chỉ thị của Đảng; các chủ trương,  
chính sách của Đảng không ra khỏi điện Krem-lin.  
Trung tướng, PGS.TS. Nguyễn Tiến Bình  
10  
thù địch chống phá cách mạng nước ta hiện nay là toàn diện, trên tất cả các lĩnh  
vực của đời sống hội, tinh vi, thâm độc nhiều thủ đoạn tinh vi khó nhận biết,  
cụ thể  
* Thủ đoạn vkinh tế13:  
- Chuyển hoá nền kinh tế thị trường định hướng XHCN14 ở Việt Nam dần dần  
theo quỹ đạo kinh tế thị trường TBCN;  
- Khích lệ thành phần kinh tế tư nhân phát triển, từng bước làm mất vai trò chủ  
đạo của thành phần kinh tế nhà nước;  
- Lợi dụng sự giúp đỡ, viện trợ kinh tế, đầu tư vốn, chuyển giao công nghệ cho  
Việt Nam để đặt ra các điều kiện và gây sức ép về chính trị, từng bước chuyển hoá  
Việt Nam theo con đường tư bản chủ nghĩa.  
* Thủ đoạn vchính trị:  
- Các thế lực thù địch kích động đòi thực hiện chế độ "đa nguyên chính trị, đa  
đảng15 đối lập", "tdo hoá" mọi mặt đời sống hội, từng bước xoá bỏ vai trò lãnh  
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chế độ XHCN ở Việt Nam.  
13  
Trước hết, chúng tấn công vào lý luận kinh tế Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đòn tấn công này nhằm vào  
niềm tin cộng sản của nhân dân lao động. Chúng cho rằng, khi niềm tin cộng sản bị đánh mất, thì chúng dễ bề thực  
hiện âm mưu lật đổ nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản, xóa bỏ chế độ hội chủ nghĩa trên thực tế.  
Thứ hai là, xuyên tạc đường lối của Đảng về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Chúng  
cho rằng, kinh tế thị trường và CNXH không thể dung hòa, do đó phát triển kinh tế thị trường từ bỏ chủ nghĩa xã  
hội. Như vậy từ vấn đề kinh tế, các thế lực thù địch đang tiến tới vấn đề chính trị để hoàn tất sớm âm mưu diễn  
biến hòa bình.  
Thứ ba, thông qua chiến lược “chiếm lĩnh đầu tư, chi phối thị trường”, cổ vũ cho “tư nhân hóa tài sản, tài  
nguyên”, mở rộng kinh tế tư nhân, thu hẹp và làm suy yếu thành phần kinh tế nhà nước, cổ vũ cho mô hình kinh tế  
phương Tây. Đòn này nhằm vào thực thể của nền kinh tế nước ta, mục tiêu là làm chệch hướng XHCN của nền kinh  
tế nước ta, tạo cơ sở kinh tế, chính trị-xã hội để chúng kết hợp chặt chDBHB và bạo loạn lật đổ.  
Đại tá, PGS.TS. Hoàng Minh  
Thảo  
14  
Định hướng XHCN đối với nền kinh tế thị trường Việt Nam dựa trên các nguyên tắc và quy luật phổ biến  
của kinh tế thị trường, đồng thời phát huy chức năng của nhà nước pháp quyền XHCN để tác động vào thị trường  
hướng vào mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Cụ thể hơn, đó việc bảo đảm công bằng  
hội, hạn chế sự phân cực giàu nghèo, bất công xã hội.  
15  
Đa nguyên chính trị xuất hiện vào đầu thế kỷ XVIII, khi giai cấp tư sản còn là giai cấp tiến bộ trong đấu  
tranh bảo vệ sự đa dạng và bình đẳng của các nhóm xã hội lợi ích khác nhau, phát triển quyền tự do dân chủ tư  
sản. Đó một khuynh hướng hội học - triết học, tuyệt đối hóa sự đa dạng đối kháng của các nhóm, đảng phái, tổ  
chức chính trị khác nhau trong xã hội. Hệ thống đa đảng hệ thống ở đó nhiều đảng chính trị khả năng  
giành quyền điều hành chính phủ một cách độc lập hay liên minh với nhau.  
11  
- Chúng tập hợp, nuôi dưỡng các tổ chức, phần tử phản động trong nước và  
ngoài nước, lợi dụng các vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", "dân tộc", "tôn giáo" để  
chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm  
mất đi vai trò lãnh đạo của Đảng.  
- Tận dụng những sơ hở trong đường lối của Đảng, chính sách của nhà nước ta,  
sẵn sàng can thiệp trắng trợn bằng sức mạnh quân sự để lật đổ chế độ XHCN ở  
Việt Nam.  
* Thủ đoạn về tư tưởng - văn hoá:  
Trong các quốc gia có thể chế chính trị đa đảng, một đảng nào đó chiếm được đa số (sau thắng lợi bầu cử),  
nhưng chưa đạt đến mức độ tuyệt đối thì phải liên minh với một số đảng khác tạo thành một liên minh cầm quyền.  
Khi đó giữa các đảng sự dàn xếp với nhau, điều hòa về các vị trí chủ chốt trong nội các, điều hòa về chính sách  
quyền lực. Đảng nào chiếm số lượng cử tri đông nhất thì đảng đó nhiều đại biểu trong quốc hội, nhiều ghế  
trong chính phủ, chiếm nhiều vị trí chủ chốt trong chính quyền nhà nước.  
Trong các nước thực hiện chế độ một đảng, tính chất quyết định sự nắm quyền, cũng như sự chi phối  
của đảng đối với đời sống hội thể hiện rõ và tuyệt đối hơn trên toàn bộ các yếu tố cấu thành nội dung của đảng  
cầm quyền. Đảng đó lực lượng duy nhất nắm chính quyền nhà nước, không chia sẻ bất kỳ cho ai, cho bất kỳ một  
lực lượng hội nào.  
Hai trường hợp cơ bản trình bày trên đã đang diễn ra trong đời sống chính trị thế giới hiện đại. Cuộc đấu  
tranh giữa hai khuynh hướng đa đảng một đảng đã đang diễn ra rất quyết liệt, thực chất đó biểu hiện của  
cuộc đấu tranh giai cấp, phản ánh tính chất gay go, phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay.  
….  
Các thế lực thù địch rêu rao "đa nguyên chính trị”, "đa đảng đối lậpnhư là "khuôn vàng, thước ngọc” của dân  
chủ mà chúng ta phải tuân theo. Các thế lực đó cho rằng: "Từ bỏ độc quyền lãnh đạo vấn đề căn bản đó là then  
chốt của chế độ dân chủ”. Quan điểm này được khoác cái vỏ "vì dân chủ”, "vì dân, vì nước”, lợi dụng những khó  
khăn, phức tạp cả khuyết điểm của chúng ta trong quá trình thực thi dân chủ để chống phá, nên nó càng trở nên  
nguy hiểm.  
Tính nguy hiểm của thủ đoạn này biểu hiện ở chỗ:  
Thứ nhất, luận điểm "đa nguyên chính trị”, "đa đảng đối lập” là luận điểm mang nặng tính chất mị dân, dễ  
gây nên sự ngộ nhận mơ hồ, lẫn lộn về nhận thức, sự dao động về tư tưởng trong một bộ phận cán bộ và nhân dân.  
Nếu không thực hiện được ý đồ thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng, thì cũng dễ gây nên sự chia rẽ trong xã hội sự  
thiếu thống nhất vchính trị tư tưởng trong XH; sự hoài nghi, dao động, thiếu niềm tin của quần chúng nhân dân đối  
với sự lãnh đạo của Đảng.  
Thứ hai, thực chất luận điểm đó nhằm thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng ta đối với hội, xóa bỏ nền dân  
chủ hội chủ nghĩa, "lái” nền dân chủ nước ta sang nền dân chủ khác, phi xã hội chủ nghĩa. Dù không trực tiếp nói  
chúng ta phải thực hiện dân chủ tư sản, nhưng cái cách "khuyên” chúng ta thực hiện đa đảng, đã cho thấy thực chất  
đó hướng nền dân chủ nước ta sang dân chủ tư sản.  
Thứ ba, đó luận điểm phản khoa học và phi lịch sử. Bởi vì, trên thực tế không có thứ dân chủ chung  
chung trừu tượng, trong thời đại ngày nay chỉ thể là dân chủ tư sản hay dân chủ hội chủ nghĩa. Cái gọi là “đa  
đảng” như trong xã hội phương Tây thực chất sự chi phối của đảng tư sản, biểu hiện sự tranh chấp giữa các  
nhóm chính trị khác nhau của chính giai cấp tư sản. Nếu nước ta thực hiện đa đảng thì các thế lực thù địch muốn đa  
đảng như thế nào, chắc chắn rằng chúng không muốn đa đảng ở đó lại sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.  
Hưởng  
PGS.TS Nguyễn Mạnh  
12  
- Chúng thực hiện nhiều hoạt động nhằm xoá bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư  
tưởng Hồ Chí Minh.  
- Phá vỡ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, ra sức truyền tư  
tưởng tư sản vào các tầng lớp nhân dân.  
- Lợi dụng xu thế mở rộng hợp tác quốc tế, du nhập những sản phẩm văn hoá  
đồi trụy, lối sống phương Tây, để kích động lối sống tư bản trong thanh niên16 từng  
bước làm phai mờ bản sắc văn hoá và giá trị văn hoá của dân tộc Việt Nam.  
* Thủ đoạn trong lĩnh vực tôn giáo - dân tộc17  
16  
Xuất thân từ những gia đình có hoàn cảnh khác nhau, nhưng sinh viên Việt Nam đều những hoài bão  
lớn, tập trung về các khu vực thành phố và trung tâm kinh tế để học tập và sinh sống. Họ lực lượng trẻ, tiên  
phong, đang trong giai đoạn phát triển mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần. Hầu hết sinh viên say mê học tập nâng cao  
trình độ, nắm bắt các tri thức của nhân loại và luôn khát khao hoàn thiện mình về mọi mặt... Sinh viên là những  
người trẻ, vừa rời ghế trường phổ thông, rời khỏi sự quản lý, kèm cặp của thầy cô giáo và bố mẹ về sống chung  
trong ký túc xá hoặc nhà trọ, bước vào cuộc sống tập thể, tự lập, tự quản. Tuy có thế mạnh là nhanh nhạy trong việc  
tiếp thu các thông tin mới trong khoa học cũng như những luồng tư tưởng mới trong xã hội, nhưng hầu hết sinh viên  
còn hạn chế trong khả năng phân tích và chọn lọc thông tin. Chính vì vậy, lực lượng này dễ bị kích động, lôi cuốn  
vào những hoạt động không lành mạnh… Đây chính là điểm yếu của sinh viên mà các thế lực thù địch đã chọn làm  
đối tượng để thực hiện ''DBHB'' nhằm lôi kéo, tạo lực lượng chống phá cách mạng nước ta. Rất dễ dàng nhận thấy,  
khi nhằm vào đối tượng sinh viên, chiến thuật của chúng vẫn "mềm, ngầm, sâu"; tiến hành trên tất cả các lĩnh vực.  
Chúng thông qua internet, điện thoại di động, đặc biệt là các trang web đen… để đưa các ấn phẩm văn hóa đồi trụy,  
phản động vào sinh viên. “Mưa dầm thấm lâu”, những văn hóa phẩm độc hại, những tư tưởng xấu, lối sống vô trách  
nhiệm… cứ dần dần len lỏi vào các ký túc xá sinh viên, lôi kéo, kích động họ, tạo ra sự bất ổn về chính trị tư tưởng,  
gây ra những vụ gây rối trật tự an ninh trong đời sống sinh viên và trong xã hội.  
17  
Các thế lực thù địch, phản động luôn tìm cách lợi dụng vấn đề dân tộc để phá hoại khối đại đoàn kết, kích  
động chống đối, nhằm gây mất ổn định CT-XH, tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của ta. Một trong những tổ  
chức được các thế lực triệt để lợi dụng để chống phá Việt Nam là FULRO, một trong những nhân vật được xem  
“tiên phong” thực hiện mưu đồ này là Lok Ksor (ở Mỹ). Trong dịp kỷ niệm CM Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 vừa  
qua, thêm một hành động chống phá của chúng đã bị ta phát hiện, ngăn chặn kịp thời... Điểm đáng chú ý trong âm  
mưu của chúng là tuyên truyền: “Đất Tây Nguyên là của người Thượng”, kích động người dân tộc thiểu số ở Tây  
Nguyên “đuổi người Kinh về đồng bằng”. Đây không chỉ luận điệu cố tình phủ nhận chính sách dân tộc của Đảng,  
Nhà nước ta, mà còn nhằm chia rẽ mối đoàn kết giữa người Kinh với người dân tộc thiểu số, tạo ra các vụ đòi đất,  
biểu tình, bạo loạn, ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển KT-XH, giữ vững ANCT, TTATXH. Âm mưu, thủ  
đoạn trên không phải mới, đã được TD Pháp tiến hành trong hai cuộc chiến tranh xâm lược các nước trên bán  
đảo Đông Dương (1858-1945) và (1945-1954). Với việc phân chia lãnh thổ, chia rẽ đồng bào dân tộc thiểu số với  
đồng bào Kinh, luận điệu TD Pháp tung ra là “Đất cao nguyên là của người Thượng”, “Cấm người Kinh lên Tây  
Nguyên làm ăn sinh sống”… đã gây cho phong trào cách mạng ở Tây Nguyên trong những năm 1945-1954 một số  
khó khăn, làm sứt mẻ phần nào khối đoàn kết chiến đấu giữa các dân tộc trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung là  
TD Pháp.  
13  
-Tìm mọi cách xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,  
quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta, mà trực tiếp là quan điểm, chính  
sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta.  
- Lợi dụng những thiếu sót, sai lầm trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn  
giáo để gây mâu thuẫn, tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.  
Li dng nhng vn đề dân tc, tôn giáo để kích động tư tưởng dân tc  
hp hòi, dân tc cc đoan, li khai; kích động, chia rquan hlương - giáo và  
gia các tôn giáo hòng làm suy yếu khi đại đoàn kết toàn dân tc.  
- Tập trung phá hoại các cơ sở kinh tế hội; mua chuộc, lôi kéo, ép buộc  
đồng bào các dân tộc, tôn giáo chống đối chính quyền, vượt biên trái phép, gây mất  
ổn chính trị - xã hội, bạo loạn, tạo các điểm nóng để vu khống Việt Nam đàn áp  
các dân tộc, các tôn giáo vi phạm dân chủ, nhân quyền đlập, làm suy yếu cách  
mạng Việt Nam.  
- Tìm mọi cách để xây dựng, nuôi dưỡng các tổ chức phản động người Việt  
Nam ở nước ngoài; tập hợp, tài trợ, chỉ đạo lực lượng phản động trong các dân tộc,  
các tôn giáo trong nước hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam.  
*Thủ đoạn trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh.  
- Các thế lực thù địch lợi dụng xu thế mở rộng, hợp tác quốc tế, thực hiện  
xâm nhập, tăng cường hoạt động tình báo thu thập mật quốc gia.  
- Chúng kích động đòi phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực  
quốc phòng, an ninh và đối với lực lượng vũ trang.  
- Đối với quân đội và công an18, các thế lực thù địch chủ trương hiệu hoá  
sự lãnh đạo của Đảng với luận điểm "phi chính trị hoá" làm cho các lực lượng này  
xa rời mục tiêu chiến đấu. Thể hiện :  
18  
Các thế lực thù địch thực hiện chống phá quân đội ta một cách toàn diện cả về chính trị, tư tưởng tổ chức, từ  
những vấn đề cơ bản về chính trị, bản chất giai cấp, hệ tư tưởng, sự lãnh đạo của Đảng, sự quản của Nhà nước  
đến những vấn đề về chức năng, nhiệm vụ, về cơ cấu tổ chức, công tác cán bộ, về con người; từ những vấn đề về  
lịch sử đến hiện tại, những vấn đề chính trị - tinh thần đến vũ khí trang bị, trong đó chống phá quân đội ta về chính  
trị một nội dung cơ bản trọng yếu. Thực hiện nội dung cơ bản này, các thế lực thù địch dùng nhiều ngón đòn và  
các chiêu thức khác nhau, với nhiều giọng điệu khác nhau, khi thì đứng hẳn về phía đối lập ra sức trực diện chống  
phá, khi thì như "người trong cuộc” thể hiện "thiện chí” xây dựng quân đội, cố gắng "khuyên nhủ” chúng ta nên  
thế này, thế khác. Trong những năm gần đây, các thế lực thù địch ra sức rêu rao quan điểm rằng, "Quân đội và công  
an chỉ của quốc gia, dân tộc, không cần đặt dưới slãnh đạo của đảng phái nào, lực lượng chính trị nào”. Để nhấn  
mạnh thêm của các luận điểm của mình, các thế lực thù địch còn đặt vấn đề quân đội ta cần trung thành với lợi ích  
của quốc gia dân tộc, đề cao khẩu hiệu "Tổ quốc trên hết” trong mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của mình. Chúng còn  
"khuyên nhủ” chúng ta cần phải "chuyên nghiệp hóa” quân đội và công an càng sớm càng tốt”, "cần phải học tập  
kinh nghiệm xây dựng lực lượng vũ trang theo mô hình của quân đội tư sản”. Thoảng qua, những quan điểm trên  
tưởng như hại, nhưng rõ ràng đây thực sự một thủ đoạn thâm độc và là một ngón đòn rất nguy hiểm. Cần vạch  
thực chất của cái gọi là "quân đội của quốc gia, dân tộc”, đó thủ đoạn lừa bịp, căn cứ, phản động về chính  
trị phản khoa học cả về luận thực tiễn….  
Các thế lực thù địch rêu rao, cổ xuý “Quân đội chỉ của dân tộc” đây là quan điểm này có vẻ như được dựa  
trên "cơ sở” thực tiễn rằng, quân đội ta là quân đội một truyền thống anh hùng, gắn với vận mệnh của dân tộc,  
của đất nước, đã anh dũng chiến đấu hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, độc lập tự do của Tổ quốc; rằng,  
Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội có quan hệ máu thịt với nhân dân, là quân đội của dân, do dân và vì dân, vì  
14  
+ Xuyên tạc, phủ nhận những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và  
tư tưởng Hồ Chí Minh, tăng cường tuyên truyền hệ tư tưởng tư sản phương Tây,  
từng bước chuyển hóa lập trường tư tưởng sản sang lập trường tư tưởng tư sản,  
tạo ra quá trình “tự diễn biến” trong nội bộ quân đội, thờ ơ với tính hình chính trị  
của đất nước.  
+ Làm phân hóa nội bộ quân đội, gây chia rẽ quân đội với công an, cán bộ  
với chiến sĩ, quân đội và nhân dân với các ngành kinh tế - xã hội khác.  
+ Tạo ra sự thờ ơ về chính trị trong cán bộ, chiến sĩ. Địch thường tập trung  
vào đối tượng quân nhân là thanh niên, chiến sĩ mới; cán bộ sỹ quan trẻ. Bằng các  
thủ đoạn tuyên truyền, bôi nhọ, phủ nhận các giá trị tốt đẹp của cách mạng, của  
dân tộc; chúng muốn làm cho thế hệ quân nhân trẻ hiện nay quên quá khứ hào  
hùng của Đảng, của dân tộc, của quân đội, ngược lại thích hấp thụ các giá trị văn  
hóa- tư tưởng tư sản phương Tây, lối sống thực dụng kiểu các nước Tư bản, từ đó  
đối lập với các thế hệ quân nhân đi trước, quay lưng lại với Đảng, với cách mạng.  
+ Lợi dụng triệt để những khuyết điểm, tiêu cực trong quá trình đổi mới, hội  
nhập để tác động vào quân đội, tạo ra những hiệu ứng tiêu cực trong một bộ phận  
cán bộ chiến sĩ kém bản lĩnh.  
+ Tiến hành chiến tranh tâm lý trong cán bộ, chiến sĩ quân đội. Với nội dung  
và hình thức chiến tranh tâm lý và phá hoại tư tưởng của các thế lực thù địch đối  
với quân đội ta rất đa dạng, được che đậy một cách tinh vi, xảo quyệt. Trong đó thủ  
đoạn tung tin thất thiệt và xuyên tác đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước,  
Quân đội được chúng thực hiện nhiều nhất, hệ thống, kế hoạch.  
+ Moi tin quân sự, kẻ địch tập trung vào các thông tin về tình hình chất  
lượng các đơn vị, trạng thái tinh thần, tâm lý của cán bộ chiến sĩ; những điều tra,  
thế, việc đặt vấn đ"quân đội chỉ của dân tộc”, "của đất nước”, "của nhân dân” là "phù hợp”, chứ không cần thiết  
phải đặt dưới sự lãnh đạo của một đảng phái nào, một lực lượng chính trị nào!Cách lập luận đó dễ làm cho một số  
người thiếu cảnh giác, nhẹ dạ, cả tin, lầm tưởng rằng các quan điểm đó là phù hợp, cần thiết, thiện chí, là hợp lý,  
khách quan và đúng với thực tiễn xây dựng, chiến đấu trưởng thành của quân đội ta! Bản chất ngón đòn tinh vi  
này củacác thế lực thù địch lợi dụng trực tiếp đánh vào tình cảm, long tự hào chính đáng của nhân dân ta về  
quân đội anh hùng, hòng khơi gợi, kích động, làm cho người dân nghĩ rằng "quân đội chỉ của dân tộc" là "lôgích  
tự nhiên”. "Quân đội của quốc gia, dân tộc”, một giọng điệu tưởng như khách quan, không chính trị, không giai  
cấp, nhưng lại nằm trong âm mưu "phi chính trị hóa” quân đội ta của các thế lực thù địch, thực chất nhằm lái  
chính trị của quân đội ta sang chính trị tư sản. Bằng quan điểm đó, các thế lực thù địch âm mưu khéo léo loại bỏ vai  
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với quân đội, xóa nhòa bản chất chính trị - giai cấp của quân đội,  
tiến tới làm biến chất quân đội ta. Đây mới là âm mưu đích thực của các thế lực thù địch trong mục tiêu chống phá  
quân đội ta, nhưng lại rất dễ làm cho nhiều người rơi vào chủ quan, là, mất cảnh giác, khó nhận biết thực chất  
âm mưu, thủ đoạn của chúng. Các thế lực thù địch hy vọng rằng, thông qua quá trình "diễn biến hoà bình" chống  
phá Đảng chống phá quân đội, thông qua việc "phi chính trị hoá” quân đội ta, tuyên truyền cho cái gọi là "quân  
đội chỉ của dân tộc”, sẽ hiệu hóa sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, làm cho quân đội ta mất phương  
hướng: "không biết bảo vệ ai", không biết "chống lại ai". Từ đó, biến công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, Nhà nước  
trở thành lực lượng, công cụ trực tiếp cho hành động chống Đảng chống Nhà nước ta.  
PGS.TS.  
Nguyễn  
Mạnh  
Hưởng  
15  
tổng kết những báo cáo tính hình tư tưởng ở các đơn vị quân đội; những tiêu cực  
trong đời sống của cán bộ, chiến sĩ.  
+ Đưa tài liệu nội dung xấu, độc vào quân đội để tác động vào tư tưởng,  
tâm lý của cán bộ, chiến sĩ làm cho trong quân đội dần dần suy thoái về tư tưởng  
chính trị, đạo đức lối sống, làm phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu cho độc  
lập dân tộc và CNXH; tạo ra một thế hệ quân nhân có lối sống thực dụng, thích  
hưởng thụ, xa rời tưởng cách mạng, coi thường đạo lý dân tộc  
+ Thông qua mặt trận văn hóa- nghệ thuật để phi chính trị, phi lịch sử; xây  
dựng một cách méo mó hình tượng người chiến sĩ trong hai cuộc kháng chiến  
chống Pháp và chống Mỹ, làm mơ hồ, lẫn lộn tính chất chính trị của chiến tranh,  
xóa nhòa ranh giới giai cấp trong văn hóa- nghệ thuật, kích động và tuyên truyền  
thương mại hóa các hoạt động văn hóa- nghệ thuật trong quân đội; hình thành một  
xu hướng hưởng thụ văn học- nghệ thuật thực dụng, thấp kém, phi chính trị, phi  
nhân văn.  
* Thủ đoạn trên lĩnh vực đối ngoại.  
- Các thế lực thù địch lợi dụng chủ trương Việt Nam mở rộng hội nhập quốc tế,  
mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới để tuyên truyền hướng Việt  
Nam đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản.  
- Hạn chế sự mở rộng quan hệ hợp tác của Việt Nam đối với các nước lớn trên  
thế giới, tìm cách ngăn cản những dự án đầu tư quốc tế vào Việt Nam.  
- Đặc biệt, chúng rất coi trọng việc chia rẽ tình đoàn kết hữu nghị giữa Việt  
Nam với Lào, Campuchia và các nước XHCN, hạ thấp uy tín của nước ta trên  
trường quốc tế.  
2. Bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam  
a) Âm mưu:  
- Các thế lực thù địch chú trọng nuôi dưỡng các tổ chức phản động sống lưu  
vong ở nước ngoài và kết hợp với các phần tử cực đoan, bất mãn19 trong nước gây  
19  
Trong những năm qua, lợi dụng tình hình thế giới diễn biến phức tạp, ở trong nước nảy sinh không ít những  
khó khăn mới, các tổ chức phản động người Việt lưu vong ở nước ngoài cấu kết chặt chẽ với một số lực lượng  
chống đối, cơ hội chính trị ở trong nước tăng cường hoạt động chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta trên  
tất cả các lĩnh vực đời sống hội. Chúng tìm mọi thủ đoạn để truyền bá và cổ súy cho các quan điểm, luận điệu  
phản động, xuyên tạc tình hình đất nước, lợi dụng những yếu kém, khuyết điểm đbác bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư  
tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng, làm cho cán bộ, đảng viên, nhân dân suy giảm lòng tin, hoài  
nghi vào con đường đi lên chủ nghĩa hội Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.  
Cuộc đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch từ nước ngoài cấu kết với các thế lực phản  
động ở trong nước rắp tâm phá hoại công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, có ý nghĩa rất quan trọng cấp bách.  
Để góp sức cùng toàn Đảng, toàn dân đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn hiểm độc của chúng, trước hết  
mỗi cán bộ, chiến sĩ cần nhận một số hình thức, biện pháp, phương tiện mà các thế lực thù địch thường sử dụng  
chống phá cách mạng nước ta trong những năm gần đây. thể nói, sự chống phá quyết liệt, tập trung trên mặt trận  
chính trị tư tưởng. Các thế lực thù địch cơ hội chính trị huy động nhiều đối tượng trong lực lượng phản động lưu  
vong kết hợp với một số cơ hội chính trị trong nước, viết và tán phát các loại tài liệu tuyên truyền xuyên tạc sự  
nghiệp đổi mới ở nước ta, bôi nhọ uy tín của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, tẩy trừ "huyền thoại Hồ Chí  
Minh", đặc biệt từ khi Đảng ta triển khai Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh".  
Các thế lực thù địch ở trong và ngoài nước sử dụng mọi hình thức, biện pháp để tuyên truyền, trong đó rất chú trọng  
16  
rối, làm mất ổn định hội ở một số vùng nhạy cảm như Tây Bắc, Tây Nguyên,  
Tây Nam bộ.  
- Chúng tiến hành nhiều hoạt động xảo quyệt để lôi kéo, mua chuộc quần  
chúng nhân dân lao động đứng lên biểu tình chống lại chính quyền địa phương.  
- Vùng Tây Bắc, chúng kích động người Mông đòi thành lập khu tự trị riêng20.  
lập các diễn đàn, website, blog trên mạng internet, tổ chức hội thảo, xúi giục một số người viết “thư góp ý”, “hồi  
ký”; lợi dụng những ý kiến phản biện để xuyên tạc đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách của Nhà nước, gây  
chia rẽ, kích động tư tưởng chống đối. Chúng khai thác những vấn đề bức xúc về kinh tế, hội, về chủ quyền biên  
giới, lãnh thổ... để kích động tiến hành những hoạt động tụ tập đông người biểu tình gây rối an ninh, trật tự…  
Chúng lập 413 tổ chức phản động ở nước ngoài, thông qua đó chuyển về Việt Nam nhiều tài liệu nội dung  
chống đối, phá hoại đường lối, quan điểm, luận chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta. Điển hình gần  
đây là các tổ chức phản động “Việt Tân”, “Đảng nhân dân hành động” ở Mỹ, “Tập hợp dân chủ đa nguyên” Pháp,  
“Ủy ban bảo vệ người lao động Việt Nam” Ba Lan… đã những hoạt động cài cắm, móc nối, âm mưu tổ chức  
các nhóm chính trị đối lập, ý định công khai hóa hoạt động trong nước. Lực lượng an ninh của ta đã phát hiện, ngăn  
chặn kịp thời hoạt động chống phá của các thế lực thù địch từ nước ngoài, bóc gỡ hàng chục cơ sở của chúng trong  
nước; đồng thời, kiềm tỏa chặt chẽ hoạt động của số đối tượng chống đối, cơ hội chính trị....  
... Các thế lực thù địch ở nước ngoài không những trực tiếp chỉ đạo lập ra và tài trợ cho các tổ chức, cá nhân  
phản động người Việt lưu vong tuyên truyền, xuyên tạc sự nghiệp đổi mới đất nước ta, mà chúng còn lợi dụng hoạt  
động của một số tổ chức phi chính phủ (NGO) ở nước ngoài vào các mục đích chính trị, can thiệp công việc nội bộ,  
xâm hại an ninh và chủ quyền của nước ta. Đặc biệt, chúng rất chú trọng việc hợp tác, đầu tư, tài trợ các chương  
trình, dự án để tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử phát triển, phong tục tập quán... phục vụ ý đồ móc nối, tuyển lựa, cài  
cắm người, thu thập tin tức, kết hợp với tăng cường tuyên truyền, tác động giá trị dân chủ, nhân quyền phương  
Tây... Theo số liệu thống của cơ quan chức năng, hiện nay các thế lực thù địch tăng cường liên kết giữa các tổ  
chức phản động người Việt lưu vong ở nước ngoài để chống phá Việt Nam. Chúng lập ra và đồng thời sử dụng của  
một số nước sở tại với tổng số 88 nhà xuất bản, 62 đài phát thanh và truyền hình, xuất bản hơn 390 tờ báo và  
tạp chí phản động. Chúng hết sức tận dụng tối đa mạng internet, báo điện tử, các website… để truyền tải hàng  
nghìn tài liệu chiến tranh tâm lý phát tán vào nước ta.  
Đại tá, Thạc sĩ NGUYỄN ĐỨC THẮNG, Viện khoa học hội nhân văn quân sự-Bộ Quốc phòng  
20  
Người H’Mông, còn gọi người Hmông, người Mông, người Hơ-mông, người Miêu (ở Trung Quốc),  
người Mèo (ở Việt Nam). Tên gọi phổ biến hiện nay ở Việt Nam là người Mông. Quê hương của họ những vùng  
núi cao phía nam Trung Quốc (đặc biệt là Quý Châu) cũng như các khu vực miền bắc của Đông Nam Á (bắc Việt  
Nam và Lào). Ngày nay, người Mông sống ở Trung Quốc nhiều nhất, họ tạo thành nhóm dân tộc lớn thứ 5 trong số  
56 dân tộc được chính thức công nhận ở Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Ở Việt Nam, người Mông có 1.068.189  
người, xếp sau người Kinh, Tày, Thái, Mường, Khơ-me… Người Mông sống du canh, du cư, bản sắc văn hóa  
độc đáo, được các thế hệ người Mông trân trọng gìn giữ. Cũng như nhiều dân tộc khác, người Mông là một dân tộc  
thiểu số, họ sống tản mát trên nhiều quốc gia, Tổ quốc của họ nơi họ định cư. Theo nhiều nhà nghiên cứu, việc  
người Mông đòi thành lập Vương quốc riêng mới chỉ đặt ra trong nửa sau thế kỷ XX, sau khi vấn đề dân chủ, nhân  
quyền được Liên hợp quốc đặt ra và Hoa Kỳ sử dụng như một chính sách, chiến lược để can thiệp vào công việc  
nội bộ của các quốc gia, nhất là các nước XHCN, trong đó Việt Nam.  
Ở Việt Nam, Lào, những kẻ đòi thành lập Vương quốc Mông bắt nguồn từ thời kỳ Mỹ tiến hành chiến  
tranh xâm lược Việt Nam (1954-1975). Cơ sở chính trị của lực lượng này là “Vàng Pao”- ngụy quân, người Mông ở  
Lào. Chúng có căn cứ khá vững chắc ở Loong Chẹng (Lào). Đây lực lượng quân sự chủ chốt của quân ngụy ở  
Lào. Sau khi chiến tranh kết thúc, lực lượng Vàng Pao và một số người nhẹ dạ đã đi theo chúng di tản sang Thái  
Lan, rồi một bộ phận đi định cư ở Mỹ. Bộ phận này vẫn nuôi hận thù với Nhà nước Việt Nam và Lào. Chính họ  
đã được lực lượng cực đoan về dân chủ, nhân quyền Mỹ lợi dụng, thông qua việc đòi thành lập Vương quốc Mông  
để can thiệp vào công việc nội bộ của nhiều quốc gia, trong đó Việt Nam và Lào. Người Mông ở Việt Nam, trong  
17  
- Vùng Tây Nguyên, chúng ra sức tuyên truyền thành lập nhà nước Đề Ga21,  
suốt chiều dài lịch sử một dân tộc đã nhiều đóng góp vào sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc, sống hòa  
thuận với 53 dân tộc anh em khác. Do tập tục du canh, du cư, nên địa bàn sinh sống của họ không cố định. Người  
Mông sinh sống trên 62 tỉnh, tập trung hơn cả là các tỉnh vùng Tây Bắc, Đông Bắc kéo dài tới Nghệ An. Những thập  
kỷ gần đây, đồng bào Mông di cư tự do tới nhiều tỉnh ở Tây Nguyên… Và cũng những lý do trên đời sống của  
đồng bào Mông còn gặp nhiều khó khăn. Cho đến năm 1960, người Mông chưa chữ viết. Nhu cầu thực sự của  
đồng bào là giảm nghèo, cải thiện đời sống vật chất tinh thần. Chữ viết mà ngày nay người Mông đang học sử  
dụng trong các văn bản là do Chính phủ Việt Nam giúp đỡ sáng tạo nên. Đồng bào Mông không có tôn giáo riêng  
của mình. Một bộ phận dân tộc Mông theo đạo Tin Lành. Thế nhưng vài thập kỷ gần đây “đạo Vàng Chứ” phát triển  
nhanh chóng. Có một số nhà nghiên cứu trực tiếp tìm hiểu “đạo Vàng Chứ” cho biết, đó chỉ sự phỏng đạo Tin  
Lành mà thôi... Tên đạo Vàng Chứ xuất phát từ nguyên gốc nghĩa Vương Chủ. Nghĩa là vua của người Mông.  
Vào năm 1978, đài phát thanh châu Á tự do, có trung tâm phát sóng ở nước ngoài, bắt đầu phát chương trình tuyên  
truyền về “đạo Vàng Chứ”. Chính từ đây đạo này phát triển.  
Các nghiên cứu về lịch sử hình thành các quốc gia-dân tộc trên thế giới cho thấy, điều “cần" cho sự ra đời của  
một quốc gia-dân tộc bao gồm: Một khu vực địa đủ lớn, ổn định lâu dài làm nơi định cư của đồng bào; Một thị  
trường kinh tế tương đối phát triển làm cơ sở cho đời sống của cư dân; Một trình độ phát triển tương đối cao về văn  
hóa, trước hết về ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết riêng)… Điều kiện “đủ” cho việc ra đời của một quốc gia là phải  
một lực lượng chính trị đủ tư cách về chính trị, đạo đại diện cho dân tộc mình. Và đương nhiên về mặt pháp  
nếu một dân tộc muốn tách khỏi một quốc gia-dân tộc họ đang sinh sống, thì phải được Nhà nước đó chấp  
thuận. Đối chiếu những tiêu chí trên với thực trạng sinh sống của đồng bào Mông hiện nay, những người duy  
khách quan có thể khẳng định rằng không thể chuyện thành lập “Vương quốc Mông” được. Việc đòi thành lập  
Vương quốc riêng, đòi “tự do tín ngưỡng” chỉ thủ đoạn chính trị của một nhóm người Mông quá khích bị các thế  
lực nước ngoài lợi dụng. Âm mưu của chúng là kích động tình cảm dân tộc, sự thiếu hiểu biết của đồng bào để gây  
mất ổn định nhằm phá hoại công cuộc đổi mới của Việt Nam.  
Nếu không thể thành lập được “Vương quốc” riêng, thì việc một số đồng bào Mông nghe theo kẻ xấu, tụ  
họp đông người gây rối trật tự trị an chỉ phục vụ cho lợi ích của một số rất ít người gắn liền với các thế lực thù địch  
với Cách mạng Việt Nam muốn lợi dụng tình hình để gây mất ổn định chính trị. Việc này không đem lại lợi ích gì  
cho người Mông, trái lại chỉ làm tổn thương đến tình đoàn kết của đại gia đình các dân tộc Việt Nam, phá hoại công  
cuộc đổi mới của đất nước và cho chính dân tộc Mông mà thôi.  
Nguồn qdnd (Trung Nguyên)  
21  
Từ năm 2000 đến nay, bọn phản động FULRO và các thế lực thù địch gia tăng các hoạt động chống phá,  
tăng cường tuyên truyền xuyên tạc chủ trương, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước, chia  
rẽ khối đoàn kết Kinh- Thượng, đoàn kết lương - giáo, kích động đồng bào các dân tộc biểu tình gây ra các sự kiện  
tháng 2 năm 2001 và tháng 4 năm 2004 trên địa bàn một số tỉnh Tây Nguyên.  
Về phương thức: Chúng thường xuyên sử dụng các phương tiện thông tin liên lạc như điện thoại di động,  
intemet, các trang Web để liên lạc, chỉ đạo trực tiếp, tuyên truyền tác động. Các đài phát thanh của các tổ chức phản  
động từ nước ngoài liên tục phát sóng các chương trình tiếng Việt, tiếng dân tộc lôi kéo, kích động đồng bào, xuyên  
tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Các thế lực thù địch đưa ra các nghị quyết xuyên tạc “Vấn đề  
người Thượng”, làm cho nhiều nước hiểu sai tình hình Tây Nguyên.  
Về nội dung tuyên truyền: Chúng triệt để lợi dụng và xoáy sâu vào vấn đề dân tộc, tôn giáo; tăng cường tuyên  
truyền chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, vu cáo chính quyền đàn áp, phân biệt đối xử với người dân tộc thiểu số và  
những người theo tôn giáo, đàn áp tôn giáo và tịch thu nhà thờ, coi thường phong tục, tập quán của đồng bào. Đặc  
biệt nguy hiểm, chúng truyền tư tưởng kỳ thị, chia rẽ dân tộc, kích động tư tưởng ly khai với ý đồ thành lập một  
“Nhà nước Đề ga độc lập” ở Tây Nguyên.  
18  
chờ thời cơ thuận lợi để tiến hành lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt  
Nam.  
b) Thủ đoạn cơ bản  
Các thế lực thù địch đã sử dụng để tiến hành bạo loạn lật đổ chính quyền ở một  
số địa phương nước ta là:  
- Kích động sự bất bình của quần chúng, dụ dỗ cưỡng ép nhân dân biểu tình  
làm chỗ dựa cho lực lượng phản động trà trộn hoạt động đập phá trụ sở, rồi uy hiếp  
khống chế cơ quan quyền lực của địa phương.  
- Trong quá trình gây bạo loạn, bọn phản động tìm mọi cách để mở rộng phạm  
vi, quy mô, lực lượng và kêu gọi sự tài trợ tiền của, vũ khí ngoài nước vào để tăng  
sức mạnh.  
c) Yêu cu chng bo lon lt đổ:  
- Phi nâng cao cnh giác cách mng, kp thi phát hin âm mưu bo lon lt  
đổ ca các thế lc thù địch, dbáo đúng thủ đon, quy mô, địa đim và thi gian.  
- Nm vng nguyên tc xtrong đấu tranh chng bo lon lt đổ là: nhanh  
gn- kiên quyết- linh hot- đúng đối tượng -không để lan rng kéo dài; sdng  
lc lượng và phương thc đấu tranh phù hp.  
Về đối tượng tuyên truyền: Chúng lấy số FULRO cũ ở bên trong, số cầm đầu cốt cán trong “Tin lành Đề ga”  
làm nòng cốt, từ đó tuyên truyền, tác động, lôi kéo một bộ phận đồng bào người dân tộc thiểu số, chú trọng vào số  
tín đồ đồng bào dân tộc theo đạo Tin lành. Đáng chú ý, chúng chỉ đạo phải tập trung tác động, lôi kéo cho được một  
số trí thức, cán bộ cơ sở học sinh, sinh viên là người dân tộc thiểu số đang theo học tại các trường đại học, cao  
đẳng, trung học chuyên nghiệp tham gia vào các hoạt động tuyên truyền, tán phát tài liệu từ bên ngoài đưa vào.  
Về thủ đoạn: Các thế lực phản động triệt để lợi dụng những sơ hở, thiếu sót trong việc thực hiện đường lối,  
chính sách dân tộc, tôn giáo để tuyên truyền xuyên tạc chính sách, chủ trương phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của  
Đảng, Nhà nước dành cho khu vực Tây Nguyên.  
Bọn phản động FULRO luôn tuyên truyền “Tin lành Đề ga” là quốc đạo của “Nhà nước Đề ga độc lập”; chủ  
trương phát triển “Tin lành Đề ga” rộng khắp ở các địa bàn, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, lợi dụng các  
buổi sinh hoạt đạo để tuyên truyền hoạt động FULRO. Để lôi kéo và nắm giữ tín đồ, ngoài việc khống chế tại chỗ,  
chúng thường sử dụng những lợi ích vật chất nhằm dụ dỗ, khống chế thân nhân bên trong không được quay lại Tin  
lành Việt Nam (miền Nam); nếu ai bỏ “Tin lành Đề ga” thì sẽ không được nhận tiền gỉn về. Chúng tìm cách tiếp  
cận, tác động, lôi kéo số mục sư, truyền đạo Tin lành thuộc Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) ủng hộ chủ  
trương đòi tách Tin lành người Thượng ra khỏi Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) để thành lập “Tin lành Đề  
ga” là tổ chức Tin lành của đồng bào dân tộc thiểu số.  
Chúng cũng triệt để lợi dụng sự chênh lệch về kinh tế, hội; sự khác biệt về văn hoá, ngôn ngữ, phong tục tập  
quán, tín ngưỡng tôn giáo giữa các dân tộc; những vấn đề do lịch sử để lại để tuyên truyền chia rẽ khối đoàn kết các  
dân tộc, kích động tư tưởng ly khai, tự trị.  
ThS. Lê Nhị Hoà  
19  
III. Mc tiêu, nhim v, quan đim, phương châm và nhng gii pháp trong  
phòng, chng chiến lược "DBHB”, bo lon lt đổ ca Đảng, Nhà nước ta  
1) Mục tiêu  
Mục tiêu của chiến lược "Diễn biến hoà bình" mà các thế lực thù địch tiến hành  
ở Việt Nam là làm chuyển hoá chế độ hội chủ nghĩa ở nước ta theo con đường  
tư bản chủ nghĩa. vậy:  
- Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta là phi làm tht bi âm mưu thủ đon  
trong chiến lược "Din biến hoà bình" ca kthù đối vi cách mng Vit Nam.  
- Givng n định chính tr- xã hi ca đất nước, to môi trường hoà bình  
để đẩy mnh snghip công nghip hoá, hin đại hoá đất nước.  
- Bo vvng chc độc lp, chquyn, thng nht, toàn vn lãnh thca Tổ  
quc; bo van ninh quc gia, trt tan toàn xã hi và nn văn hoá; bo vsự  
nghip đổi mi và li ích quc gia, dân tc.  
2) Nhiệm vụ  
Đại hội đại biểu toàn quốc lần X của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định:  
“Kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn "diễn biến hoà bình", bạo loạn  
lật đổ”. Đây nhiệm vụ cấp bách hàng đầu trong các nhiệm vụ quốc phòng - an  
ninh hiện nay, đồng thời còn là nhiệm vụ thường xuyên và lâu dài. Nhiệm vụ  
chung trong phòng, chống DBHB, bạo loạn lật đổ đó là:  
Chủ động phát hiện âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch đối  
với Nước ta, kịp thời tiến công ngay từ đầu. Xử lí nhanh chóng, hiệu quả khi có  
bạo loạn xảy ra và luôn bảo vệ tốt chính trị nội bộ.  
3) Quan điểm chỉ đạo  
- Một , đấu tranh chống "diễn biến hoà bình" là một cuộc đấu tranh giai cấp,  
đấu tranh dân tộc gay go, quyết liệt, lâu dài và phức tạp trên mọi lĩnh vực.  
Thực chất chiến lược diễn biến hoà bình" mà các thế lực thù địch sử dụng để  
chống phá cách mạng nước ta là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phản  
cách mạng của chủ nghĩa đế quốc. Mục tiêu của chiến lược đó nhằm xoá bỏ sự  
lãnh đạo của Đảng, làm sụp đổ chế độ hội chủ nghĩa ở Việt Nam và chuyển hoá  
theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Do đó, cuộc đấu tranh sẽ hết sức gay go, quyết  
liệt và lâu dài trên mọi lĩnh vực của đời sống hội.  
- Hai là, chng "din biến hoà bình" là cp bách hàng đầu trong các nhim vụ  
quc phòng - an ninh hin nay để bo vvng chc xã hi chnghĩa.  
Xut phát tcác thủ đon tinh vi, xo quyt mà các thế lc thù địch sdng  
trong chiến lược "din biến hoà bình" vi nhiu đòn tn công "mm" trên tt cả  
các lĩnh vc để chng phá cách mng nước ta. Vì thế, Đảng ta đã xác định rõ ni  
dung bo vTquc Vit Nam xã hi chnghĩa hin nay là toàn din, coi trng  
givng an ninh kinh tế, chính tr, văn hoá, tư tưởng.  
- Ba là, phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ  
thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đấu tranh  
chống "diễn biến hoà bình".  
20  
Tải về để xem bản đầy đủ
doc 26 trang baolam 10500
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Phòng chống chiến lược "Diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • docbai_giang_phong_chong_chien_luoc_dien_bien_hoa_binh_bao_loan.doc