Cải lương - Tâm hồn của người Nam Bộ

CẢI LƯƠNG- TÂM HỒN CỦA NGƯỜI NAM BỘ  
Nhân Nhân - VOV  
Cải lương ra đời là một nguồn sống tinh thần của người dân, để nhân dân  
lao động bày tỏ tâm tư, tình cảm của mình. Chính vì vậy, nó trưởng thành rất  
nhanh. Những năm đầu thập niên 1920, Cải lương còn chập chững những bước  
đầu tiên. Năm 1931, Cải lương đã chính thức được giới thiệu ở ngoài nước với  
danh nghĩa một loại hình nghệ thuật ngang hàng Tuồng, Chèo đã có từ nhiều thế  
kỷ trước…  
Nghệ thuật Cải lương ra đời và phát triển ở Việt Nam chưa lâu, mới chỉ xấp  
xỉ một thế kỷ, nhưng nó đã từng có giai đoạn phát triển cực thịnh. Ra đời trong  
những năm tháng đầu thế kỷ XX, trong hoàn cảnh đất nước đang phải gồng  
mình chịu sự áp bức của thực dân Pháp, cải lương gắn bó mật thiết với đời  
sống, tâm tư, tình cảm của những người nông dân Nam Bộ trước cảnh lầm than,  
phải chịu một cổ hai tròng: thực dân và phong kiến.  
Cải lương nghĩa đen là "đổi mới", sửa đổi cho tốt hơn. Từ xa xưa, về loại  
hình sân khấu, người dân Việt Nam chỉ có nghệ thuật Chèo, Tuồng ở Bắc Bộ và  
Trung Bộ, hát Bội ở Nam Bộ, đến khi loại hình nghệ thuật Cải lương ra đời, với  
sự ảnh hưởng mạnh mẽ của âm nhạc phương Tây, với ý nghĩa là cải tiến các  
điệu hát cũ cho tốt hơn, hay hơn, người ta dùng từ "Cải lương" để gọi loại hình  
nghệ thuật mới này.  
Tiền thân của Cải lương là các bài ca tài tử được hát trong những buổi lễ tư  
gia, tân hôn, thăng quan, giỗ chạp... không bao giờ được hát trên sân khấu hay  
trước đông người. Người có công đưa nghệ thuật này đến với công chúng có thể  
nói là ông Nguyễn Tống Triều (Tư Triều), đứng đầu một ban nhạc tài tử. Vì  
muốn có nhiều khán giả đến xem nên ông đã thương lượng với một ông chủ  
khách sạn ở Mỹ Tho cho nhóm ca tài tử của ông biểu diễn cho khách xem. Buổi  
biểu diễn đầu tiên, năm 1911, được công chúng đón nhận nồng nhiệt và đã "lọt  
mắt xanh" của một ông chủ rạp hát gần đó. Sau đó nhóm ca tài tử của ông Tư  
Triều được mời biểu diễn trên sâu khấu của rạp hát. Thời kỳ đầu này, các buổi  
1
You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (http://www.novapdf.com)  
biểu diễn rất đơn giản, các tài tử mặc những bộ áo dài, khăn xếp, ngồi trên một  
bộ ván xếp trên sân khấu để biểu diễn. Dần dần, cách biểu diễn này phát triển ra  
các địa phương khác, đến với Sài Gòn hoa lệ. Tên Cải lương xuất hiện lần đầu  
tiên vào năm 1920 tại gánh hát Tần Thịnh trên câu liên đối  
"Cải cách hát ca theo tiến bộ  
Lương truyền tuồng tích sánh văn minh"  
Âm nhạc là xương sống của Cải lương. Dàn nhạc trong Cải lương bắt nguồn  
từ dàn nhạc lễ trong cung đình. Từ thời chúa Nguyễn, ở đàng trong, đã có  
những đội quân nhà chúa lên đường vào miền Nam khai hoang lập ấp. Trong  
đội quân này cũng có những đội nhạc theo chân vào miền Nam định cư. Xa  
triều đình, gần với quần chúng nhân dân, âm nhạc không còn phục vụ những  
buổi lễ mà phục vụ đời sống, sinh hoạt của nhân dân nên biên chế thành phần  
của các nhạc cụ cũng thay đổi, bớt đi những nhạc cụ như trống, kèn, chỉ giữ lại  
các "đàn cây" là những đàn giây kéo như hồ, nhị và gẩy như tranh, kìm, sến,  
tam...  
Phong trào "đàn cây" ngày càng phát triển và có chỗ đứng vững vàng trong  
lòng quần chúng nhân dân. Tính chất của nhạc lễ dần thay đổi từ trang nghiêm,  
tâm linh chuyển sang chất đời thường, gắn với tâm tư người lao động. Sự biến  
đổi về chất cũng dẫn đến biến đổi về tên gọi, ban nhạc lễ được thay bằng tên  
ban nhạc tài tử (nghĩa là không chuyên nghiệp).  
Do chơi đàn cây hoà tấu từng nhóm nhỏ hoặc độc tấu nên kthuật ngày càng  
chau truốt và phát triển nhiểu ngón, kỹ xảo tinh tế. Nhiều nhạc cụ được cải cách  
và xuất hiện nhiều nhạc cũ được du nhập từ phương Tây như ghi ta phím lõm.  
Về bài bản, làn điệu cũng có nhiều đổi thay, các bài nhạc lễ như Long ngâm,  
Long đăng... không còn phù hợp với tâm tư quần chúng. Âm nhạc tài tử phát  
triển các bài dân ca Huế và Nam Bộ, cải biến những bản nhạc cổ Trung Bộ như  
Kim tiền Huế, Hành Vân Huế... và sáng tác nhiều bài mới trên cơ sở âm điệu  
dân tộc như Giang Nam, Phụng Hoàng, Tứ Đại, Văn Thiên Tường....  
2
You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (http://www.novapdf.com)  
Khởi đầu, nhạc và lời của âm nhạc tài tử được biểu diễn với hình thức ca ra  
bộ, phục vụ tư gia lúc trà dư tửu hậu, các buổi tiệc tùng, cưới hỏi. Khi lên sân  
khấu Sài Gòn, trước sự du nhập mạnh mẽ của các đoàn kịch hát Trung Quốc,  
tranh ảnh, đĩa hát của phương Tây, vì vậy Cải lương chịu ảnh hưởng nhiều của  
các loại hình âm nhạc nước ngoài: thêm vào các loại trống, kèn, phương pháp  
diễn tấu mang tính sân khấu, xuất phát từ nội dung chủ đề của kịch bản.  
Những vở cải lương đầu tiên lấy tích từ thơ ca dân gian như Lục Vân Tiên,  
KimVân Kiều, Trưng Trắc Trưng Nhị, hoặc phóng tác theo các vở hát bội như  
Mộc Quế Anh, Phụng Nghi Đình... Rồi dần dần các vở cải lương được sáng tác  
có tính chất tâm lý xã hội, dựa vào những câu chuyện đời thường như Tô Ánh  
Nguyệt, Đời cô Lựu...  
Từ nhạc cổ và nhạc lễ chuyển thành nhạc tài tử, từ nhạc tài tử tiến lên hình  
thức ca ra bộ rồi chuyển thành loại hình nghệ thuật sân khấu, có kịch bản văn  
học, diễn viên, nhạc công, thiết kế mỹ thuật, quá trình hình thành sân khấu cải  
lương là quá trình kế thừa và phát triển truyền thống âm nhạc dân tộc và tiếp thu  
văn hoá nước ngoài.  
Có thể nói, sân khấu Cải lương là sản phẩm tất yếu của hoàn cảnh xã hội Việt  
Nam, hay nói đúng hơn là xã hội Nam bộ lúc bấy giờ. Người dân phải sống  
dưới ách áp bức một cổ hai tròng của thực dân và phong kiến. Cải lương ra đời  
là một nguồn sống tinh thần của người dân, để nhân dân lao động bày tỏ tâm tư,  
tình cảm của mình. Chính vì vậy, nó trưởng thành rất nhanh. Những năm đầu  
thập niên 1920, Cải lương còn chập chững những bước đầu tiên. Năm 1931, Cải  
lương đã chính thức được giới thiệu ở ngoài nước với danh nghĩa một loại hình  
nghệ thuật ngang hàng tuồng, chèo đã có từ nhiều thế kỷ trước. Cải lương thu  
hút được đông đảo khán giả và hát Bội dần phải chịu phần thua kém. Thế rồi từ  
Nam Bộ, nó Bắc tiến và đã có thời gian tuồng, chèo phải nhường bước. Trong  
hơn nửa thế kỷ, sân khấu cải lương vượt xa các loại hình sân khác khác về thế  
mạnh, có thời nó chiếm ngôi vị độc tôn, thu hút khán giả nhiều hơn các loại  
hình sân khấu khác, chỉ kém có điện ảnh.  
3
You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (http://www.novapdf.com)  
Tuy nhiên, trong những năm cuối thế kỷ 20, nghệ thuật cải lương có chiều đi  
xuống, đây cũng là một thực trạng của nhiều loại hình nghệ thuật sân khấu dân  
tộc khác. Điều này đòi hỏi sự đầu tư của nhà nước cũng như những người làm  
nghề để giữ gìn sức sống cho một loại hình nghệ thuật dân tộc. Đầu năm nay,  
những buổi biểu diễn của các nhà hát thành phố Chí Minh, phục dựng những vở  
cải lương nổi tiếng đã thu hút đông đảo khán giả yêu cải lương. Đây là một dấu  
hiệu đáng mừng cho sự phục hồi của một loại hình nghệ thuật đã có thời chiếm  
ngôi vị độc tôn trong lòng khán giả yêu nghệ thuật Nam Bộ nói riêng và khán  
giả Việt Nam nói chung.  
Nguồn: CailuongVietnam.com  
4
You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (http://www.novapdf.com)  
pdf 4 trang baolam 09/05/2022 3680
Bạn đang xem tài liệu "Cải lương - Tâm hồn của người Nam Bộ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfcai_luong_tam_hon_cua_nguoi_nam_bo.pdf