Hành vi thông tin của giảng viên

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
HÀNH VI THÔNG TIN CỦA GIẢNG VIÊN  
ThS Bùi Hà Phương  
Trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh  
Tóm tắt: Từ kết quả nghiên cứu hành vi thông tin của giảng viên tại các trường đại học ở Tp.  
Hồ Chí Minh, bài viết nhận diện một số loại hành vi thông tin của giảng viên. Phân tích một số điểm  
mạnh, hạn chế trong hành vi thông tin của giảng viên và đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện  
hành vi thông tin của giảng viên trong hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học và tự học.  
Từ khóa: Hành vi thông tin; giảng viên; kết quả nghiên cứu; thông tin-thư viện.  
Information behavior of lecturers  
Abstract: Based on the research on information behavior of lecturers at universities in Ho Chi  
Minh City, the article identifies some common types of information behavior, analyzes the strengths  
and limitations of these behaviors as well as recommends solutions for lecturers to improve their  
information behavior in lecturing, researching and self-studying.  
Keywords: Information behavior; lecturers; research result; information-library.  
Đặt vấn đề  
từ các hệ thống tìm tin,... Ngoài ra, các yếu  
tố khác như vai trò, yêu cầu của nhà trường  
đối với giảng viên cũng tác động rất lớn đến  
HVTT của giảng viên. Những ảnh hưởng đó  
hình thành đặc điểm trong HVTT của giảng  
viên các trường đại học nói chung, tại Tp. Hồ  
Chí Minh nói riêng.  
Trong môi trường giáo dục đại học, đội  
ngũ giảng viên là một trong những nhân tố  
ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đào tạo và  
nghiên cứu của nhà trường. Giảng viên thực  
hiện đồng thời nhiều nhiệm vụ khác nhau  
như giảng dạy, nghiên cứu khoa học và phục  
vụ cộng đồng. Mỗi nhiệm vụ đòi hỏi giảng  
viên luôn nỗ lực để đạt được mục tiêu và  
hiệu quả công việc, trong đó bao gồm hoạt  
động tìm kiếm và sử dụng thông tin từ nhiều  
nguồn khác nhau.  
Việc nhận diện những đặc điểm khác  
nhau, các yếu tố tác động đến HVTT của  
giảng viên và phác thảo mô hình HVTT của  
giảng viên các trường đại học ở Tp. Hồ Chí  
Minh có những ý nghĩa nhất định đối với  
giảng viên, các trường đại học, các nguồn  
thông tin, trong đó thư viện đại học là một  
trong những nguồn thông tin quan trọng.  
Bài viết này cung cấp cách nhìn chi tiết hơn  
về HVTT của giảng viên tại một số trường  
đại học ở Tp. Hồ Chí Minh, nhận diện được  
những đặc trưng cơ bản về HVTT của giảng  
viên và đưa ra mô hình HVTT của giảng viên.  
Quá trình hình thành nhu cầu tin cũng  
như hoạt động tìm kiếm, sử dụng và chia sẻ  
thông tin của giảng viên- là những biểu hiện  
hành vi thông tin (HVTT) của giảng viên- chịu  
ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố ở các mức  
độ khác nhau, như: trình độ chuyên môn,  
quỹ thời gian, khả năng nhận diện nhu cầu  
tin, kỹ năng sử dụng và tìm kiếm thông tin  
17  
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 2/2018  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
nhằm mục đích cụ thể của cá nhân. HVTT  
này thường gặp ở những giảng viên đang  
thực hiện một nghiên cứu nhất định như  
viết bài báo, tham luận, soạn bài giảng cho  
môn học mà họ đảm nhiệm. Đồng thời, với  
HVTT này, giảng viên thường thực hiện  
một cách chủ động và độc lập, bởi lẽ, họ là  
người quyết định phạm vi nhu cầu tin của  
mình, phương thức tìm kiếm thông tin, tổ  
chức thông tin cũng như sử dụng thông tin  
nào phù hợp. Đặc biệt, đối với giảng viên có  
HVTT này, họ thường tự chủ động bố trí thời  
gian linh hoạt để tìm được thông tin mà mình  
cần. Nhìn chung, khuynh hướng HVTT cá  
nhân này thường thấy ở những giảng viên  
đang trong giai đoạn tự học nâng cao trình  
độ. Tuy nhiên, ở các hoạt động khác, HVTT  
của giảng viên cũng thể hiện các đặc điểm  
này. Kết quả khảo sát cho thấy, trong số 23  
giảng viên là nghiên cứu sinh và 17 học viên  
cao học được hỏi, có 27 giảng viên (chiếm  
67.5%) đã nhận diện và mô tả HVTT của  
mình là HVTT cá nhân.  
1. Nhận diện loại hành vi thông tin của  
giảng viên tại các trường đại học ở thành  
phố Hồ Chí Minh  
Việc nghiên cứu nhận dạng HVTT của  
giảng viên được thực hiện thông qua khảo  
sát bằng phiếu hỏi tại 6 trường đại học công  
lập tại Tp. Hồ Chí Minh. Phiếu khảo sát được  
phát ngẫu nhiên cho giảng viên cơ hữu tại 6  
trường đại học công lập theo 6 nhóm ngành,  
lĩnh vực trong thời gian 4 tháng. Kết quả thu  
được là 447 trong tổng số 600 phiếu hợp lệ,  
đạt tỷ lệ thu hồi 62%. Đồng thời, nhóm nghiên  
cứu cũng sử dụng kết hợp phương pháp  
phỏng vấn sâu giảng viên để hiểu rõ hơn về  
HVTT của giảng viên tại một số trường đại  
học tại Tp. Hồ Chí Minh.  
Nội dung khảo sát và phỏng vấn sâu bao  
gồm: mục tiêu tìm kiếm thông tin của giảng  
viên, mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến  
việc hình thành nhu cầu tin của giảng viên,  
những nguồn thông tin hỗ trợ giảng dạy,  
nghiên cứu khoa học và tự học của giảng  
viên; cơ sở để lựa chọn từng nguồn thông tin  
của giảng viên, đánh giá về mức độ sử dụng  
thư viện trường của giảng viên, đánh giá về  
mức độ đáp ứng của thư viện trường đối  
với nhu cầu tin của giảng viên, đánh giá về  
hiệu quả của hệ thống tìm tin trong thư viện  
trường, mức độ ảnh hưởng của các yếu tố  
đến việc lựa chọn hệ thống tìm tin của giảng  
viên, cách thức tìm kiếm, lưu trữ và chia sẻ  
thông tin của giảng viên cũng như các yếu tố  
ảnh hưởng đến hành vi sử dụng và chia sẻ  
thông tin của giảng viên.  
Ngoài ra, một trong những biểu hiện dễ  
nhận thấy trong HVTT cá nhân này chính là  
trước khi tìm kiếm thông tin từ các nguồn  
thông tin khác, họ có khuynh hướng tìm kiếm  
trong bộ sưu tập của cá nhân mà họ có sẵn.  
Để làm rõ hơn, kết quả khảo sát cho thấy, có  
117 lượt giảng viên (chiếm tỷ lệ 26.2%) cho  
rằng HVTT của họ là HVTT cá nhân. Kết quả  
phỏng vấn cũng cho thấy giảng viên “có thể  
tự tìm kiếm thông tin từ Internet, vì tài liệu  
trên Internet có rất nhiều và có thể tìm khi có  
thời gian rảnh rỗi”.  
Từ phân tích kết quả khảo sát, chúng tôi  
nhận diện bốn loại HVTT cơ bản của giáo  
viên, đó là: HVTT cá nhân, HVTT phối hợp,  
HVTT hỗn hợp và HVTT phức hợp.  
1.2. Hành vi thông tin phối hợp  
Trong hoạt động giảng dạy, nghiên cứu  
khoa học của giảng viên, sự phối hợp được  
thể hiện qua rất nhiều hoạt động, ví dụ, quá  
trình chia sẻ, trao đổi thông tin và giải quyết  
vấn đề cùng nhau. Những hoạt động này  
được thực hiện bởi nhóm hoặc đội trong  
cộng đồng học thuật như giữa giảng viên này  
với giảng viên khác, giữa giảng viên với sinh  
1.1. Hành vi thông tin cá nhân  
Giảng viên thường là cá nhân thực hiện  
các hoạt động nghiên cứu một cách độc lập.  
Chẳng hạn, mỗi giảng viên sẽ chủ động tìm  
kiếm thông tin cũng như sử dụng thông tin  
18  
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 2/2018  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
viên hoặc các mối quan hệ khác. HVTT phối  
hợp được định nghĩa là các hoạt động được  
thực hiện bởi nhóm người nhằm xác định và  
giải quyết nhu cầu thông tin chung [Poltrock  
et al., 2003]. HVTT phối hợp cũng được hiểu  
là “hoạt động tiếp cận thông tin nhằm giải  
quyết vấn đề mà liên quan trực tiếp (giao tiếp)  
hoặc gián tiếp (văn bản, ghi chú) đến quá  
trình tương tác với cá nhân khác. Khi đó, cá  
nhân đó được xem là một nguồn thông tin  
liên quan đến quá trình tìm kiếm thông tin  
trong bối cảnh làm việc hoặc cộng đồng rộng  
lớn hơn [Hansen & Jarvelin, 2005].  
lượt ý kiến hoàn toàn đồng ý và 410 lượt đồng  
ý rằng họ sẵn sàng chia sẻ thông tin khi họ  
có). Kết quả này cho thấy, sự phối hợp của  
giảng viên được thể hiện không chỉ qua quá  
trình họ tự tìm kiếm thông tin cho cá nhân, mà  
còn là sự phối hợp trong chia sẻ thông tin với  
cộng đồng. Đây là một điểm mạnh nổi bật về  
HVTT của giảng viên, bởi lẽ điều này hoàn  
toàn phù hợp với vai trò của mỗi người giảng  
viên trong môi trường học thuật.  
1.3. Hành vi thông tin hỗn hợp  
Sự kết hợp đồng thời giữa HVTT cá nhân  
và HVTT phối hợp là cơ sở hình thành một  
loại HVTT mang tính chất hỗn hợp, vừa đồng  
thời mang yếu tố cá nhân của từng giảng  
viên, đồng thời vừa là sự phối hợp hiệu quả  
của giảng viên với các cá nhân khác trong  
cộng đồng học thuật.  
Với HVTT này, mỗi giảng viên thường có  
sự tương tác với các cá nhân khác như đồng  
nghiệp, sinh viên, bạn bè, cán bộ thư viện  
nhằm tìm kiếm thông tin. Cụ thể, họ thường  
xác định các cá nhân này như một nguồn  
thông tin khi tìm kiếm (85 lượt ý kiến của  
giảng viên hoàn toàn đồng ý) và 289 lượt ý  
kiến đồng ý rằng họ luôn tận dụng các nguồn  
thông tin khi tìm kiếm như đồng nghiệp bạn  
bè. Chẳng hạn, khi giảng viên có nhu cầu tìm  
một tài liệu chuyên ngành mà họ hoạt động,  
họ thường hỏi đồng nghiệp hỗ trợ bằng cách  
mượn tài liệu mà đồng nghiệp có sẵn. Ngoài  
ra, giảng viên có thể nhờ đồng nghiệp mua  
giúp từ các nhà sách khi họ có chuyến công  
tác nước ngoài. Đặc biệt, một trong những  
cách thức mà giảng viên thường thể hiện  
HVTT phối hợp đó là thông qua các đồng  
nghiệp đang học tập, nghiên cứu dài hạn tại  
nước ngoài.  
Đối với HVTT hỗn hợp này, giảng viên  
thường khai thác và tận dụng tối đa hiệu quả  
nguồn thông tin. Đồng thời, bản thân giảng  
viên cũng có khả năng tự hoàn thiện hành vi  
của mình trong quá trình thoả mãn nhu cầu  
tin. Những giảng viên có HVTT này thường  
cho rằng, trong quá trình tìm kiếm thông tin,  
họ thường tìm trong ít nhất là 2 nguồn thông  
tin trở lên (250 lượt giảng viên đồng ý và  
hoàn toàn đồng ý rằng họ thường tìm ít nhất  
là 2 nguồn thông tin trở lên). Trong khi đó,  
85 lượt ý kiến trả lời bình thường và có rất ít  
giảng viên cho rằng họ tiếp cận cả hai nguồn  
thông tin khi tìm kiếm. Kết quả khảo sát này  
cho thấy, giảng viên thường nỗ lực tìm kiếm  
từ nhiều nguồn đáng tin cậy, trong đó bao  
gồm nguồn thông tin của cá nhân giảng viên  
và các nguồn khác từ đồng nghiệp, Internet,  
thư viện của trường nhằm có được thông tin  
thoả mãn nhu cầu. Ngoài ra, một số giảng  
viên cũng luôn cần đến sự hỗ trợ của người  
khác khi tìm kiếm như cán bộ thư viện, đồng  
nghiệp, bạn bè, ... Tuy nhiên, số lượng giảng  
viên cần sự hỗ trợ khi tìm kiếm chiếm tỷ lệ  
không cao (chỉ 125 lượt giảng viên trả lời) và  
số giảng viên khác thì cho rằng họ không cần  
Ngoài ra, HVTT phối hợp của giảng viên  
còn được thể hiện ở quá trình giảng viên  
phối hợp với đồng nghiệp, sinh viên và các  
cá nhân khác nhằm giải quyết vấn đề chung  
của nhóm. Chẳng hạn, khi cùng thực hiện đề  
tài nghiên cứu khoa học, các cá nhân giảng  
viên thường có sự phối hợp bằng cách chia  
sẻ thông tin mà họ tìm được nhằm thực hiện  
mục tiêu chung mà nhóm đặt ra. Đặc điểm  
này tương ứng với hành vi của giảng viên khi  
“sẵn sàng chia sẻ thông tin với mọi người” (39  
19  
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 2/2018  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
đến sự hỗ trợ đó (265 trả lời là bình thường  
và 49 lượt giảng viên cho rằng họ không cần  
đến sự hỗ trợ của người khác khi tìm tin).  
Điều này cho thấy, giảng viên vừa là người  
chủ động thực hiện HVTT của mình một  
cách độc lập, đồng thời cũng là người cần  
sự trợ giúp của người khác khi tìm kiếm, đặc  
biệt khi họ cần thoả mãn những nhu cầu tin  
phức tạp.  
Có thể thấy, HVTT của giảng viên rất đa  
dạng, trong đó, căn cứ vào biểu hiện của  
giảng viên khi tương tác với thông tin, kết quả  
nghiên cứu đề xuất bốn loại hành vi nổi bật,  
đó là: HVTT cá nhân, HVTT phối hợp, HVTT  
hỗn hợp và HVTT phức hợp. Phân tích kết  
quả khảo sát cho thấy, từ 447 phiếu trả lời  
của giảng viên - 39,1% số giảng viên được  
hỏi có HVTT phối hợp, chiếm tỷ lệ cao nhất.  
Có 26,2% giảng viên cho rằng HVTT của họ  
là HVTT cá nhân, nghĩa là họ tìm kiếm, sử  
dụng thông tin một cách độc lập và chủ động,  
trong khi có 16.1% giảng viên có HVTT hỗn  
hợp và 18% có HVTT phức hợp.  
Kết quả phỏng vấn giảng viên tại các  
trường đại học trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh  
cho thấy, sự hỗ trợ từ phía thư viện là rất  
cần thiết và hữu ích đối với các giảng viên  
trong việc tìm kiếm tài liệu và tổ chức, sắp  
xếp thông tin.  
Từ thực tiễn nghiên cứu HVTT của giảng  
viên tại các trường đại học ở Tp. Hồ Chí Minh  
cho thấy HVTT của giảng viên như sau:  
Như vậy, xét ở góc độ nhất định, thì HVTT  
của giảng viên vừa mang tính chủ động của  
từng giảng viên, đồng thời vừa có sự tương  
tác trước, trong hoặc sau khi tìm kiếm thông  
tin, cũng như tổ chức, sử dụng và chia sẻ  
thông tin.  
- Thứ nhất, HVTT của giảng viên tại các  
trường đại học ở Tp. Hồ Chí Minh thể hiện  
qua sự khác biệt của từng cá nhân giảng  
viên, đặc điểm nhu cầu tin của giảng viên,  
hành vi tìm kiếm, sử dụng và chia sẻ thông  
tin của giảng viên;  
1.4. Hành vi thông tin phức hợp  
Mỗi cá nhân giảng viên có khả năng thực  
hiện đồng thời nhiều hoạt động trong cùng  
một thời điểm. Điều này có thể hiểu là HVTT  
phức hợp, nghĩa là tập hợp các hành vi mà  
giảng viên thực hiện đồng thời trong cùng  
một thời điểm. Chẳng hạn, khi nhu cầu tin  
nảy sinh, giảng viên sẽ kết hợp tìm kiếm  
thông tin. Cùng với quá trình tìm kiếm thông  
tin, họ sẽ chọn lọc những thông tin phù hợp  
và tiến hành lưu trữ, sử dụng. Hành vi này  
thường được thực hiện bởi những giảng viên  
có ít thời gian để tìm và sử dụng thông tin.  
Ví dụ, khi giảng viên viết bài tạp chí về một  
vấn đề cụ thể, họ đồng thời vừa tìm tin, vừa  
chọn lọc và sử dụng thông tin trong bài viết  
của mình. Ngoài ra, một số kết quả khảo sát  
cũng cho thấy, khi giảng viên tìm kiếm thông  
tin về vấn đề cụ thể, họ có khuynh hướng lưu  
trữ thông tin trong bộ sưu tập cá nhân, đồng  
thời đọc và sử dụng những thông tin phù hợp  
cho mục đích cụ thể. Sau đó, họ tiếp tục tìm  
những thông tin khác.  
- Thứ hai, HVTT của giảng viên chịu tác  
động từ rất nhiều yếu tố khác nhau, trong đó,  
vai trò của giảng viên là yếu tố quyết định  
và ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành  
nhu cầu tin của giảng viên, đồng thời thúc  
đẩy giảng viên tìm kiếm, sử dụng và chia  
sẻ thông tin. Cụ thể, nhu cầu tin được hình  
thành dựa trên yêu cầu của hoạt động giảng  
dạy và nghiên cứu khoa học. Đồng thời, quỹ  
thời gian của giảng viên tác động rất lớn đến  
hành vi tìm kiếm, sử dụng và chia sẻ thông  
tin của giảng viên;  
- Thứ ba, xuất phát từ việc nhận thức về  
vai trò của giảng viên trong giảng dạy, nghiên  
cứu khoa học, tự học hay phục vụ cộng đồng,  
ngoài việc chủ động tìm kiếm thông tin, mỗi  
giảng viên còn có sự phối hợp, hỗ trợ lẫn  
nhau trong quá trình tìm kiếm, sử dụng và  
chia sẻ thông tin với đồng nghiệp, bạn bè,  
người học và cộng đồng khoa học nói chung.  
Chính sự phối hợp này góp phần hình thành  
20  
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 2/2018  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
một số loại HVTT của giảng viên bao gồm:  
HVTT cá nhân, HVTT phối hợp, HVTT hỗn  
hợp và HVTT phức hợp. Trong đó, HVTT  
phối hợp của giảng viên được xem là loại  
hành vi phổ biến trong quá trình giảng viên  
tìm kiếm và sử dụng thông tin.  
thể, giảng viên có khả năng nhận diện và  
giới hạn được phạm vi thông tin mà mình cần  
(nội dung, loại hình, ngôn ngữ phù hợp với  
nhu cầu tin).  
Giảng viên có khả năng định hướng nguồn  
thông tin và chọn lọc thông tin để tiết kiệm  
thời gian, công sức của mình. Đặc biệt, các  
nguồn thông tin được nhiều giảng viên lựa  
chọn là đồng nghiệp và Internet.  
Nhằm góp phần khai thác tối đa giá trị  
của thông tin, hỗ trợ giảng viên thực hiện  
vai trò, nhiệm vụ của mình, những phân tích  
trên chính là cơ sở đề xuất những giải pháp  
nhằm hoàn thiện HVTT của giảng viên trong  
những nội dung nghiên cứu tiếp theo.  
Tuy nhiên, kết quả khảo sát HVTT của  
giảng viên tại các trường đại học ở Tp. Hồ  
Chí Minh cho thấy bên cạnh những ưu điểm,  
HVTT của giảng viên vẫn còn những hạn chế  
cần có những giải pháp để hoàn thiện hơn.  
2. Một số ưu điểm, hạn chế về hành vi  
thông tin của giảng viên  
Trước hết, quá trình nhận diện nhu cầu  
tin, hành vi tìm kiếm, sử dụng và chia sẻ  
thông tin của giảng viên có một vài điểm nổi  
bật tạo nên những đặc trưng trong HVTT của  
giảng viên. Những điểm mạnh này góp phần  
hoàn thiện HVTT của giảng viên trong hoạt  
động giảng dạy, nghiên cứu khoa học và tự  
học của mình.  
Quỹ thời gian của giảng viên đối với hoạt  
động tìm kiếm và sử dụng thông tin là rào  
cản ảnh hưởng rất lớn đến HVTT của giảng  
viên. Bởi lẽ, mỗi giảng viên cần có sự phân  
bổ chủ động và hợp lý thời gian đồng thời  
cho việc thực hiện nhiều vai trò, nhiệm vụ  
khác nhau và thời gian dành cho hoạt động  
tìm kiếm, sử dụng thông tin.  
Giảng viên có trình độ chuyên môn cao.  
Giảng viên tại các trường đại học ở Tp. Hồ  
Chí Minh có trình độ chuyên môn phù hợp,  
đáp ứng yêu cầu đào tạo và nghiên cứu khoa  
học của nhà trường. Phần lớn giảng viên đạt  
tối thiểu trình độ thạc sỹ, có một số ít giảng  
viên đang trong giai đoạn học tập nâng cao  
trình độ để phục vụ đào tạo và nghiên cứu  
khoa học của nhà trường.  
Khả năng tận dụng và khai thác tối đa hiệu  
quả đa dạng nguồn thông tin của giảng viên  
còn nhiều hạn chế. Mặc dù đã sử dụng các  
nguồn thông tin quen thuộc, đáp ứng được  
một phần nhu cầu tin của mình, giảng viên  
vẫn chưa khai thác đầy đủ giá trị các nguồn  
thông tin khác, như: thư viện trường đại học  
nơi giảng viên đang công tác, thư viện của  
hệ thống các trường đại học, thư viện khác  
trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh. Đặc biệt, tiêu  
chí lựa chọn nguồn thông tin quen thuộc  
cũng tạo nên sự thiếu chủ động và ngại thay  
đổi trong HVTT của giảng viên, do vậy, làm  
hạn chế khả năng mở rộng phạm vi tiếp cận  
các nguồn thông tin khác mà trước đó giảng  
viên chưa từng sử dụng.  
Năng lực sử dụng ngoại ngữ và kỹ năng  
tin học, sử dụng công nghệ của giảng viên  
tương đối tốt. Đây là điều kiện thuận lợi giúp  
giảng viên có thể tìm kiếm, chọn lọc, khai  
thác và sử dụng đa dạng nguồn tài nguyên  
thông tin khác nhau (loại hình tài liệu, cách  
thức tìm kiếm thông tin, khả năng sử dụng  
hệ thống tìm tin, khả năng tiếp cận, sử dụng  
thông tin bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau  
trong tìm kiếm, sử dụng và chia sẻ thông tin).  
Giảng viên gặp một vài khó khăn trong  
quá trình lưu trữ, tổ chức, sắp xếp tài liệu  
trong bộ sưu tập cá nhân. Đôi khi, giảng  
viên cũng gặp khó khăn khi tìm kiếm thông  
tin trong chính bộ sưu tập của mình. Một số  
Giảng viên có khả năng định hướng và  
xác định nhu cầu tin một cách rõ ràng. Cụ  
21  
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 2/2018  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
giảng viên cũng cần đến sự hỗ trợ của thư  
viện trường trong quá trình xử lý và tổ chức  
bộ sưu tập cá nhân mà giảng viên có được  
(tủ sách cá nhân, thư viện tư nhân).  
viện đại học, các giảng viên có thể khai thác,  
sử dụng hiệu quả và nâng cao chất lượng  
giảng dạy và nghiên cứu của mình. Giải  
pháp này đòi hỏi ý thức xuất phát từ chính  
mỗi giảng viên khi giảng viên cho rằng, thư  
viện đại học chưa thoả mãn được nhu cầu  
tin của mình do vốn tài liệu hạn chế, không  
gian chật hẹp, thái độ cán bộ thư viện không  
phù hợp,... Điều này có nghĩa là giảng viên  
cần chủ động đề nghị thư viện đại học có  
những biện pháp điều chỉnh, thay đổi và hỗ  
trợ kịp thời. Hay nói cách khác, chỉ khi giảng  
viên đánh giá cao về tầm quan trọng và vai  
trò của thư viện đại học trong quá trình mỗi  
giảng viên thực hiện nhiệm vụ trong nhà  
trường thì thư viện đại học mới hiểu rõ và có  
thể tác động tích cực, góp phần hoàn thiện  
HVTT của giảng viên.  
Sự phối hợp trong HVTT của giảng viên  
chưa biểu hiện rõ nét. Cụ thể, bắt đầu từ khi  
giảng viên hình thành nhu cầu tin, xác định  
nguồn thông tin, tra cứu trong hệ thống tìm  
tin cho đến khi xử lý, sử dụng thông tin, hầu  
hết giảng viên đều thực hiện một cách ngẫu  
nhiên và không có chiến lược cụ thể. Chẳng  
hạn, chỉ khi chưa tìm được thông tin cần  
thiết, giảng viên mới nhờ sự hỗ trợ của đồng  
nghiệp, bạn bè trong và ngoài nhà trường.  
Điều này đôi khi ảnh hưởng đến hiệu quả  
tìm kiếm và sử dụng thông tin của giảng  
viên, gây mất nhiều thời gian và công sức  
của giảng viên.  
Bên cạnh đó, đặc thù của HVTT của giảng  
viên cũng mang tính phối hợp giữa giảng viên  
và các đồng nghiệp trong quá trình tìm kiếm,  
chia sẻ thông tin. Do vậy, mỗi giảng viên cần  
chủ động xây dựng và phát triển mối quan  
hệ liên cá nhân của giảng viên trong phạm vi  
nhà trường và trong cộng đồng chuyên môn  
cùng lĩnh vực. Điều này rất có ý nghĩa đối  
với quá trình giảng viên tìm kiếm thông tin để  
phục vụ nhu cầu giảng dạy và nghiên cứu, tự  
học của mình.  
3. Giải pháp hoàn thiện hành vi thông  
tin của giảng viên  
Xuất phát từ những hạn chế nêu trên,  
bài viết trình bày một số giải pháp cơ bản  
nhằm hoàn thiện HVTT của giảng viên tại  
các trường đại học ở Tp. Hồ Chí Minh. Có  
3 nhóm giải pháp chính nhằm hoàn thiện  
HVTT của giảng viên, bao gồm: nhóm giải  
pháp đối với mỗi giảng viên, nhóm giải pháp  
đối với nhà trường và nhóm giải pháp đối với  
thư viện đại học.  
Đối với các trường đại học, một số giải  
pháp cần thực hiện để góp phần hoàn thiện  
HVTT của giảng viên bao gồm hoàn thiện  
môi trường làm việc của giảng viên tại các  
trường đại học ở Tp. Hồ Chí Minh. Môi  
trường làm việc của nhà trường sẽ góp phần  
hình thành hành vi của giảng viên đối với nhà  
trường, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ  
được giao. Đồng thời, nhà trường cần quan  
tâm xây dựng chính sách hỗ trợ về mặt tinh  
thần và tài chính cho giảng viên trong giảng  
dạy và nghiên cứu khoa học. Để thực hiện  
nhóm giải pháp này, Ban Giám hiệu các  
trường đại học cần có những biện pháp cụ  
thể như đưa ra các chính sách khen thưởng,  
Đối với mỗi giảng viên, vấn đề nâng cao  
nhận thức của giảng viên về vai trò của thư  
viện đại học đến hoạt động giảng dạy, nghiên  
cứu và tự học là một trong những giải pháp  
cần được thực hiện. Đây là một giải pháp  
tương đối khó thực hiện trong bối cảnh các  
trường đại học hiện nay, do giảng viên chưa  
đánh giá cao vai trò của thư viện đại học.  
Điều này có thể xuất phát từ quan điểm,  
nhận thức và cách đánh giá chủ quan của  
giảng viên. Chính vì vậy, để thực hiện được  
giải pháp này, mỗi giảng viên cần tự ý thức  
được những lợi ích mà thư viện đại học có  
thể mang đến cho giảng viên. Chẳng hạn,  
thông qua nguồn lực thông tin của các thư  
22  
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 2/2018  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
hỗ trợ chi phí cho các công trình khoa học,  
bài viết được đăng tải trên các tạp chí có uy  
tín trong nước và quốc tế. Đối với giảng viên,  
đây cũng là động lực giúp giảng viên hình  
thành và phát huy năng lực nghiên cứu khoa  
học của bản thân. Ngoài ra, các trường đại  
học cũng cần hướng đến xây dựng tiêu chí  
đánh giá giảng viên, trong đó bao gồm đánh  
giá năng lực thông tin của giảng viên (nhu  
cầu tin, hành vi tìm kiếm thông tin và chia sẻ  
thông tin của giảng viên).  
đề mà giảng viên đang quan tâm; quảng bá  
các nhóm dịch vụ hỗ trợ nghiên cứu như  
cung cấp số liệu nghiên cứu, dữ liệu thứ cấp  
theo chủ đề mà giảng viên đang nghiên cứu  
bằng cách các thư viện đại học có thể liên  
kết với các tổ chức, cá nhân, thư viện, cơ  
quan thông tin liên quan. Những biện pháp  
đòi hỏi các thư viện đại học mất rất nhiều  
thời gian và nguồn nhân lực để phục vụ. Tuy  
nhiên, với đặc trưng HVTT của giảng viên tại  
các trường đại học hiện nay cho thấy, cần  
thực hiện giải pháp trên để kích thích giảng  
viên có thể tiếp cận đến các nguồn lực thông  
tin của thư viện nhiều hơn.  
Đối với thư viện các trường đại học, một  
số nhóm giải pháp cần được thực hiện nhằm  
hoàn thiện HVTT của giảng viên nói riêng,  
HVTT của người dùng tin trong thư viện đại  
học nói chung. Các thư viện đại học cần chủ  
động nghiên cứu nhu cầu tin của giảng viên;  
tăng cường vốn tài liệu phục vụ nhu cầu tin  
của giảng viên; hoàn thiện chất lượng và đa  
dạng hoá sản phẩm, dịch vụ TT-TV; tăng  
cường hoạt động quảng bá của thư viện  
đại học đối với giảng viên; xây dựng không  
gian phục vụ giảng viên; phát triển đội ngũ  
cán bộ thư viện hỗ trợ giảng viên; phối hợp  
xây dựng hệ thống liên thư viện với khoa,  
bộ môn; ... Điều quan trọng đối với các thư  
viện đại học là cần xác định giải pháp cốt  
lõi và khả thi để hoàn thiện HVTT của giảng  
viên. Các thư viện đại học cần chú trọng đến  
nhóm giải pháp quảng bá nguồn lực thông tin  
của thư viện đến với giảng viên. Mặc dù các  
thư viện đại học hiện nay cũng đã quan tâm  
rất nhiều cho hoạt động quảng bá đến người  
dùng tin nói chung, giảng viên nói riêng, tuy  
nhiên, số lượng giảng viên khai thác và sử  
dụng nguồn lực thông tin của thư viện chưa  
cao. Chính vì vậy, thư viện đại học cần  
xác định, xây dựng, phát triển và quảng bá  
những thế mạnh của mình đến giảng viên.  
Chẳng hạn, các thư viện đại học có thể xây  
dựng “Bộ sách lưu động” trực tiếp đến các  
giảng viên tại các khoa; phát triển các sản  
phẩm, dịch vụ gắn liền với hoạt động giảng  
dạy và nghiên cứu khoa học của giảng viên  
như tổ chức, cung cấp tài liệu theo chuyên  
Kết luận  
Nhìn chung, HVTT của giảng viên có  
những đặc trưng riêng biệt mang yếu tố cá  
nhân hay phối hợp. Tuy nhiên, việc hoàn  
thiện HVTT cần có sự tác động tích cực và  
toàn diện hơn từ phía bản thân mỗi giảng  
viên, từ nhà trường và từ các thư viện đại  
học, trong đó vai trò của thư viện là vô cùng  
quan trọng. Khi HVTT của mỗi giảng viên  
hoàn thiện sẽ là nhân tố thúc đẩy giảng viên  
thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, thúc đẩy  
sự phát triển chung của các trường đại học  
và góp phần nâng cao chất lượng trong nhà  
trường.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Poltrock, S., Grudin, J., Dumais, S. T.,  
Fidel, R., Bruce, H., and Pejtersen, A. M. (2003).  
Information seeking and sharing in design teams.  
In Proceedings of ACM Group Conference, pp.  
239-247, Sanibel Islands, FL.  
2. Hansen, P.  
Collaborative Information Retrieval in an  
information-intensive domain. Information  
&
Järvelin, K. (2005).  
Processing and Management, 41(5), 1101-1119.  
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 16-10-2017;  
Ngày phản biện đánh giá: 20-01-2018; Ngày  
chấp nhận đăng: 25-02-2018).  
23  
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 2/2018  
pdf 7 trang Hứa Trọng Đạt 09/01/2024 360
Bạn đang xem tài liệu "Hành vi thông tin của giảng viên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfhanh_vi_thong_tin_cua_giang_vien.pdf