Tư tưởng sư phạm tích hợp: Từ ngữ nghĩa và triết lý
DHTH & DHPH ở trường trung học đáp ứng yêu cầu đổi mới CT và SGK sau năm 2015
Tư tưởng sư phạm tích hợp:
Từ ngữ nghĩa và triết lý
ThS. Hoàng Ngọc Hùng*
Từ một quy luật, triết lý, tư tưởng tích hợp được cụ thể hóa thành phương pháp, giải
pháp, kỹ thuật, kỹ năng trong giáo dục, giảng dạy; vì vậy, cách giới thiệu về tích hợp là
một trong các nguyên nhân làm cho nhà giáo thấy mông lung, nặng nề hay thấy nó quen
đến mức không cần hiểu thêm để nâng hiệu quả hoạt động sư phạm.
Từ sự đồng tình về “tích hợp – thành phần quen thuộc trong triết lý về phương pháp
giáo dục và dạy học ở Việt Nam”, sau đây là
những thông tin bước đầu từ góc nhìn lịch sử
và ngữ nghĩa về tích hợp, góp phần nâng hiệu quả giới thiệu “tích hợp – dưới dạng phương
pháp”.
1. Lịch sử
1.1. Triết lý
Ở Việt Nam, từ thời Pháp thuộc, tư tưởng sư phạm tích hợp (về nội dung tri thức) đã
được thể hiện rõ nhất ở môn Cách trí (dạy về cấu tạo cơ thể người + Vệ sinh cơ thể người
+ Môi trường và thiên nhiên); tên môn học là “Cách trí” xuất phát từ cụm từ “cách vật trí
tri”. Việc nói gọn “cách vật trí tri” thành “cách trí” không chỉ là sự rút gọn ngôn từ mà còn
thể hiện tư tưởng dạy (và) học, triết lý giáo dục, bấy giờ qua việc “phối hợp các hoạt động
khác nhau, các thành phần khác nhau của một hệ thống để bảo đảm sự hài hòa chức năng
và mục tiêu hoạt động của hệ thống ấy – tích hợp”.
Trong Triết sử Trung Hoa, cụm từ “cách vật trí tri” xuất hiện đầu tiên trong sách Đại
học, thuộc Tứ Thư (Trung Dung, Đại Học, Luận Ngữ, Mạnh Tử) của phái Nho gia. Sách
Đại học được Tăng Tử, cháu nội Khổng Tử trích từ bộ Lễ Ký, gồm 2 phần: phần I là
những lời do Khổng Tử truyền cho Tăng Tử để dạy người phép tu tề; phần II là giảng giải
của Tăng Tử về phần I.
Trong “8 điều mục” thuộc phần I, sách dạy: “Trí tri tại cách vật, vật cách nhi hậu tri
chí” (trí thức biết được do tiếp xúc với sự vật, vật được tiếp xúc rồi sau đó tri thức mới
đến).
- Trịnh Huyền đời Đông Hán giải: “Cách là đến cùng, vật như là sự vật”.
- Phái Trình – Chu đời Tống nhấn mạnh: Tri thức vốn có ở người, nhưng ảnh
hưởng của vật dụng làm cho mất đi, cần phải “cách vật” hoặc “tức vật cùng lí” để lấy lại.
Trình Di giải: “Cách như là xét đến cùng, vật như là lí. Như vậy là xét đến cùng lí vậy”
* Trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng
26
DHTH & DHPH ở trường trung học đáp ứng yêu cầu đổi mới CT và SGK sau năm 2015
(“Nhị Trình di thư”, Cuốn 18). Chu Hy giải: “Nói muốn đạt đến cái biết của ta thì căn cứ
vào vật và xét đến cùng cái lí của nó” (“Tứ Thư”, chương cuối, tập chú).
- Trình Hạo và Lục Tượng Sơn (siêu hình): Vũ trụ chưa hề cách ly con người,
nhưng con người tự cách ly vũ trụ. Việc học là nhằm bỏ che lấp ấy để trở về bản thể. Cái
cần biết, cần đạt tới là cái tâm.
- Cách vật là khảo sát cái tâm. Cái thể của tâm rất lớn. Nếu có thể phát huy được
cùng cực của tâm ta, thì sẽ hòa hợp với Trời.
- Vương Dương Minh kế thừa tư tưởng trên đây và đưa ra một số kiến giải khiến
hệ tư tưởng siêu hình trở nên mạch lạc. Khi có người hỏi ông: “nếu bảo trong trời đất
không có vật gì ở ngoài tâm, vậy hoa kia trong núi sâu, tự nở tự tàn, thì có liên quan gì tới
tâm?” Vương Dương Minh giải thích: “Khi ngươi chưa xem hoa, hoa kia và tâm ngươi
cùng là tĩnh mịch. Khi ngươi đến xem hoa, thì sắc hoa kia phút chốc trở thành rõ ràng.
Mới biết hoa kia không phải ở ngoài tâm ngươi (Truyền Tập Lục, Quyển 3). Một đoạn
khác của sách này chép lời Vương Dương Minh: “Minh linh (tâm) ta là chủ tể của Trời
Đất, quỷ thần, muôn vật… Trời Đất, quỷ thần, muôn vật mà tách khỏi minh linh ta thì
không còn có Trời Đất, quỷ thần, muôn vật nữa” (Quyển 3).
- Vũ trụ là một toàn thể tâm linh, trong đó chỉ có một thế giới là thế giới thực tại và
hữu hình mà ta kinh nghiệm lấy. Vì thế, không có chỗ cho thế giới trừu tượng – như kiến
giải về “lý” của Chu Hi (xét đến cùng cái lý của sự vật). Với Vương Dương Minh, “tâm”
và “lý” là một)
- Theo Vương Dương Minh, “cách” (trong “cách vật”, “cải cách”) có nghĩa là sửa,
hay chính (sửa cho đúng); vật có nghĩa là sự vật, và cũng có nghĩa là sự việc; sự việc
không chỉ gọn trong sự kiện, mà còn bao hàm ý nghĩa đạo đức, luân lý; như hướng vào
hiếu kính cha mẹ, thì hiếu kính cha mẹ là một “vật”. Như thế, “vật” có ý nghĩa trọn toàn
bộ các khía cạnh liên quan và thuộc về đời sống con người.
- Theo nghĩa này, “cách vật” không có nghĩa là “tìm hiểu sự vật”, mà có nghĩa là
“chính việc”, tức làm cho ngay chính sự vật, sự việc. Điều này đồng nghĩa với việc ta đạt
tới cùng lương tri của tâm ta đối với sự vật; lúc đó, ở mỗi sự vật ta đều đạt được cái lý của
nó.
- Cách vật là sự triển khai ý niệm “làm sáng đức sáng” (tại minh minh đức) nói đến
trong sách Đại học. Tuy nhiên, phải dựa vào đâu để “cách vật - chính việc”? Theo Vương
Dương Minh: “Bản thể của minh đức (tâm) là lương tri; cho nên làm sáng đức sáng và
thân dân chính là trí lương tri (thực hành những gì lương tri dạy bảo); theo ông: ta tốt hay
xấu, đều có cùng một tâm trong căn bản, nó không bị che bởi tư ý (ý riêng) và tự nó biểu
hiện qua phản ứng mau chóng của ta đối với sự vật. Ví dụ, khi thấy đứa bé sắp rơi xuống
giếng, phản ứng trực nhiên đầu tiên của ta là nỗi lo sợ cho nó. Chính cái ánh sáng bên
trong tâm ta đó mách bảo ta phải cứu đứa bé; và cái ánh sáng đó là cái nhất thể của vũ trụ.
- Mặt khác, cách vật như thế do kinh nghiệm quan sát và giải quyết vấn đề hằng
ngày.
27
DHTH & DHPH ở trường trung học đáp ứng yêu cầu đổi mới CT và SGK sau năm 2015
- Lương tri thuộc về “biết - tri”, còn “trí lương tri” thuộc về “hành - làm”. Muốn
đạt cái trí lương tri, không chỉ chiêm nghiệm và trầm tư (theo lối Phật, Lão), mà phải làm,
phải chấp nhận thực tại của sự vật.
- Tóm lại: khi đối diện với những vấn đề cần giải quyết, lương tri sẽ định cho ta
biết tính chất của “vật” đó là tốt hay xấu, phải hay trái; khi biết “vật” là tốt, thì phải thi
hành với lòng thành; khi lương tri biết đó là xấu, thì cũng phải đừng thi hành với lòng
thành. Như gặp bé rơi giếng, nếu ta tìm cớ không theo lương tri do nghĩ tư thù hay phần
thưởng, thì ta đã để cho tư ý (tư dục) che mờ bản tâm (cũng là bản thể của Trời); còn khi
thuận theo lương tri là ta đã “chính việc” và đã “trí lương tri” - “lương tri” thuộc về “biết”,
còn “trí lương tri” thuộc về “hành - làm”.
- Lương tri chỉ giúp nhận biết lẽ phải trái, nhưng cái biết ở trong ta là chưa hoàn
thành – vì chưa tạo thành quả ở ngoài ta; chỉ khi thực hành lương tri (có sáng kiến kinh
nghiệm về lương tri) thì cái biết của lương tri mới hoàn thành. Đây là lý do gộp 2 mục
thành một: “cách vật + trí tri”, để giải thích cho câu nguyên văn trong Đại học: “cách vật
ở tại trí tri.”
- Lương tri chỉ cho biết phải làm (hoặc không làm) điều gì, nhưng không chỉ dẫn
cách làm thế nào (thiếu “kỹ năng chuyên môn”); muốn biết thì phải học những phương
pháp thiết thực để hành động hợp hoàn cảnh.
- Nếu kiên trì tu dưỡng “cách vật trí tri”, thì dần xóa được các chướng ngại ngăn
trở bản thể của tâm; đến lúc nào đó sẽ đạt tận cùng của bản tâm, tức là trở về tình trạng
thiên uyên - nhất thể với trời đất vạn vật.
1.2. Môn học
- Tiểu học, môn Tự nhiên Xã hội (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, sau Cách mạng
Tháng 8, có xuất xứ từ môn Cách trí trước CM tháng 8.
- Môn Vạn vật (ban A, Khoa học thực nghiệm - giáo dục miền Nam trước năm
1975) có dạy thêm Thổ nhưỡng, đất đá, hành tinh, thiên hà,…chứ không chỉ về dạy chất
sống như môn Sinh học. Cụm từ “khoa học thực nghiệm” cũng góp phần nói lên mục tiêu
giáo dục theo định hướng “học những phương pháp thiết thực để hành động hợp hoàn
cảnh”
- Từ năm 1987, nước ta xây dựng môn “Tìm hiểu Tự nhiên và xã hội” theo quan
điểm tích hợp - từ lớp 1 đến lớp 5.
- Chương trình năm 2000 được hoàn chỉnh thêm một bước, tuy nhiên khái niệm
tích hợp vẫn còn xa lạ với không ít giáo viên; một số đã có nhận thức ban đầu nhưng còn
hạn chế về kĩ năng vận dụng. Nói một số giáo viên đã có “nhận thức ban đầu” vì các vị ấy
vẫn hiểu “tích hợp chỉ dùng trong dạy học” mà chưa thấy nó “được sử dụng trong nhiều
lĩnh vực” mặc dù đã được giới thiệu về tích hợp:
. Qua các kiến thức lịch sử giáo dục: Thời kì Khai sáng - chỉ một quan niệm giáo
dục toàn diện; thành lập một loại hình nhà trường có các thuộc tính trội của các loại hình
nhà trường vốn có.
28
DHTH & DHPH ở trường trung học đáp ứng yêu cầu đổi mới CT và SGK sau năm 2015
. Qua lý luận dạy học các bộ môn: Tích hợp được hiểu là sự kết hợp, tổ hợp các nội
dung từ các môn học, lĩnh vực học tập khác nhau (theo cách hiểu truyền thống từ trước tới
nay) thành một “môn học” mới hoặc lồng ghép các nội dung cần thiết vào các nội dung
vốn có của môn học (như: lồng ghép nội dung giáo dục dân số, môi trường, an toàn giao
thông trong các môn học Đạo đức, Tiếng Việt hay Tự nhiên và xã hội… xây dựng môn
học tích hợp từ các môn truyền thống.
- Có thể thấy, lương tri về sư phạm tích hợp chỉ có thể cho nhà giáo biết phải làm
(hoặc không làm) điều gì để tích hợp, nhưng chưa chỉ rõ cách làm thế nào để tích hợp
trong dạy học (thiếu “kỹ năng chuyên môn về dạy học tích hợp”); vì vậy, cần phải học
những phương pháp tích hợp thiết thực để hành động hợp hoàn cảnh.
- Đưa tư tưởng sư phạm tích hợp vào trong quá trình dạy học là cần thiết. dạy học
tích hợp là một xu hướng của lí luận dạy học và được nhiều nước trên thế giới thực hiện.
2. Một số từ ngữ liên quan
2.1. Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học (năm 2006)
Stt
Chữ
Giải nghĩa
gộp chung (cùng loại nhưng lớn hơn – hai con sông hợp
thành một dòng sông)
động từ
hợp
1)
tập hợp mọi phần tử của các tập hợp khác, trong quan hệ
giữa chúng;
(tr 465) danh từ
tính từ
không mâu thuẫn; đúng với đòi hỏi
kết quả của phép nhân
danh từ
tích
2)
(tr 981)
động từ dồn góp từng ít cho thành số lượng đáng kể
Tích hợp (tr.981): lắp ráp, nối kết các thành phần của một hệ thống theo quan điểm
tạo nên một hệ thống toàn bộ
2.2. Theo Thiều Chửu: Hán Việt tự điển, TP Hồ Chí Minh, 1993.
2.2.1. Tích: có ít nhất 27 chữ (tích) viết khác (khác nghĩa), trong đó có 12 chữ đáng
chú ý:
Stt
3)
Trang
Giải nghĩa
Những gì không do các vị chính đính (ngay thẳng, đứng đắng) báo cho
biết. Ví dụ: quái tích là kiểu văn chương dùng điển tích ít người biết
Xưa, lâu ngày
34
4)
270
274
288
357
361
495
606
661
675
5)
Sáng, rõ
6)
(tách), chẻ. VD: Tích nghi là nói tách bạch mối nghi ngờ
Nhỏ giọt (còn đọc là “trích”
7)
8)
Đất mặn, đất có muối – 1 chữ “tích” khác (đất xấu, hại)
Tích lũy đến thành công (công tích); khảo tích: xét khen thưởng
Xắn tay, cởi áo (sẵn sàng chịu khổ nhọc)
9)
10)
11)
12)
Phải khó nhọc lê chân mới bước được 1 bước ngắn
Vua (duy tích tác phúc: chỉ vua mới tạo được phúc); tam chưng thất
29
DHTH & DHPH ở trường trung học đáp ứng yêu cầu đổi mới CT và SGK sau năm 2015
tích: 3 lần cầu, 7 lần mời; phép; sáng tỏ;
13)
14)
680
715
Dấu vết; theo dấu;
Tặng phẩm từ triều đình; cây trượng của cao tăng nhà Phật
2.2.2. Hợp
Stt
1.
Trang
Giải nghĩa
- Chữ “hợp” trong “đồng tâm hợp lực”.
81
- Góp lại, đúng (hợp pháp = phải phép);
- “hợp” trong “lục hợp”: 6 cõi = 4 phương + bên trên trời + bên dưới
đất;
- phù hợp: dùng tre khắc chữ lên, rồi chẻ đôi, mỗi bên giữ một nữa;
khi có việc liên quan thì mỗi bên lấy nửa thẻ tre của mình để khớp lại,
nếu đúng khớp (phù hợp) thì cùng làm theo;
2.
442
- tế hợp (“hợp” ở đây viết khác với chữ “hợp” nói trên): việc cúng (tế)
chung (hợp) một ông tổ ở miếu thủy tổ.
2.3. Phương Tây
Tích hợp là một trong các quan điểm xác định nội dung dạy học trong nhà trường
phổ thông, xây dựng chương trình môn học ở nhiều nước. Tiếng Latinh: integer là “toàn
bộ, toàn thể”
Tiếng Anh:
- Integration: sự phối hợp các hoạt động khác nhau, các thành phần khác nhau của
một hệ thống để bảo đảm sự hài hòa chức năng và mục tiêu hoạt động của hệ thống ấy
- Integrated: tập hợp, tích cóp, một hoặc nhiều phần tử riêng lẻ vào cùng một diện
tích
- Integrate: (từ điển Anh -Anh (Oxford Advanced Learner’s): kết hợp những phần,
những bộ phận với nhau trong một tổng thể - chúng có thể khác nhau nhưng tích hợp với
nhau.
3. Kết luận
Sẽ đầy đủ hơn nếu bổ sung việc tiếp cận tích hợp từ góc độ từ nguyên, tuy vậy, với ít
nhiều thông tin trên đây có thể rút ra đôi điều suy gẫm:
3.1. Việc du nhập các tư tưởng sư phạm trong xu thế toàn cầu hóa, khi sự kết nối thế
giới phẳng càng rộng sâu, giúp giáo giới Việt Nam tiếp nhận nhiều tư tưởng sư phạm và
tích hợp là một trong số đó.
3.2. Tích hợp là tư tưởng, triết lý, nguyên tắc, quan điểm giáo dục;
3.3. Tích hợp mang những nghĩa ý thâm thúy cổ truyền;
3.4. Từ góc nhìn không gian cho thấy tích hợp cũng là sự kết nối, tương tác mọi
“nguyên liệu” từ thế giới phẳng, từ các địa điểm trong một nước, một tỉnh, huyện, trường,
khu lớp học, dãy phòng học, tầng, …đến các vị trí trong một phòng học để tạo thành “sản
phẩm” phù hợp cho các mục tiêu dạy học và giáo dục.
30