Nhạc sĩ Cao Văn Lầu và bài Dạ cổ hoài lang
Hò a thượng Minh Bảo (? - 1912), trụ trì chùa
Vĩnh Phước An thấy gia đì nh ô ng Chí n Giỏi vất
vả quá mà khô ng đủ ăn, nên bàn với ô ng cho
Cao Văn Lầu, lúc đó mới 8 tuổi, vào ở chùa để
bớt đi một phần gá nh nặng. Kể từ đó Cao Văn
Lầu, ngày tụng kinh và làm việc cho chùa, đêm
được nhà sư dạy chữ nho.
Nhạc sĩ Cao Văn Lầu
và bài Dạ cổ hoài lang
Bùi Thụy Đào Nguyên
Năm 1903, ô ng Chí n Giỏi đến xin sư trụ trì cho
Cao Văn Lầu trở về nhà để học chữ quốc ngữ.
Nhưng học đến "lớp nhì năm thứ hai" (Cours
moyen 2e anné e) tức lớp 4 ngày nay, thì ô ng
phải thô i học vì nhà gặp thêm cảnh khó : anh đi
ở rể, chị lấy chồng, cha già yếu...
Cao Văn Lầu (Sá u Lầu) là nhạc sĩ và là tá c giả
bài Dạ cổ hoài lang, một bài ca độc đá o và nổi
tiếng nhất trong nghệ thuật ca Cải lương Việt
Nam.
Vậy là, năm 15 tuổi (1907), Cao Văn Lầu phải
thay cha và anh chị đi làm những việc nặng
nhọc để nuô i gia đì nh.
Phần I - Nhạc sĩ Cao Văn Lầu
Cao Văn Lầu sinh ngày 22 thá ng 12 năm 1892
tại xó m Cá i Cui, làng Chí Mỹ, sau sá t nhập với
làng Thuận Lễ trở thành xã Thuận Mỹ, huyện
Vàm Cỏ, tỉnh Long An.
Lúc bấy giờ tại xó m Rạch Ô ng Bổn có một thầy
đàn nổi tiếng tên Lê Tài Khí , tục gọi Hai Khị hay
Nhạc Khị. Ô ng thầy này bị mù cả hai mắt thêm
có tật ở châ n (1) nhưng ngó n đàn của ô ng thật
điêu luyện.
Cuộc đời ô ng đã trải qua những biến đổi sau:
Vào một đêm tối trời vào năm 1896, có 20 gia
đì nh nô ng dâ n ở xó m Cá i Cui, vì khô ng chịu nổi
cảnh nghè o và cảnh hà khắc của cá c thế lực ở
địa phương nên đã xuống ghe xuồng, chè o
chống về phí a Nam để tì m nơi sinh sống. Trong
số này có gia đì nh Cao Văn Giỏi (Chí n Giỏi),
gồm hai vợ chồng ô ng và sá u đứa con, trong
số đó có chú bé Cao Văn Lầu.
Năm 1908, Cao Văn Lầu nhờ cha dẫn đến thầy
Hai Khị để xin học đàn mỗi đêm.
Nhờ yêu thí ch và siêng năng, ô ng mau chó ng
sử dụng thành thạo cá c loại nhạc cụ như đàn
tranh, cò , kì m, trống lễ; và trở thành một nhạc
sĩ nồng cốt trong ban cổ nhạc của thầy.
Năm 1912, ô ng bắt đầu đi há t với Sá u Thì n và
cô Phấn với bài Tứ đại oá n "Bùi Kiệm thi rớt".
Buổi đầu, ô ng Chí n Giỏi xin tá túc với một
người bà con ở Gia Hội (Bạc Liêu). Sau 9 thá ng
đi làm mướn cật lực mà khô ng đủ ăn, gia đì nh
ô ng lại phải lui ghe dời sang Xà Phiên (nay
thuộc Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang) để khai hoang
làm ruộng. Hơn một năm sau, hơn 40 cô ng đất
do biết bao khó nhọc mới có được, bị địa chủ
tì m cá ch chiếm lấy. Nhờ một người quen giới
thiệu, gia đì nh ô ng Chí n Giỏi dọn về Họng
Chàng Bè (Giá Rai, Bạc Liêu) để tiếp tục khai
khẩn đất hoang, nhưng rồi số đất ở đâ y về sau
cũng về tay kẻ khá c.
Năm 21 tuổi (1913), Cao Văn Lầu vâ ng lệnh
cha mẹ đi cưới vợ, đó là cô Trần Thị Tấn, một
cô gá i nết na ở điền Tư Ô (Chung Bá Khá nh).
Khoảng thời gian này, ô ng sá ng tá c được một
bản ngắn mang tên ''Bá điểu'' sau đổi lại ''Thu
phong'' gồm tá m câ u nhịp bốn. Bản này sau đó
được soạn giả Trịnh Thiên Tư đặt lời ca Mừng
khi gặp bạn và đã ghi lại trong sá ch ''Ca nhạc
cổ điển''.
Năm 1917, ô ng sá ng tá c thêm một khúc gồm
22 câ u, theo một chủ đề của thầy Nhạc Khị đề
xướng là "Chinh phụ vọng chinh phu" (chủ đề
được rút ra từ bản Nam ai "Tô Huệ chức cẩm
hồi văn") nhưng chưa kịp sửa chữa và trì nh
thầy thì gặp nghịch cảnh đau lò ng. Vợ ô ng đã
ba năm mà vẫn chưa có dấu hiệu thai nghé n,
Lâ m cảnh trắng tay, nhưng thời may có một
người tốt bụng là hương sư Chơn ở làng Vĩnh
Lợi tổng Thạnh Hò a cho cất một căn chò i lá ở
trên đất cô ng điền gần chùa Vĩnh Phước An
(nay thuộc phường hai, thị xã Bạc Liêu). Ở đó ,
vợ chồng ô ng và cá c con phải đi làm thuê, đi
câ u để chạy ăn từng bữa.
1
theo tục xưa, cha mẹ buộc ô ng phải trả vợ về
nhà cha mẹ ruột.
Từ 1918 đến năm 1974, ngoài bản ''Dạ cổ hoài
lang'', mà sau này phá t triển thành bản "vọng
cổ", làm thay đổi một phần bộ mặt Cải lương;
ô ng Cao Văn Lầu cò n sá ng tá c thêm 10 bản
nữa, nhưng đa phần chỉ lưu hành ở Bạc Liêu.
Khoảng một năm trô i qua, kể từ ngày vợ ra đi,
Sá u Lầu vẫn như kẻ mất hồn. Sau, vì quá nhớ
thương, vợ chồng ô ng thi thoảng vẫn lé n lút
gặp nhau. Nhờ vậy, cả hai cũng vơi đi phần
nào nỗi buồn tủi (í t lâ u sau vợ ô ng thụ thai, hai
người mới được phé p xum họp). Trong tâ m
trạng đó , bản nhạc 22 câ u viết dở dang từ năm
trước, được đem ra soạn lại. Được một bạn
đồng mô n tên Ba Chột, ô ng bỏ bớt 2 câ u trùng
lắp, bài nhạc cò n chẵn 20 câ u nhịp đô i.
Ô ng mất lúc 13 giờ ngày 13 thá ng 8 năm 1976
tại Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 84 tuổi.
Chú thí ch:
(1) Ché p theo Trần Đức Thuận. Vương Hồng
Sển nó i ô ng có tật ở tay. Và ô ng cũng cho biết:
''Nếu phải kể cô ng đầu, đá ng làm hậu tổ cải
lương, đó là ô ng Hai Khị ở Bạc Liêu. Nghe đâ u
ô ng sống lối năm 1915 ... Ô ng đau cổ xạ, ngó n
tay co rút và ngo ngoe rất khó . Thế mà ô ng có
tài riêng, khô ng ai bắt chước được. Ai muốn
thử tài cứ đến nhà, ban đầu ô ng giở mùng cho
xem, chỉ trống, kè n, chụp chõ a trơ trơ ở trong
ấy. Thế rồi khá ch ra ngồi salon, ô ng Khị chun
vô mùng, một "mì nh ên", rồi bỗng nghe trọn bộ
cổ nhạc khua động có tiết tấu nhịp nhàng y như
có cả bốn năm người hò a tấu: trống xổ, kè n
thổi, đờn ké o ò e, chụp chõ a lùng tùng
xò a...Khô ng ai biết ô ng làm cá ch nào mà được
vậy, quả là diệu thuật.''(sá ch ghi ở mục tài liệu,
tr. 46)
Tết Trung thu năm 1918 (15 thá ng 8 â m lịch
năm Mậu Ngọ, nhằm ngày 19 thá ng 9 năm
1918. Ghi theo ''Bàn về thời điểm ra đời và
nguồn gốc của bản Dạ cổ hoài lang'' và ''Từ
điển nhâ n vật lịch sử'', sẽ nó i thêm ở phần Dạ
cổ hoài lang), ô ng cùng cá c bạn đến thăm thầy,
luô n tiện trì nh bày bản nhạc chưa có tên trên.
Nghe xong, thầy Nhạc Khị hết sức khen ngợi:
-"Tưởng đâ u hoàn cảnh gia đì nh của con đã
làm dở dang việc sá ng tá c, ai ngờ lại đạt được
thành quả lớn lao thế này, quả là con khô ng
phụ cô ng dạy dỗ...''
Đêm đó có nhà sư Nguyệt Chiếu cùng tham
dự, thầy Nhạc Khị liền nhờ nhà sư đặt tên cho
bản nhạc. Nhà sư nó i:
(2) Tô Huệ tự '''Nhược Lan''', người đất Thần
Châ u đời nhà Tấn (265-419). Nàng dung nhan
kiều mị, tài đức song toàn, văn chương xuất
chúng. Khi Tô được 20 tuổi cha mẹ đí nh gả cho
hàn sĩ Đậu Thao, người cùng quê.
'-...Bản nhạc và lời ca của chá u Lầu tuy cũng
cò n vài điểm bất nhất, nhưng cá i chung vẫn
diễn tả được tâ m tư của nàng Tô Huệ (2). Vậy
cứ theo tí ch này mà đặt tên chung cho cả bản
nhạc và lời ca của chá u là '''Dạ cổ hoài lang'''
(Nghe tiếng trống đêm nhớ chồng).''
Sau Đậu Thao đỗ đạt làm quan, may mắn được
nhậm chức tại Thần Châ u, khô ng phải đi xa.
Đang yên ấm, nhưng rồi vì cô ng vụ cần thiết,
nhà vua truyền Đậu Thao ra trấn nhậm đất Lưu
Sa.
Lập tức, bài ca được nhanh chó ng loan truyền
bởi giai điệu bài ca toá t ra khô ng chỉ là tì nh cảm
nhớ mong chồng mà cò n là nỗi buồn lớn của
thời đại, tâ m tư của người dâ n Nam Bộ khi
phong trào Cần vương thất bại.
Ba năm xa cá ch với nỗi thương nhớ triền miên,
nàng lấy gấm vuô ng độ chừng một thước, dùng
chỉ ngũ sắc thêu 10 bài tứ tuyệt do mì nh làm.
Năm 1919, làm nhạc cô ng trong gá nh há t cải
lương của Ba Xú (Bạc Liêu).
Nàng thêu theo hì nh trô n ốc, từ ngoài xoá y trò n
vào trung tâ m bức gấm.
Cá ch mạng thá ng Tá m thành cô ng, ô ng tham
gia ''Mặt trận Liên Việt'' ở ấp Vĩnh Phước, xã
Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.
Xong nàng tự tay dâ ng lên nhà vua, nhưng cả
triều đì nh khô ng ai đọc được.
Được vua cho phé p, nàng Tô Huệ đứng giữa
triều cất tiếng ngâ m với một giọng bi thiết bài
''Chức cẩm hồi văn''.
Năm 1947, ô ng nhận nhiệm vụ đặc biệt là cứu
và đã cứu được một số cá n bộ bị thực dâ n
Phá p bắt.
2
Nhà vua quá cảm động, vội hạ chiếu cho gọi
Đậu Thao về ngay.
đàn nắn nó t đô i câ u bớt cơn phiền muộn. Ô ng
thừa hiểu người bạn đời cũng đau xó t như ô ng.
Bản ''Dạ cổ hoài lang'' ra đời trong bối cảnh
như thế.
Tài liệu tham khảo:
-Vương Hồng Sển, ''Hồi ký năm mươi năm mê
há t'', Nxb Trẻ, 2007.
Trong thời gian tá c phẩm chưa hoàn chỉnh,
nhạc sĩ Sá u Lầu cùng anh em tài tử địa
phương đàn tới đàn lui bản này...và được anh
em đề nghị thêm hai chữ "dạ cổ" (tiếng trống về
đêm) cho ý nghĩa thêm sâ u đậm, vì thế bản
nhạc có tên hoàn chỉnh là "Dạ cổ hoài lang",
tức "Đêm nghe tiếng trống nhớ chồng"...
-Trần Đức Thuận,'' Cuộc đời Cao Văn Lầu và
nguyên nhâ n ra đời bản Dạ cổ hoài lang'', in
trong ''Nam Bộ - Đất & Người tập 2'', Nxb Trẻ,
2004, tr.269-265.
-Trần Phước Thuận, ''Bàn về thời điểm ra đời
và nguồn gốc của Bản Dạ cổ hoài lang'' in trong
''Nam Bộ - Đất & Người tập 2'', Nxb Trẻ, 2004,
tr.266-271.
Tá c giả Trung Tí n trong một bài viết (2) cho biết
thêm hai lời kể nữa:
Lời kể của nhạc sĩ Hai Ngưu (năm 1978, ô ng
Sá u Lầu có lên Sài Gò n, trú tại nhà ô ng Hai
Ngưu):
-Nguyễn Q. Thắng & Nguyễn Bá Thế, ''Từ điển
nhâ n vật lịch sử'', Nxb KHXH, 1992, tr. 74-75.
"Trong một đêm ô ng Sá u Lầu trực gá c tại Nhà
đè n Bạc Liêu vào năm 1920, do đau khổ trong
hoàn cảnh nợ duyên ngang trá i, ô ng xúc cảm
viết thành bản nhạc lò ng Dạ cổ hoài lang (Đêm
khuya nghe tiếng trống nhớ chồng). Sau khi
bản Dạ cổ hoài lang ra đời... í t lâ u sau (nhờ vợ
ô ng có thai) hai vợ chồng ô ng được tá i hợp, để
rồi sau đó hai ô ng bà đã có với nhau 6 người
con ..."
Phần II - Dạ cổ hoài lang
Giải thí ch tên gọi: "Hoài'' là nhớ, ''lang'' là người
trai (ở đâ y là người chồng), ''hoài lang'' là nhớ
chàng, ''dạ'' là đêm, ''cổ'' là trống, ''dạ cổ'' là
''nghe tiếng trống về đêm'' (? cổ, nghĩa là trống
hoặc đá nh trống). Đâ y là một bản nhạc cổ do
nhạc sĩ Cao Văn Lầu (1892-1976) sá ng tá c, nó i
về tâ m sự người vợ nhớ chồng lúc về đêm.
Và lời kể của nhà giá o Trịnh Thiên Tư với ô ng
Chí n Tâ m (nguyên giảng viên trường Quốc gia
â m nhạc và kịch nghệ Sài Gò n):
Từ bản ''Dạ cổ hoài lang'' mỗi câ u 2 nhịp, cá c
nghệ sĩ sau này chuyển lên 4 nhịp rồi 8 nhịp,
mà thành bài vọng cổ đầu tiên...
"Năm ô ng Sá u Lầu 28 tuổi (1820), ô ng được
lệnh mẹ phải thô i vợ vì lý do "tam niên vô tự bất
thành thê". Ô ng Sá u Lầu đau khổ nhưng khô ng
dá m cã i lời mẹ dạy. Chiều chiều ô ng ô m câ y
2. 1. Nguyên nhâ n ra đời
Theo một bài viết trên bá o Thanh Niên (1),
khô ng đề tên tá c giả, thì :
đàn kì m ra sau vườn làm bạn tâ m tì nh�
Ô ng Cao Văn Lầu (1892-1976) đã thổ lộ với
bạn thâ n:
Bài này lúc đầu có 22 câ u và ô ng đặt tên là
Hoài lang. Danh ca Bảy Kiên nhận thấy có vài
câ u trùng ý, đề nghị rút lại cò n 20 câ u. Đồng
thời ô ng Kiên cò n thêm vào hai chữ "dạ cổ",
thành ra "Dạ cổ hoài lang". Về lời ca, nhạc sĩ
Sá u Lầu phó ng tá c theo bài thơ "Chinh phụ
thá n" của nhạc sư Nguyệt Chiếu - trụ trì chùa
Phật Hò a Bì nh ở Bạc Liêu. Bài thơ mang â m
hưởng tí ch "Tô Huệ Chức Cẩm Hồi Văn" đời
nhà Tần bên Tàu.''
"Tô i đặt bài này bởi tô i rất thương vợ. Năm viết
bản ''Dạ cổ hoài lang'', tô i đã ăn ở với vợ tô i
được 3 năm mà khô ng có con...Tiếng ra, tiếng
vào của gia đì nh buộc tô i phải thô i vợ, nhưng
tô i khô ng đành. Tô i â m thầm chống lại nghiêm
lệnh của gia đì nh, khô ng đem vợ trả về cho cha
mẹ mà đem gởi đến một gia đì nh có tấm lò ng
nhâ n hậu..."
Tá c giả bài bá o kể tiếp:
Nhưng theo lời kể của ô ng Trần Tấn Hưng
(Năm Nhỏ) và những người đồng mô n với ô ng
Trong thời gian dài, phu thê phải cam chịu cảnh
"đêm đô ng gối chiếc cô phò ng", nên nhạc sĩ
Cao Văn Lầu (Sá u Lầu) đêm đêm mượn tiếng
3
Cao Văn Lầu, thì Sá u Lầu đã soạn được phần
nhạc trước khi xa vợ.
2.2 Thời điểm ra đời
Thời điểm ''Dạ cổ hoài lang'' ra đời, ngoài
những chi tiết khá khá c nhau trong lời kể ở
phần trên, cò n có nhiều ý kiến chưa tương
đồng nữa, kể cả ô ng Cao Kiến Thiết và Cao
Văn Bỉnh, là hai người con của cố nhạc sĩ Cao
Văn Lầu cũng chưa xá c định được thời điểm, vì
có lúc hai ô ng nó i năm 1919 là năm ra đời bản
Dạ cổ, có lúc hai ô ng lại nó i năm 1919 là năm
đổi tên Dạ cổ thành Vọng cổ. (3)
Ô ng Hưng kể:
Ô ng Cao Văn Lầu cùng cá c bạn học đồng thời
đã được thầy là nhạc sư Lê Tài Khí (Nhạc Khị)
hướng dẫn sá ng tá c theo một chủ đề là "Chinh
phụ vọng chinh phu", được rút ra từ bản Nam ai
Tô Huệ chức cẩm hồi văn. Lúc đó có nhiều
người sá ng tá c, riêng ô ng Cao Văn Lầu trong
năm Đinh Tỵ (1917) đã sá ng tá c một bản nhạc
22 câ u, nhưng gặp phải hoàn cảnh vợ chồng ly
Và theo cá c nhà nghiên cứu khá c, thì :
tá n�Vì quá đau buồn nên ô ng khô ng thể tiếp
-Ô ng Thành Châ u (bá o Văn học nghệ thuật,
thá ng 8 năm 1977), nhà thơ kiêm soạn giả cải
lương Kiên Giang (Bá o Long An, ngày 18 thá ng
7 năm 1986), đồng cho rằng bài Dạ cổ hoài
lang ra đời 1917.
tục đặt lời ca, mã i đến năm sau vợ chồng hàn
gắn (theo ô ng Trần Đức Thuận: vì quá nhớ
thương, vợ chồng ô ng thi thoảng vẫn lé n lút gặp
nhau, chứ hai người chưa chí nh thức xum họp.
Xem lại phần Cao Văn Lầu) lại ô ng mới có đủ
tinh thần chỉnh lý bản nhạc. Ô ng đã theo lời
khuyên của bạn đồng mô n là Ba Chột (tá c giả
bản Liêu Giang, tá c phẩm được sá ng tá c cùng
thời và cùng một chủ đề vừa nêu trên) bỏ bớt 2
câ u trùng lắp cò n lại 20 câ u và tiếp tục đặt lời
ca..."
-Nhạc sĩ Trọng Nguyễn (Kỷ yếu Từ Dạ cổ hoài
lang, tr.40) Nghệ sĩ nhâ n dâ n Ba Vâ n tức Lê
Long Vâ n (Kể chuyện cải lương, 1988, tr. 67),
nhà nghiên cứu Đắc Nhẫn (Tì m hiểu â m nhạc
cải lương, Nxb TP. HCM, 1987, tr. 41), hai nhà
sử học Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế
(Từ điển nhâ n vật lịch sử Việt Nam, Nxb KHXH,
1992) khô ng cho biết năm khởi thảo, nhưng
đều nó i bài Dạ cổ hoài lang ra đời năm 1818.
Và cũng theo ô ng Hưng, cá i tên Dạ cổ hoài
lang là của một nhà sư đặt cho bản nhạc:
-Nhạc sĩ Trương Bỉnh Tò ng (Kỷ yếu Từ Dạ cổ
hoài lang, Nxb Mũi Cà Mau, 1992, tr. 50), Lâ m
Tường Vâ n (Đặc san Quí Dậu 1993, Hội Á i hữu
Bạc Liêu Nam Cali, tr. 28), Nguyễn Tư Quang
(Tạp chí Bá ch Khoa số 63'', Sài Gò n, 1959) thì
năm sinh của bài Dạ cổ hoài lang là năm 1919.
"Bản nhạc và lời ca đã sá ng tá c xong nhưng
chưa có tên. Lại vừa đến rằm Trung thu (Mậu
Ngọ 1918) ô ng Lầu cùng cá c bạn đến thăm
thầy luô n tiện đem bản nhạc ra trì nh. Ô ng Lầu
đã dùng chiếc đàn tranh vừa độc tấu một lần và
vừa đàn vừa ca thêm một lần nữa. Lúc đó ,
ngoài cá c thầy trò cò n có mặt nhà sư Nguyệt
Chiếu (một người rất tinh thâ m Há n học và
nhạc cổ truyền), chí nh thầy Nhạc Khị đã nhờ
nhà sư đặt tên cho bản nhạc vừa tấu và nhà sư
đã đặt tên là Dạ cổ hoài lang. Vậy, bản Dạ cổ
hoài lang 20 câ u nhịp đô i đã chí nh thức ra đời
kể từ đêm đó .''
*Nhà nghiên cứu Toan Á nh nó i "vào khoảng
năm 1920" (Tì m hiểu nghệ thuật cầm ca, Nxb
Đồng Thá p, 1998, tr. 207-208)
-Ô ng Anh Đệ (Nghệ thuật sâ n khấu, Viện sâ n
khấu, 1987, tr. 59) cho rằng năm sinh của bài
Dạ cổ hoài lang là 1915.
Tuy nhiên, ý kiến cho rằng bài ''Dạ cổ hoài
lang'' ra đời ngày 15 thá ng 8 (â m lịch) năm Mậu
Ngọ (nhằm ngày 19 thá ng 9 năm 1918) được
đa số nghệ sĩ Bạc Liêu (4) và nhiều người đồng
thuận hơn.
Trần Đức Thuận ở Hội Khoa học lịch sử Bạc
Liêu, trong một bài viết (sá ch ghi bên dưới) đã
kết luận:
"Bản Dạ cổ hoài lang về nguyên nhâ n sá ng tá c
tuy có dí nh lí u một phần nào với hoàn cảnh
chia ly của vợ chồng Cao Văn Lầu, nhưng
nguyên nhâ n chí nh vẫn là nhờ sự hướng dẫn
sá ng tá c của thầy Nhạc Khị với một tiêu đề định
2.3 Nghi vấn
Ô ng Nguyễn Tư Quang, tá c giả bài bá o ''Thử
tì m xuất xứ bài Vọng cổ'' cho biết:
sẵn�"
4
''...Thoá t thai của bản nhạc vốn là bài thơ có
dạng như là một bài phú 20 câ u lấy nhan đề là
''Dạ cổ hoài lang''. Bài này do một nhà sư có
phá p danh Nguyệt Chiếu, khô ng rõ họ tên thật,
tu trong một ngô i chùa ở làng Hò a Bì nh, tỉnh
Bạc Liêu. Bài Dạ cổ ra đời năm 1919...''(tạp chí
Bá ch Khoa số 63, 1959, tr. 65)
nhà sư Nguyệt Chiếu để sá ng tá c ra bản Dạ cổ
hoài lang năm 1919" là hoàn toàn khô ng có căn
cứ."
2. 4 Lời bài ca
Từ là từ phu tướng,
Bảo kiếm sắc phong lên đàng.
Vào ra luống trô ng tin chàng.
Năm canh mơ màng.
Ý kiến này được nhà nghiên cứu Toan Á nh
đồng thuận, ô ng viết:
Em luống trô ng tin chàng,
Ô i gan vàng quặn đau.
"Ở chùa Hò a Bì nh tỉnh Bạc Liêu, có một nhà sư
phá p danh là Nguyệt Chiếu. Thấy nhà sư nho
học uyên thâ m với tư tưởng ẩn dật, người ta
đoá n chừng là một văn nhâ n chống Phá p trong
thời Cần Vương, nay thất thời nên tạm lá nh
mì nh vào cửa Phật...Tuy đã đi tu nhưng vẫn
Đường dù xa ong bướm,
Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang.
Đêm luống trô ng tin chàng,
Ngày mỏi mò n như đá Vọng phu.
Vọng phu vọng luống trô ng tin chàng.
Sao nỡ phũ phàng...
mang nặng tì nh non nước�nên nhà sư mới
Chàng là chàng có hay?
Đêm thiếp nằm luống những sầu tâ y.
Bao thuở đó đâ y sum vầy,
Duyên sắc cầm lạt phai.
Là nguyện cho chàng
đem tâ m sự mì nh ký gủi vào bài từ, đề là Dạ cổ
hoài lang. Và bài thơ này được ô ng Sá u Lầu
phổ ra nhạc...'' (Toan Á nh, Tì m hiểu nghệ thuật
cầm ca, NXB Đồng Thá p, 1998, tr. 207-208.)
Năm 1989, tại cuộc hội thảo ở Bạc Liêu, nhạc
sĩ Trương Bỉnh Tò ng cũng đã phá t biểu:
Hai chữ an bì nh an.
Mau trở lại gia đàng,
Cho é n nhạn hiệp đô i.
"Vào những năm 1950-1952, nhó m sưu tầm
nghiên cứu dâ n ca và cổ nhạc Nam Bộ gồm
nhạc sĩ Quá ch Vũ, Ngọc Cung và ô ng. Rất tiếc
là lúc ấy ô ng Cao Văn Lầu đang bệnh khô ng ra
được vùng giải phó ng. Nhưng cũng may là
nhó m tài tử ở Long Điền có người biết rành cho
hay ô ng Sá u đã dựa vào bài thơ của nhà sư
Nguyệt Chiếu mà phổ nhạc. Nhạc của nó là sự
kết hợp giữa hai bài Hành Vâ n và Xuâ n nữ.(Từ
Dạ cổ hoài lang, Nxb Mũi Cà Mau, 1992, tr.52-
53.)
Ô ng Trần Đức Thuận nhận xé t:
"Bản Dạ cổ hoài lang khô ng dừng lại ở nguyên
dạng như cá c bản nhạc cổ khá c mà dần dần
biến đổi hì nh thức, phá t triển thành bản Vọng
cổ làm thay đổi một phần lớn bộ mặt Cải lương.
Đâ y cũng là điều tối ưu của nó , có lẽ là do tiếng
nhạc du dương và lời ca bì nh dị rất hợp với
người Nam Bộ; hì nh ảnh người chinh phụ ở
đâ y đã hò a nhập thực sự vào cuộc đời thường,
phản ảnh đúng tâ m trạng yếu đuối của người
phụ nữ khi xa chồng, nhất là trong những hoàn
cảnh bắt buộc phải chia duyên rẽ thúy. Có lẽ
chí nh cá i "tí nh thường" này đã làm rung cảm
người nghe..."
Nhưng qua tì m hiểu của ô ng Trần Phước
Thuận ở Hội khoa học lịch sử Bạc Liêu (sá ch
ghi bên dưới), thì :
"Ở Bạc Liêu chỉ có một nhà sư phá p danh là
Đạt Bảo tự Nguyệt Chiếu (1882-1947), trước ở
chùa Vĩnh Phước An sau dời về chùa Vĩnh
Đức, hiện mồ mả của nhà sư nằm ở sau chùa
Vĩnh Đức. Khô ng có chùa nào mang tên Hò a
Bì nh như cá c tài liệu trên đã ghi. Ô ng vốn là
tiền bối về nhạc lễ cổ truyền nhưng ô ng chưa
bao giờ làm thơ. Cá c đệ tử của ô ng hiện cò n
sống đều xá c nhận như vậy và chẳng ai nghe
thầy nó i gì về bài thơ trên. Như vậy, cá i thuyết
cho rằng "ô ng sá u Lầu đã dựa vào bài thơ của
2.5 Thô ng tin thêm
- Bài này được đưa lên sâ n khấu lần đầu bởi
gá nh há t Năm Tú ở Mỹ Tho, rồi sau đó được
sử dụng rộng rã i, nhất là trong tuồng cải lương.
Và cũng vì thế, bản ''Dạ cổ hoài lang'' được
chuyển dần thành nhiều nhịp. Năm 1924, tăng
lên nhịp bốn. Từ khoảng 1934 đến 1944, tăng
lên nhịp tá m. Từ khoảng 1944 đến 1954, ''Vọng
cổ'' tăng lên nhịp 16. Từ 1955 đến 1964, tăng
lên nhịp 32 rồi nhịp 64 từ năm 1965 đến nay.
5
-Nhạc sĩ Cao Văn Lầu là cha đẻ ''Dạ cổ hoài
lang'' khởi điểm từ nhịp hai. Bản ''Vọng cổ'' từ
nhịp bốn trở đi, trên những chặng đường phá t
triển, thuộc cô ng trì nh chung của tài tử bốn
phương. Và ô ng tổ cải lương khô ng phải là Cao
Văn Lầu, vì bản ''Dạ cổ hoài lang'' chào đời
năm 1918, trong khi sâ n khấu cải lương ra đời
khoảng năm 1916.
(4) Ở Bạc Liêu từ nhiều năm nay, đang lưu
hành trong giới đàn ca tài tử một bài Văn Thiên
Trường (đủ ba lớp) nhan đề là "Cuộc đời Cao
Văn Lầu", trong đó câ u 7 và câ u 8 như sau:
''Bản Dạ cổ hoài lang thương nhớ mơ màng,
gan vàng khắc sâ u. Chẳng bao lâ u trong tim
người nhụy nở hoa khai, bực sắc tài nào dễ
mấy ai, năm một ngàn chí n trăm mười tá m
chí nh thức ra đời...''
Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu
Long Xuyên, thá ng 10 năm 2008.
Tài liệu tham khảo:
Ngoài những trang web và tài liệu đã dẫn trong
bài, người soạn cò n tham khảo thêm:
Chú thí ch:
(1) Bài Cao Văn Lầu có phải ô ng tổ ngành Cải
lương? (bá o Thanh Niên) tại địa chỉ:
phai-ong-to-nganh-cai-luong/10869813/107/
-Trần Phước Thuận, ''Bàn về thời điểm ra đời
và nguồn gốc của bản Dạ cổ hoài lang'', in
trong Nam Bộ - Đất và Người tập 2, Nxb trẻ,
2004, tr 266-271.
(2) Bài Bản Dạ cổ hoài lang (nhịp 2) đã ra đời
như thế nào ? của Trung Tí n tại địa chỉ:
-Trần Đức Thuận, ''Cuộc đời Cao Văn Lầu và
nguyên nhâ n ra đời bản Dạ cổ hoài lang'', in
trong ''Nam Bộ - Đất và Người'', tập 2, NXB Trẻ,
2004, tr.259-265.
etail-lichsu.tpl/
(3) Năm 1919 là năm đổi tên Dạ cổ thành Vọng
cổ. YÙ kiến này được nhà thơ kiêm soạn giả
cải lương Kiên Giang đồng thuận (Bá o Long
An'', ngày 18 thá ng 7 năm 1986). Tuy nhiên,
theo bài viết trên bá o Thanh Niên (dẫn bên
trên), thì : ''Trên những chặng đường phá t triển,
khi Vọng cổ hoài lang được nâ ng lên nhịp 8 (từ
khoảng năm 1934 đến 1944) thì nó có tên mới
là Vọng cổ, khô ng cò n đuô i hoài lang''.
Nguồn: Chim Việt Cành Nam
6
Bạn đang xem tài liệu "Nhạc sĩ Cao Văn Lầu và bài Dạ cổ hoài lang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- nhac_si_cao_van_lau_va_bai_da_co_hoai_lang.pdf