Đờn ca tài tử - Nhạc giải trí của người dân phương Nam
Sꢀ 2 (47) - 2014 - Di sꢁn vꢂn hoŸ phi vꢃt thꢄ
47
ĐỜN CA TÀI TỬ - NHẠC GIẢI TRÍ CỦA
NGƯỜI DÂN PHƯƠNG NAM
ꢀꢁNG HOÀNH LOAN
ầu hết các loại hình âm nhạc cổ truyền chơi ngoài bờ kênh, chơi trên thuyền, chơi trong
người Việt còn tồn tại cho tới ngày hôm nay bữa nhậu khi bạn bè hay bà con lối xóm có tiệc mời
Hđều được sinh ra và được trình diễn trong
nhau đến chung vui, chơi trên sân khấu để khán
những không gian và thời gian sinh hoạt văn hóa giả thưởng thức. Mục đích của tất cả các cuộc chơi
nhất định. Ngoài những không gian và thời gian là thưởng thức tài năng tấu nhạc, thưởng thức
sinh hoạt văn hóa ấy, tất thảy chúng đều “bất giọng ca mùi mẫn, thưởng thức nội dung, ý nghĩa
động”. Nguyên nhân chủ yếu là sự lệ thuộc vào của ca từ. Khi chơi đờn ca là những thời gian được
chức năng xã hội của mỗi loại hình. Biểu hiện rõ giải tỏa căng thẳng, được thư giãn, thậm chí giải
nhất của hiện tượng này là những loại hình âm tỏa cả những mâu thuận trong cuộc sống đời
nhạc gắn liền với các không gian sinh hoạt văn hóa thường ở cộng đồng.
khác nhau, như:
Đờn ca tài tử ra đời không phải để thỏa mãn sự
- Nhạc gắn liền với tín ngưỡng có hát Văn, hát cầu xin của con người với các đấng thần linh mong
Chèo Tàu Tượng, hát Dô, hát Xoan, nhạc Tế đình, ban phát cho họ cuộc sống ấm no hạnh phúc mà
nhạc nhà Phật và nhạc hiếu…
chính là để thỏa mãn tình cảm của con người với
- Nhạc gắn với lịch tiết nông nghiệp có Trống con người, thỏa mãn tình cảm của con người với
quân, Cò lả, hát Đúm, hát Ví, hô Bài chòi,…
- Nhạc gắn liền với lao động trên cạn, dưới nước
lịch sử quê hương, đất nước.
Văn hóa nhạc về“người với người”ấy được sinh
có hò sông Mã, hò sông Lam, hò khoan Lệ Thủy, hò ra trong quá trình mở đất với bao vất vả nhọc nhằn.
sông Hương, hò chèo ghe, hò Đồng Tháp, hò Họ phải dựa vào nhau mà sống, chung sức với
khiêng xe nước, hò xay lúa, hò giã gạo…
nhau mà khai hoang, khẩn hóa ở vùng đất “Muỗi
- Nhạc gắn liền với văn hóa Tế giao, Tế miếu, kêu như sáo thổi/Đỉa lội như bánh canh”. Cái tình
với sinh hoạt văn chương ở cung đình có Nhã người với người ấy đã cung cấp cho Đờn ca tài tử
nhạc, ca Huế.
những giai điệu nhạc mềm mại, ấm áp, không đao
- Nhạc gắn với đời sống của các nghệ sỹ sống to búa lớn, có chút buồn, nhưng không quá ủy mị,
bằng nghề ca xướng có Ca trù, hát Xẩm.
Còn Đờn ca tài tử là một ngoại lệ.
ai oán. Nhờ vậy mà Đờn ca tài tử dễ nhập vào lòng
người, dễ truyền cảm cho nhau. Nó đã trở thành
Chơi Đờn ca tài tử không bị lệ thuộc vào không môn nghệ thuật như cơm ăn, nước uống của người
gian, thời gian và luật trình diễn. Nó diễn ra một dân phương Nam.
cách phóng khoáng, thích thì chơi, vui thì chơi, gặp
Từ ý nghĩa văn hóa và phương thức sinh hoạt
bạn thì chơi. Có thể chơi trong nhà (gọi là ca salon), nêu trên, chúng tôi xếp Đờn ca tài tử vào loại hình
ꢅꢆng Hošnh Loan: ꢅꢇn ca tši tꢈ....
nghệ thuật âm nhạc giải trí để phân biệt với các loại Nguyễn vào Nam theo phong trào này. Họ đã được
hình âm nhạc cổ truyền người Việt sinh ra trước đó. giới chơi nhạc đờn cây Nam Bộ đón nhận bởi sự
Vậy, vì sao gọi là Đờn ca tài tử và Đờn ca tài tử ra hâm mộ tài năng chơi nhạc thính phòng Huế và
đời như thế nào?
kiến thức Nhạc lễ cung đình của các nhạc công,
Đờn ca tài tử có nguồn gốc từ lối chơi đờn cây1, nhạc quan này. Đó cũng là thời điểm để các nhạc
tức đờn các bản nhạc lễ, nhạc hát Bội của các thầy công, nhạc quan triều đình nhà Nguyễn có dịp
đờn nhạc lễ và nhạc hát Bội. Nhạc mục của lối chơi hạnh ngộ với giới chơi đờn cây Nam Bộ.
48
đờn cây là các bản nhạc Xàng xê, Ngũ đối thượng,
Từ đó, nhiều người chơi nhạc đờn cây đã theo
Ngũ đối hạ, Long đăng, Long ngâm, Vạn giá, Tiểu học đờn nhạc Huế, nhiều gia đình giàu có, yêu nhạc
khúc, Nam xuân, Nam ai, Đảo ngũ cung. Khi chơi đã mời các nhạc công, nhạc quan cung đình Huế
các bản đờn cây với nhau, người ta gọi lối chơi đó về nhà để truyền dạy nhạc Huế cho con cháu họ.
là chơi hòa đờn (vì chưa có lời ca). Mãi về sau, để Quan hệ này là sự tác động qua lại rất quan trọng,
đáp ứng nhu cầu truyền bá tư tưởng của mình đến làm cho những người chơi đờn cây nâng cao ý thức
công chúng, các thầy đờn đã dựa vào tuyến giai âm nhạc và kĩ năng chơi nhạc có tính chuyên
điệu của các bản nhạc đờn cây để viết ca từ. Ca từ nghiệp; làm cho các thầy dậy đờn Huế có thời gian
ra đời trên các bản đờn cây là phương tiện hữu hiệu tiếp cận với phong cách chơi nhạc đờn cây Nam Bộ.
lôi kéo công chúng đến với lối chơi nhạc giải trí này. Một quá trình truyền dạy và tiếp cận đã giúp các
Lời ca ra đời cũng đã làm cho lối chơi đờn cây có thầy dạy nhạc Huế, các thầy chơi đờn cây chỉnh
lời ca phát triển mau chóng trong đời sống sinh sửa, hoàn thiện nhiều bài bản trong nhạc mục đờn
hoạt của người dân phương Nam. Lối chơi đó sau cây, sáng tác nhiều bài bản nhạc mới theo phong
gọi là chơi hòa ca.
cách đờn cây để truyền dạy cho các môn đệ.
Tới đầu thế kỉ XX, lối chơi hòa đờn và hòa ca đã Những bài bản chỉnh sửa và sáng tác ấy không chỉ
làm xuất hiện rất nhiều nghệ sỹ đờn giỏi, ca hay, làm phong phú Nhạc mục giáo trình truyền dạy
rất nhiều nghệ sỹ có tài năng ca đờn kiệt xuất. của các thầy nhạc Huế mà nó còn được giới chơi cổ
Những nghệ sỹ đó được công chúng gọi tôn vinh là nhạc toàn Nam Bộ chấp nhận và yêu thích.
các tài tử. Chiết tự thì tài là tài năng, tử là người. Vậy
Kết quả đến nay giới chơi nhạc tài tử Nam Bộ
tài tử là người có tài năng, có sáng tạo, có tính dường như vẫn chấp nhận với nhau có hai phong
chuyên nghiệp cao chứ không phải là người chơi cách nhạc tài tử: phong cách miền Đông và
đờn thiếu tính chuyên nghề (amateur). Trong phong cách miền Tây. Nguyên do có hai phong
truyện Kiều của Đại thi hào Nguyễn Du có câu: cách bởi nó được sinh ra từ các bậc tiền bối ở hai
“Dập dìu tài tử giai nhân”; trong thơ của nữ sỹ Hồ miền Đông - Tây.
Xuân Hương có câu: “Tài tử văn nhân ai đó tá” đều
dùng từ tài tử để nói về người có tài.
Tiền bối của nhạc tài tử miền Đông được truyền
tụng là nhạc sư Nguyễn Quang Đại, tức Ba Đợi. Cụ
Về sau, người ta gộp lại và giản lược các từ hòa là nhạc quan triều đình nhà Nguyễn vào Nam
đờn, hòa đờn ca và tài tử thành tên gọi Đờn ca tài hưởng ứng phong trào Cần Vương chống Pháp, là
tử để chỉ một loại hình âm nhạc và cũng để chỉ một người sáng tác nhiều bài bản cũng như chỉnh sửa
lối chơi nhạc giải trí của người dân phương Nam.
nhiều bài bản đờn ca trước đó trở thành những bài
Vào đầu thế kỷ XIX, nghệ thuật hòa đờn ở bản trong nhạc mục Đờn ca tài tử sau này. Những
phương Nam đã phát triển rất mạnh. Theo sách Đại năm sống ở Sài Gòn và Cần Đước, cụ đã đào tạo
Nam thực lục, vào năm Minh Mệnh thứ 8 (1827) được rất nhiều nhạc sỹ cổ nhạc xuất sắc, như: Sáu
riêng ở Gia Định đã có tới 200 con hát. Vào khoảng Thới, Cao Huỳnh Cư, Cao Huỳnh Diệu, Cao Hoài
10 năm sau, Tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt đã Sang, Bảy Nhỏ…
nuôi hàng nghìn con hát trong nhà để mua vui. Từ
Ngày 19 tháng 1 Âm lịch (năm?) là ngày mất
đó suy ra, cơ sở văn hóa nghệ thuật ở xã hội Nam của cụ, thi hài cụ được an táng tại Rạch Cát, quận 8,
Bộ nửa đầu thế kỉ XIX cũng đã rất phong phú và Sài Gòn. Ngày 19 tháng 1 Âm lịch hàng năm được
giàu có.
chọn làm ngày “Giỗ tổ Đờn ca tài tử”2. Ngày nay,
Cuối thế kỉ XIX, phong trào Cần Vương (1885 - giới tài tử Long An đã đưa chân nhang cố nhạc sư
1895) đã xảy ra ở Nam Bộ. Vào thời điểm lịch sử đó, về phối thờ tại đình Vạn Phước, huyện Cần Đước,
có nhiều nhạc công, nhạc quan của triều đình nhà tỉnh Long An.
Sꢀ 2 (47) - 2014 - Di sꢁn vꢂn hoŸ phi vꢃt thꢄ
Tiền bối của nhạc tài tử miền Tây được truyền Hoàng, Giang Nam (hoặc Giang Nam - Cửu Khúc)
tụng là nhạc sư Lê Tài Khí (tức Nhạc Khị) (1862- và Phụng Cầu.
1924), người Bạc Liêu. Cụ có nhiều công chỉnh lí, hệ
Cùng với nhạc mục “20 bản tổ” khuyết danh là
thống hóa nhạc mục tiêu biểu của nhạc tài tử, những bản đờn sáng tác của các thầy nhạc tiền bối
đồng thời đã sáng tác nhiều bản đờn nổi tiếng làm lừng danh (tức các bản đờn có tác giả). Những bản
giầu cho nhạc mục đờn ca. Các tài tử danh tiếng về đờn ca này3 cũng rất được giới chơi Đờn ca tài tử
sau, như: Sáu Lầu, Cai Đệ, Mười Khói, Trịnh Thiên yêu chuộng.
49
Tư… đều là học trò của cụ. Giới chơi cổ nhạc miền
Tây đã tôn vinh cụ là hậu tổ nhạc tài tử.
Trước hết, phải kể đến biểu mục Tám bản Ngự,
Năm bản Ngò Châu, do nhạc sư Ba Đợi, nhạc sư
Cùng thời này ở Vĩnh Kim, tỉnh Mỹ Tho (ngày Trần Quang Diệm4 cùng các nhạc sỹ cổ nhạc miền
nay là xã Vĩnh Kim, thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Đông sáng tác.
Tiền Giang) có cụ Trần Quang Thọ, trước kia ở trong
- Tám bản Ngự gồm các bản: Đường Thái
ban nhạc cung đình Huế và sau có con trai cụ là Tôn, Vọng Phu, Chiêu Quân, Ai Tử Kê, Bát Man
ông Trần Quang Diệm (1853 - 1927); ở Vĩnh Long, Tấn Cống, Tương Tư, Duyên Kì Ngộ và Quả Phụ
Sa Đéc có các cụ Trần Quang Quờn, Phạm Đăng Hàm Oan.
Đàn, Tống Hữu Định; ở Sài Gòn (nay là thành phố
Hồ Chí Minh) có các cụ Nguyễn Liên Phong, Ngự Giá, Hồ Lan, Vạn Liên, Song Phi Hồ Điệp.
Nguyễn Tùng Bá, Phan Hiền Đạo, Tôn Thọ Tường là Kế đó phải kể đến biểu mục Bốn bản Tứ Bửu do
những bậc thầy tài danh đã có nhiều công sáng tác nhạc sư Lê Tài Khí (Nhạc Khị) sáng tác. Đó là các
bài bản và truyền dạy đờn ca trong cộng đồng. bản: Minh Hoàng Thưởng Nguyệt, Ngự Giá Đăng
Một nhạc mục bài bản nhanh chóng ra đời và Lâu, Phò Mã Giao Duyên và Ái Tử Kê.
- Năm bản Ngũ Châu là các bản: Kim Tiền Bản,
cũng nhanh chóng được lan truyền trong cộng
đồng. Song, trước hết, phải kể tới “20 bản tổ”.
Cùng với những bản đờn nổi tiếng có tác giả
trên đây, còn phải kể đến bản Văn Thiên Tường
“20 bản tổ” là những bản đờn khuyết danh của nhạc sư Trần Quang Thọ5, bản Tứ Bửu Liêu
nhưng được coi là những bản đờn kinh điển của Thành, bản Liêu Giang… của nhạc sư Lê Văn Chột
nhạc Đờn ca tài tử. Những bản đờn đó đã hội đủ (Ba Chột)6.
các yếu tố đặc trưng, phong cách đặc trưng của
Theo cách sắp xếp nhạc mục tài tử của nhạc sư
nhạc tài tử, như: hơi, điệu, tiết tấu và cách thức hòa Nguyễn Văn Thinh (Giáo Thinh) thì trong nhạc tài
đờn, hòa ca. Giới tài tử miền Đông và miền Tây đã tử còn có các điệu lí, các lối ngâm thơ và Thập thủ
thống nhất phân chia biểu mục “20 bản tổ” thành liên hườn (còn gọi là bản Tàu), đó là các bản Phẩm
bốn nhóm:
tuyết, Ngươn tiêu, Hồ quảng, Liên hoàn, Bình bán,
- Nhóm thứ nhất gồm 6 bản Bắc, tính chất âm Tây mai, Kim tiền, Xuân phong, Long hổ, Tẩu mã.
nhạc trong sáng, khỏe khoắn, vui vẻ. Đó là các bản: Ngày nay những bản nhạc này ít thấy chơi trong
Lưu Thủy Trường (hoặc Lưu Thủy) Phú Lục Chấn mỗi buổi đờn ca.
(hoặc Phú Lục), Bình Bán Chấn (hoặc Bình Bán), Cổ
Bản Trường (hoặc Cổ Bản), Xuân Tình Chấn (hoặc trong giới chơi Đờn ca tài tử và sân khấu Cải lương
Xuân Tình), Tây Thi Trường (hoặc Tây Thi). hồi đầu thế kỉ XX không thể không nhắc đến đó là
Có một bản nhạc đã trở thành sự kiện âm nhạc,
- Nhóm thứ hai gồm 7 bản Nhạc (hoặc 7 bản bản Dạ Cổ Hoài Lang của nhạc sỹ cổ nhạc Cao Văn
Lớn, hoặc 7 bản Hạ), tính chất âm nhạc trang Lầu. Ông sáng tác bản nhạc này vào năm 1913 ở
trọng, đĩnh đạc. Đó là các bản: Xàng Xê, Ngũ Đối Bạc Liêu. Và, chỉ trong khoảng thời gian rất ngắn,
Thượng, Ngũ Đối Hạ, Long Đăng, Long Ngâm, Vạn giới chơi Đờn ca tài tử và giới nghệ sỹ Cải lương đã
Giá, Tiểu khúc.
biến nó thành bản nhạc bất hủ với tên gọi Vọng cổ.
Những nghệ sỹ đóng góp nhiều sáng tạo cho
- Nhóm thứ ba gồm 3 bản Nam, tính chất âm
nhạc êm dịu, nhẹ nhàng, đượm một chút buồn bản Vọng cổ đó là tài tử Lư Hòa Nghĩa, là cô Bảy
man mác. Đó là các bản: Nam Xuân, Nam Ai, Nam Phùng Há, cô Ba Bến Tre, Năm Nghĩa, Út Trà Ôn,
Đảo (hoặc Đảo Ngũ Cung - Song Cước)
Thành Được, Ngọc Giầu, Bạch Tuyết và rất nhiều
- Nhóm thứ tư gồm 4 bản Oán, tính chất âm nghệ sỹ khác nữa.
nhạc buồn thương, ai oán nhưng không u ám, sầu
Vọng cổ ra đời đã đánh dấu bước phát triển
não. Đó là các bản: Tứ Đại Oán (hoặc Tứ Đại), Phụng mạnh mẽ các kĩ năng chơi đờn, hòa đờn, kĩ năng
ꢅꢆng Hošnh Loan: ꢅꢇn ca tši tꢈ....
50
ca và hòa ca của giới Đờn ca tài tử và Cải lương.
tình của nhau, trọng tiếng đờn của nhau và biết thể
Cho đến ngày nay, bản Vọng cổ đã trở thành hiện tài năng, ngón đờn của mình một cách khiêm
bản nhạc không thể thiếu vắng, không thể không nhường nhất, có khả năng đối thoại cao nhất để
hát trong mỗi buổi chơi Đờn ca tài tử. Thậm chí, nó cùng bạn tri âm trình tấu những bản đờn ăn ý nhất,
luôn luôn là bản nhạc được chơi vào thời điểm kết hay nhất, lôi cuốn người nghe nhất.
thúc mỗi buổi chơi đờn ca. Bởi nó - bản Vọng cổ là
GS.TS. Trần Văn Khê đã dùng phép Biến dịch,
bản nhạc đã để lại nhiều dư âm, những hẹn hò, Giản dịch và Bất dịch của Chu dịch để giải thích
những nuối tiếc cho bạn đờn ca tri âm, cho người hiện tượng hòa đờn ca này. Ông nói:“Thì trong Đờn
nghe tri kỉ mỗi khi tiếng song lang gõ tiếng phách ca tài tử có cái lòng bản, những cái biến khúc mà
cuối cùng chấm dứt buổi chơi đờn ca. Dẫu là vậy, khi đờn tài tử gặp gỡ nhau, đờn tỳ với đờn kìm gặp
bản Dạ cổ hoài lang và con đẻ của nó là bản Vọng nhau phải đờn như thế nào, đờn tranh với đờn kìm
cổ vẫn chưa được xếp vào danh mục các bản tổ.
gặp nhau phải như thế nào. Khi nào mình nhường
Khác với lối tấu nhạc trong các không gian văn để cho người kia đờn, khi nào hai cái hòa chung với
hóa tín ngưỡng, các không gian văn hóa phong tục nhau. Trong khi đối thoại đó, trong khi biểu diễn có
của người Việt trong thời kì Đại Việt, người chơi thể ngẫu hứng sáng tác ra cái mới thì cái đó là cái
nhạc Đờn ca tài tử chỉ quan tâm tới bạn đờn ca với chất của Đờn ca tài tử”7.
mình là ai, người đó có phải là khách tri âm, là bạn
Còn nhạc sư Nguyễn Vĩnh Bảo đã dùng xúc cảm
bè tri kỉ, người đó có đem đến một buổi hòa đờn âm nhạc để mô tả cách hòa đờn của hai nhạc sư
thấu tình, thấu nghĩa, thấu tài hay không. Vì vậy, vang bóng: Năm Vĩnh (đờn kìm), Hai Thơm (đờn vi-
cho đến ngày nay, giới chơi Đờn ca tài tử vẫn tuân olon). “Trong khi đàn, cả hai nhạc sỹ, ai cũng tung
thủ lối chơi truyền thống - chơi tâm tấu. Để giữ ra những độc chiêu rất là kì bí. Khi thì ríu rít như
được lối chơi tâm tấu trước hết các tài tử phải chọn tiếng chim hót buổi sáng của violon, lúc buông rơi
được bạn tri âm, tri kỉ. Những người bạn hiểu tính từng chữ của đàn kìm, làm cho người nghe cảm
Sꢀ 2 (47) - 2014 - Di sꢁn vꢂn hoŸ phi vꢃt thꢄ
thấy hai bên chực chờ quật ngã nhau, lôi cuốn búng, phi, rải. Tùy thuộc khi chơi điệu nào, hơi
khách mộ điệu chuộng cái lối đàn gay cấn, mắc nào và chơi bằng cây đờn nào mà người chơi đờn
mỏ, phập phồng hồi hộp, chẳng biết ai sẽ quật ngã ứng dụng đúng các ngón bấm kĩ thuật phù hợp
ai. Quả là kì phùng địch thủ”8. Cách mô tả của nhạc với hơi đó, điệu đó, cây đờn đó.
sư Nguyễn Vĩnh Bảo làm cho người đọc có cảm
giác cuộc hòa đờn của của hai nhạc sư Năm Vĩnh và bấm kĩ thuật là cơ sở để tài tử thăng hoa, biến hóa
Hai Thơm giống như cuộc chuyện trò của các vị cách chơi lòng bản. Biến hóa cách chơi lòng bản “là
Thuộc thấu đáo lòng bản, làm chủ các ngón
51
Đạo cốt tiên sinh vậy.
một trong nhiều cách viết âm nhạc khác nhau, mà
Tuy nhiên, để đạt được âm thanh vi diệu nhất từ lâu danh từ âm nhạc thế giới đã gọi là hétéro-
khi chơi đờn ca, giới tài tử đã tìm ra được những phonie (hétéro là dị dạng, biến hóa khác nhau,
nguyên tắc kết hợp âm sắc, tính năng của các nhạc phonie là âm điệu, giai điệu). Nguyên lí chung đơn
cụ khác nhau một cách khéo léo nhất. Những giản của cách viết này là các bè (hát hoặc đàn, hay
nguyên tắc đó gồm có: sự kết hợp âm sắc của dây cả hát lẫn đàn) đều là biến thể của cùng một giai
tơ với dây sắt; âm sắc của nhạc cụ hơi với các nhạc điệu, do hiện tượng biến hóa lúc phân, lúc hợp
cụ dây gẩy, dây kéo; âm sắc của nhạc cụ trường âm trong sự kết hợp các bè ấy với nhau hình thành ít
với nhạc cụ đoản âm. Sự kết hợp tính năng của hay nhiều những nhân tố phức điệu”9. Nhóm tài tử
nhạc cụ chơi truyền âm, truyền ngón nhanh với bậc thầy Năm Cơ, Văn Vĩ, Bảy Bá đã thực hiện sành
tính năng các nhạc cụ chơi những chữ đờn nhấn sỏi cách sáng tác hétérophonie ngay khi hòa tấu
nhá, thưa âm mà sâu sắc… Sự sử dụng hạn chế số bản đờn: “Năm Cơ đẩy cái tính năng tác dụng, đẩy
lượng nhạc cụ khi hòa đờn hay hòa ca. Thông cái nghệ thuật chữ nghĩa, nhịp nhàng, âm thanh
thường, các tài tử hay sử dụng lối chơi hai nhạc cụ, của cây đờn sến tuyệt vời. Văn Vĩ là một danh cầm
ba nhạc cụ, bốn nhạc cụ, hoặc năm nhạc cụ có âm (Đệ nhất lục huyền cầm), cứ đi tới đâu ở làng quê
sắc hòa hiệp là cùng, mà ít khi sử dụng nhiều hơn nào nghe người ta cầm cây ghi - ta (phím lõm) lên
số nhạc cụ này. Đây là sự chọn lựa nhạc cụ, sự kết là người ta đờn những cái thòng, những cái vô của
hợp âm sắc nhạc cụ rất khôn khéo nhằm đạt được Văn Vĩ. Tiếng đờn tranh của Bẩy Bá trong những cái
hiệu quả phối khí cao khi hòa tấu một bản đờn.
hòa tấu, cái độc tấu, đặc biệt là những cái thòng,
Để thỏa mãn nhu cầu hòa đờn ca, tất cả các bản những cai láy dứt câu một qua câu hai 8 nhịp, 12
đờn trong Đờn ca tài tử đều được các bậc tiền bối nhịp đó là tuyệt vời của những cái chữ đờn”10.
xây dựng trên nguyên tắc đóng - mở của lòng bản.
Nguyên tắc đóng - mở trong lòng bản của nhạc
Đóng là cấu trúc khung cố định của lòng bản một tài tử là chìa khóa giúp các tài tử có thể dễ dàng
bản đờn. Mở là “khoảng tự do” giữa các âm, ở lòng thăng hoa khi hòa đờn mà không bao giờ lệch
bản dành cho các tài tử được phép thêm, bớt; mở nhau về nhịp phách, lệch nhau về câu cú, lệch nhau
còn là “khoảng tự do” giữa các phách nội, ngoại, về điệu và hơi. Nguyên tắc đóng - mở giúp các tài
ngưng nghỉ, bắt vào cũng như tăng giảm tốc độ tử tri âm dễ dàng thể hiện tài năng của mình, thi
khi chơi lòng bản của bản đờn. Nắm chắc nguyên thố kĩ năng chơi đờn của mình với các bạn đờn
tắc đóng - mở tức là nắm chắc nguyên tắc phát trong mỗi dịp đờn ca. Vận dụng tài tình cách đóng-
triển lòng bản khi hòa đờn.
mở của lòng bản, các tài tử sẽ dễ dàng chơi ngẫu
Lòng bản được xây dựng trên cơ sở câu nhạc, hứng thành những giai điệu mới, làm cho nhạc tài
lớp nhạc, nhịp nhạc, các chữ đờn, thang âm và tử luôn mới trên những bài bản cũ trong mỗi buổi
hơi. Thang âm có: thang âm Bắc, thang âm Nam chơi đờn ca, biểu diễn đờn ca. Đó là cái vi diệu
và thang âm Oán. Hơi có: hơi Bắc, hơi Hạ, hơi nghệ thuật, cái kiệt tác âm nhạc của Đờn ca tài tử
Xuân, hơi Ai, hơi Đảo và hơi Oán. Có 10 chữ đờn phương Nam.
trong phạm vi quãng tám: Hò - Liu, Xự - Ú, Xang -
Để phát triển được tối đa phương pháp hòa
Xáng, Xê - Xế, Công - Cống. Để chơi được các chữ đờn ngẫu hứng, các tài tử đã tìm ra những ngón
đờn, người chơi đờn phải thành thạo các ngón đờn có kĩ năng phức tạp trên các nhạc cụ cổ truyền,
bấm kĩ thuật, như: rung, nhấn rung, nhấn mổ, như đờn kìm (đàn nguyệt), đờn tranh (đờn thập
nhấn mượn hơi, mổ đơn, mổ kép, mổ kềm dây; lục), đờn cò (đờn nhị), đờn bầu, đó là các ngón kĩ
các cách đổ hột, rung cung của đờn dây cung kéo; thuật, như: rung, rung nhấn, nhấn mượn hơi, nhấn
các cách chầy hưởng, mổ bấm, bịt, day, chớp, kềm, mổ, á… để thể hiện hết tinh thần của mỗi chữ
ꢅꢆng Hošnh Loan: ꢅꢇn ca tši tꢈ....
đờn trong mỗi bản đờn. Không những thế, họ còn phát triển đến đỉnh cao những nguyên tắc hòa đờn
làm phong phú thêm âm sắc nhạc cụ chơi đờn ca
bằng cách “tài tử hóa” một số cây đờn phương Tây
là đờn ghi-ta, đờn violon, đờn mandolin, đờn gui-
tare hawenne. Nhưng có lẽ cây đờn ghi - ta đã được
tài tử hóa một cách hoàn thiện hơn cả. Trước hết,
người ta khoét lõm các phím đờn ghi - ta xuống để
tạo điều kiện cho các ngón đờn nhấn nhá. Sau đó,
họ thay đổi toàn bộ cao độ các dây đờn ghi - ta
phương Tây thành cao độ dây đờn ghi - ta tài tử
(ghi- ta phím lõm). Còn các cây đờn khác chỉ thay
đổi đôi cách lên dây, cách ngồi chơi đờn mà thôi.
Xin thống kê các cách lên dây đờn ghi - ta tài tử để
làm rõ giá trị sáng tạo này:
- Dây Xề bóp có các âm: Lìu Xê Hò Xế (tương
đương các note Sòn Rê Son Rế trong nhạc phương
Tây).
- Dây Sài Gòn có các âm: Lìu Xê Hò Xế (tương
đương các note Sòn Rê La Rế trong nhạc phương
Tây).
cổ truyền, đỉnh cao lối cấu trúc bài bản theo
nguyên tắc cổ truyền và cả đỉnh cao về nhu cầu
sinh hoạt văn hóa đời thường - văn hóa giải trí, một
mảng còn thiếu vắng trong hồ sơ âm nhạc cổ
truyền người Việt.
52
Bằng các giá trị văn hóa và nghệ thuật cổ
truyền đỉnh cao, bằng lối sinh hoạt giản dị và lôi
cuốn, bằng sức sống mãnh liệt của Đờn ca tài tử
trong đời sống hiện đại mà Đờn ca tài tử đã được
thế giới công nhận và vinh danh vào Danh sách Di
sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại tại
phiên họp của Ủy ban Liên chính phủ về bảo vệ di
sản văn hóa phi vật thể lần thứ 8, diễn ra tại thành
phố Bake, nước Cộng hòa Azerbaijan ngày 5 tháng
12 năm 2013. Đó là tin vui và cũng là niềm tự hào
về sự đóng góp một sáng tạo kiệt tác âm nhạc cổ
truyền của Việt Nam vào kho tàng những Kiệt tác
văn hóa phi vật thể nhân loại./.
ꢀ.H.L
- Dây Tứ nguyệt có các âm: Xề Hò Xê Liu (tương
đương các note Là Rê La Rế trong nhạc phương
Tây).
- Dây Lai có các âm: Lìu Xang Hò Xê Líu (tương
đương các note Rề Sòn Rê La Rế trong nhạc
phương Tây).
Chú thích và tài liệu tham khảo:
1- Lối chơi đờn cây là lối chơi các nhạc cụ cổ truyền không
có sự tham gia của kèn dăm, trống và các nhạc cụ gõ băng
đồng.
2- Nguyễn Tấn Nhì, Nhạc tài tử Nam Bộ, tài liệu chưa xuất
bản.
- Dây Ngân Giang có các âm: Lìu Xê Hò Xư Xế
3- Bản đờn ca: là bản nhạc có thể tấu nhạc không lời và
(tương đương các note Sòn Rê Son Si Rế trong cũng chính bản nhạc ấy lại trở thành người bạn đồng hành
của lời ca (tức đệm cho ca).
nhạc phương Tây).
4- Nhạc sư Trần Quang Diệm là ông nội của GS.TS. Trần Văn
Khê.
Xế (tương đương các note Rề Sòn Rê Si Rế trong
5- Nhạc sư Trần Quang Thọ là nội tổ của GS.TS. Trần Văn
- Dây bán Ngân Giang có các âm: Xề Liu Xê Xư
nhạc phương Tây).
Khê.
Cách biến “đờn ngoài” thành “đờn ta” là một
cách tiếp biến văn hóa đã có tự ngàn xưa của người
Việt. Ấy vậy mà ngày nay, cách tiếp biến văn hóa
kiểu này dường như đã mất đi trong giới nhạc hiện
đại, thế vào đó là cách tiếp thu ồ ạt văn hóa âm
nhạc nước ngoài nguyên mẫu nhưng sống sượng.
Đờn ca tài tử chỉ ra đời cách nay trên một trăm
năm, nhưng xứng đáng được xếp vào danh mục
“Nhạc cổ truyền người Việt”. Bởi, nó đã kế thừa và
6- Ông là con trai duy nhất của nhạc sư Lê Tài Khí (Nhạc
Khị).
7- Đặng Hoành Loan, Lời bình Phim Đờn ca tài tử - nhạc
truyền thống Nam Bộ Việt Nam, Viện Âm Nhạc xuất bản.
8- Nguyễn Vĩnh Bảo, Nhạc sỹ vang bóng một thời. Điểm
qua một số nhạc sư, tài liệu do Tám Kì cung cấp.
9- Hoàng Đạm, Hòa tấu biến hóa lòng bản âm nhạc cổ
truyền người Việt, tr. 17. Viện Âm Nhạc - 2003.
10- Ngô Hồng Khanh, trong phim Đờn ca tài tử Nam Bộ,
Việt Nam, Viện Âm nhạc xuất bản 2011.
Đặng Hoành Loan: Đờn ca tài tử (Southern Amateur Music) – Entertainment Music of Southern
People
The paper shows the establishment and development of this type of traditional/folk music. Although
learnt much from history flow and exchanges, Đờn ca tài tử has been clearly reflecting open-minded feel-
ing of the local residents. The author also analyses rhythms, music standards with professional techniques
of practitioners. Đờn ca tài tử has been a light house of Southern cultural heritage.
Bạn đang xem tài liệu "Đờn ca tài tử - Nhạc giải trí của người dân phương Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- don_ca_tai_tu_nhac_giai_tri_cua_nguoi_dan_phuong_nam.pdf