Cách mạng công nghiệp 4.0 và vai trò của Internet kết nối vạn vật (Iot) trong triển vọng ứng dụng vào hoạt động của các thư viện ở Việt Nam

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 VÀ VAI TRÒ CỦA INTERNET KẾT NỐI VẠN VẬT (IOT)  
TRONG TRIỂN VỌNG ỨNG DỤNG VÀO HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC THƯ VIỆN Ở VIỆT NAM  
Trương Minh Hòa  
Trường Chính sách công và Quản lý, Đại học Fulbright Việt Nam (FUV)  
Tóm tắt: Điểm lại quá trình định hình và phát triển của các cuộc cách mạng công nghiệp trong  
lịch sử, đặc biệt cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư (CMCN 4.0), diễn ra trên thế giới, trong đó  
nhấn mạnh vai trò quan trọng của Internet kết nối vạn vật (IoT) trong lĩnh vực thư viện. Thông qua  
đó, đưa ra một số triển vọng trong việc ứng dụng IoT vào hoạt động của các thư viện ở Việt Nam.  
Từ khóa: Cách mạng công nghiệp; Internet; IoT; thư viện.  
Industry 4.0 and the role of Internet of Things (IoT)  
Abstract: The article provides overview on the establishment and development of industrial  
revolutions in the world, especially Industrial Revolution 4.0 (Industry 4.0). It then analyzes the  
important role of Internet of Things (IoT) and the prospect of IoT application in library activities in  
Vietnam.  
Keywords: Industrial Revolution; Internet; IoT; library.  
1. Giới thiệu  
Kỳ, châu Âu và một phần châu Á mà ngay  
cả các nước đang phát triển như Việt Nam.  
Theo Schwab (2015), tốc độ đột phá của  
CMCN 4.0 hiện nay là không có tiền lệ lịch  
sử; đang tiến triển theo một hàm số mũ  
chứ không phải tốc độ tuyến tính; phá vỡ  
hầu hết ngành công nghiệp ở mọi quốc gia;  
báo trước sự chuyển đổi của toàn bộ hệ  
thống sản xuất, quản lý và quản trị. CMCN  
4.0 đã, đang và sẽ diễn ra trên ba lĩnh vực  
chính là: Công nghệ sinh học, Kỹ thuật số  
và Vật lý. Trong đó, những yếu tố cốt lõi  
của lĩnh vực Kỹ thuật số chính là Internet  
kết nối vạn vật (Internet of Things - IoT),  
Trí tuệ nhân tạo (Antificial Intelligence - AI),  
Trong vài năm trở lại đây, thuật ngữ Cách  
mạng Công nghiệp 4.0 (gọi tắt là CMCN  
4.0) đang trở thành từ khóa phổ biến trong  
các biểu thức tìm tin và là chủ đề thời sự  
cho những thảo luận cả về chuyên môn  
lẫn đại chúng, đặc biệt là từ sau Diễn đàn  
Kinh tế Thế giới (WEF) được tổ chức tại  
Davos-Klosters (Thụy Sĩ) với chủ đề “Cuộc  
CMCN lần thứ 4”. Tìm kiếm trên Google  
cho thấy, thuật ngữ này có tới hơn 81 triệu  
kết quả đối với tiếng Việt và hơn 144 triệu  
đối với tiếng Anh1, điều này đã chứng tỏ  
mức độ quan tâm đáng kể của người dân  
không chỉ ở các nước phát triển như Hoa  
1
Kết quả tìm trên Google vào ngày 15/6/2017 khi gõ cụm từ “CN 4.0” và “4.0 industry”.  
27  
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2018  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
và Dữ liệu lớn (Big Data). Khái niệm IoT  
từ khi được Kevin Ashton đưa ra lần đầu  
tiên vào năm 1999, gắn liền với công  
nghệ Nhận dạng tần số vô tuyến (Radio  
Frequency Identification- gọi tắt là RFID)  
[Ashton, 2009] đã được ứng dụng rộng  
rãi trong một số lĩnh vực từ sản xuất, giao  
thông, logistic, chăm sóc sức khỏe,... đến  
lĩnh vực thư viện. Hiện nay, IoT đang mở ra  
những tiềm năng to lớn để ứng dụng vào  
các hoạt động của thư viện, nó đã trở thành  
một trong những chủ đề ưa thích đối với  
cộng đồng những người làm nghề thư viện  
[ALA, 2017]. IoT còn mang lại ý nghĩa cho  
những người làm thư viện muốn học tập  
công nghệ mới này, đợi đến khi công nghệ  
được chấp nhận rộng rãi, được áp dụng và  
sẵn sàng để triển khai tốt hơn trong các thư  
viện [Pujar, 2015, tr. 190]. Bài nghiên cứu  
điểm lại quá trình định hình của các cuộc  
cách mạng công nghiệp trong lịch sử, đặc  
biệt cuộc CMCN 4.0 đã làm thay đổi toàn  
diện xã hội con người; tập trung phân tích  
vai trò của IoT; và triển vọng của việc ứng  
dụng vào các hoạt động của thư viện Việt  
Nam.  
và kết cấu xã hội” [Cục TT KH&CN QG,  
2017, tr. 2]. Những thập niên đầu thế kỷ 21,  
nhân loại đang đứng trước cơ hội của một  
cuộc CMCN mà về cơ bản, quy mô, phạm  
vi và sự phức tạp của nó sẽ thay đổi cách  
thức chúng ta sống, làm việc và liên hệ với  
nhau. Sự chuyển đổi đó sẽ không giống với  
bất kỳ sự chuyển đổi nào mà nhân loại đã  
từng trải qua [Schwab, 2015].  
Cách mạng Công nghiệp lần thứ  
Nhất (CMCN 1.0)  
Cuộc CMCN 1.0 kéo dài từ cuối thế kỷ  
18 đến nửa đầu thế kỷ 19 đã châm ngòi  
cho sự bùng nổ của nền công nghiệp lan  
rộng từ Anh đến châu Âu và Hoa Kỳ, mở  
ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân  
loại - kỷ nguyên sản xuất cơ khí. CMCN  
1.0 đánh dấu bằng việc sử dụng nước và  
năng lượng hơi nước để cơ giới hóa sản  
xuất. Phát minh ra động cơ máy hơi nước  
và sau đó là động cơ đốt trong chạy bằng  
than đá, xây dựng các tuyến đường sắt để  
mở rộng giao thương. Đây là giai đoạn quá  
độ từ nền sản xuất nông nghiệp sang nền  
sản xuất cơ khí dựa trên cơ sở khoa học  
[Đăng Khoa, 2017].  
2. Quá trình định hình các cuộc Cách  
mạng Công nghiệp trong lịch sử và khái  
niệm Internet kết nối vạn vật (Internet of  
Things - IoT)  
Cách mạng Công nghiệp lần thứ  
Hai (CMCN 2.0)  
Cuộc CMCN 2.0 diễn ra từ nửa sau thế  
kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 khi có sự phát  
triển của ngành điện, vận tải, hóa học, sản  
xuất thép, và đặc biệt là sản xuất và tiêu  
dùng hàng loạt, được tích lũy qua quá trình  
phát triển 100 năm của các lực lượng sản  
xuất dựa trên cơ sở của nền sản xuất đại  
cơ khí và sự phát triển của KHKT [Cục TT  
KH&CN QG, 2017, tr. 2]. Máy phát điện,  
đèn điện và động cơ điện ra đời giúp con  
người chuyển sang nền sản xuất dựa trên  
sự kết hợp giữa điện và cơ khí để tự động  
hóa sản xuất cục bộ (tự động hóa một  
2.1. Các cuộc Cách mạng Công  
nghiệp (CMCN)  
Nói đến CMCN là nói đến “sự thay đổi  
mang tính đột biến và triệt để” mà nó mang  
lại trong các lĩnh vực kinh tế-xã hội, văn  
hóa và khoa học kỹ thuật. Quá trình định  
hình mỗi cuộc cách mạng trong từng giai  
đoạn đã phản ánh những đặc trưng căn bản  
trong sự thay đổi về bản chất của phương  
thức sản xuất và tư liệu sản xuất, từ đó làm  
“thay đổi sâu sắc trong hệ thống kinh tế  
28  
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2018  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
phần), biến khoa học thành một ngành lao  
động đặc biệt, tạo tiền đề cho sự ra đời  
của dây chuyền lắp ráp và sản xuất công  
nghiệp hàng loạt [Cục TT KH&CN QG,  
2017, tr. 2].  
Thuật ngữ “công nghiệp 4.0” (tiếng Đức  
là Industrie 4.0) bắt nguồn từ một dự án  
Chiến lược Công nghệ cao (the High-Tech  
Strategy) của chính phủ Đức để khuyến  
khích thúc đẩy tin học hóa sản xuất và lần  
đầu được sử dụng tại Hội chợ Hannover2.  
Theo Schwab (2015), CMCN 4.0 là một  
thuật ngữ bao gồm một loạt các công nghệ  
tự động hóa hiện đại, trao đổi dữ liệu và  
chế tạo. CMCN 4.0 được định nghĩa là  
“một cụm thuật ngữ cho các công nghệ và  
khái niệm của tổ chức trong chuỗi giá trị” đi  
cùng với hệ thống vật lý trong không gian  
ảo, Internet kết nối vạn vật (IoT) và Internet  
của các dịch vụ (IoS) [Cục TT KH&CN QG,  
2017, tr. 6]. CMCN 4.0 sẽ diễn ra trong  
3 lĩnh vực chính là: Công nghệ sinh học,  
Kỹ thuật số và Vật lý. Chúng dung hợp  
và tương tác với nhau làm mờ đi ranh giới  
giữa 3 lĩnh vực này. Bản chất của CMCN  
4.0 là dựa trên sự kết hợp giữa nền tảng  
công nghệ thực (máy móc) với công nghệ  
ảo (mạng Internet) để tối ưu hóa quy trình  
và phương thức sản xuất trong các “nhà  
máy thông minh” hay “nhà máy số” [Cục  
TT KH&CN QG, 2017, tr. 6]. Khác biệt lớn  
nhất của CMCN 4.0 so với 3 cuộc CMCN  
trước đó là ở: 1) Tốc độ (tiến triển với một  
tốc độ theo cấp lũy thừa, chứ không phải là  
tốc độ tuyến tính), 2) Phạm vi và chiều sâu  
(CMCN 4.0 dựa trên CMCN 3.0 và kết hợp  
nhiều công nghệ dẫn đến những thay đổi  
chưa có tiền lệ trong mô hình kinh tế, kinh  
doanh, xã hội và cá nhân), và 3) Tác động  
hệ thống (CMCN 4.0 bao gồm sự chuyển  
đổi của toàn bộ hệ thống, trên khắp (và  
giữa) các quốc gia, các công ty, các ngành  
công nghiệp và toàn thể xã hội [Schwab,  
2016, tr. 8-9].  
Cách mạng Công nghiệp lần thứ Ba  
(CMCN 3.0)  
Cuộc CMCN 3.0 xuất hiện từ những  
thập niên 60 của thế kỷ 20, với sự ra đời  
và lan tỏa mạnh mẽ của công nghệ thông  
tin (CNTT), kết hợp điện tử và CNTT để tự  
động hóa sản xuất. CMCN 3.0 còn được  
gọi là CM máy tính hay CM số, sử dụng  
các chất bán dẫn, siêu máy tính, máy tính  
cá nhân và mạng Internet [Cục TT KH&CN  
QG, 2017, tr. 3]. Điểm khác biệt chính của  
CMCN 3.0 so với hai cuộc CMCN trước đó  
là việc sử dụng KH&CN hiện đại để thay  
thế chức năng lao động trí óc và chân tay  
của con người bằng máy móc tự động hóa  
trong quá trình sản xuất nhất định. Với  
việc phát minh ra năng lượng hạt nhân và  
năng lượng nhiệt hạch làm cho lực lượng  
sản xuất thay đổi theo hai hướng chủ yếu:  
1) Về chức năng, vị trí của con người trong  
sản xuất, dịch chuyển từ nền tảng điện-  
cơ khí sang cơ-điện tử và cơ-vi điện tử,  
2) Sản xuất dựa trên các ngành có hàm  
lượng công nghệ cao như: công nghệ nano,  
công nghệ vật liệu, công nghệ sinh học,  
công nghệ vũ trụ,... có tính bền vững và  
thân thiện với môi trường [Cục TT KH&CN  
QG, 2017, tr. 3].  
Cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư  
(CMCN 4.0)  
Cuộc CMCN 4.0 định hình vào những  
năm đầu thế kỷ 21, dựa trên nền tảng và  
những tiến bộ công nghệ của CMCN 3.0.  
2
Hội chợ hàng đầu thế giới về công nghệ và công nghiệp, là sự kiện lớn nhất và quan trọng nhất của ngành, được tổ chức thường niên bởi  
công ty Deutsche Messe AG (CHLB Đức).  
29  
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2018  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
Hình 1. Internet of Things (IoT)  
Nguồn: Khương Nha - Duy Tín, 2017 [10].  
2.2. Khái niệm Internet kết nối vạn  
vật- IoT  
nhau thông qua mạng Internet để tương tác  
với con người, và người ta gọi đó là Internet  
kết nối vạn vật - Internet of Things (IoT).  
Theo Panetta (2017), tương lai của các ứng  
dụng trên nền tảng IoT thật sự chỉ mới bắt  
đầu. Trong 5-10 năm tới, IoT sẽ chạm đến  
đỉnh của ngưỡng triển vọng ứng dụng nền  
tảng này vào thực tế (Hình 2).  
Ngày nay, Internet đóng một vai trò cực  
kỳ quan trọng và gần như không thể thiếu  
trong mọi lĩnh vực của cuộc sống con người,  
đặc biệt là trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0  
đang diễn ra trên khắp toàn cầu. Mức độ  
ứng dụng và phạm vi kết nối đến tất cả các  
vật thể với mạng Internet ngày càng sâu  
rộng, giúp tiết kiệm chi phí và thời gian  
trong hầu hết các lĩnh vực, như: logistics,  
bảo hiểm, chăm sóc sức khỏe, ngân hàng,  
nông nghiệp, khách sạn,... và trong cả lĩnh  
vực thư viện thông qua các ứng dụng trên  
điện thoại thông minh (smartphone). Theo  
Hiệp hội Thư viện Hoa Kỳ [ALA, 2017],  
dự báo đến năm 2025 sẽ có khoảng từ 25  
tỷ đến 50 tỷ thiết bị khác nhau kết nối với  
Internet, như: điện thoại di động, đồng hồ  
thông minh, máy tính bảng, sách báo, xe  
hơi, máy giặt, máy lạnh, đèn, giày dép,  
quần áo,... được gắn các thiết bị nhận dạng,  
các cảm biến (sensors), có thể giao tiếp với  
Hiện tại, việc đưa ra một định nghĩa thống  
nhất về IoT là một thách thức, một mặt là do  
sự mới mẻ của lĩnh vực này, mặt khác, có  
quá nhiều các dịch vụ và ứng dụng khác  
nhau về IoT mà các kỹ sư công nghệ có thể  
dự báo được [Hahn, 2017, tr. 5].  
Theo Từ điển Công nghệ mở Techopedia  
(2017): “IoT là một khái niệm về máy tính  
mô tả ý tưởng về các vật thể vật lý hàng  
ngày được kết nối với mạng Internet và có  
thể nhận dạng được chính nó với các thiết  
bị khác. Thuật ngữ này được đồng nhất với  
công nghệ RFID như một cách truyền tin,  
bao gồm công nghệ cảm biến, công nghệ  
không dây và mã QR khác”.  
30  
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2018  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
Hình 2. Chu kỳ tăng trưởng của các công nghệ mới nổi, 2017  
Nguồn: Gartner (05/2018)  
Hype-Cycle-for-2017_Infographic_R6A.jpg.  
Từ điển Oxford (2017) cho rằng: “IoT  
là sự kết nối của các thiết bị máy tính với  
các vật thể hàng ngày cho phép chúng gởi  
và nhận dữ liệu với nhau thông qua mạng  
Internet”.  
Theo trang TechTarget3 (2017): “IoT là  
một hệ thống các thiết bị máy tính tương  
quan với nhau, máy móc cơ khí và kỹ thuật  
số, các vật thể, động vật hay con người  
được cung cấp các nhận dạng duy nhất  
và khả năng truyền dữ liệu thông qua một  
mạng lưới kết nối mà không cần sự tương  
tác giữa con người - con người hay con  
người - máy tính”.  
mạng Internet có thể thu thập và trao đổi dữ  
liệu bằng cách gắn các cảm biến” [Meola,  
2016]. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia  
(2017) đã viết: “IoT là sự liên kết các thiết  
bị vật lý, các phương tiện (còn được gọi là  
“thiết bị kết nối” và “thiết bị thông minh”),  
các công trình kiến trúc, và các vật khác  
gắn với điện tử, phần mềm, cảm biến, thiết  
bị điều tiết (actuator), và kết nối mạng cho  
phép các vật thể này thu thập và trao đổi  
dữ liệu”.  
Có thể thấy rằng, các định nghĩa về IoT  
dù có những sự khác biệt nhất định nhưng  
cùng khái quát được 03 nội dung cốt lõi,  
đó là 1) một vật thể thông thường được  
gắn với 2) một thiết bị nhận dạng để 3)  
Theo Business Insider: “IoT là một  
mạng lưới các vật thể được kết nối với  
3
Mạng giao lộ trực tuyến uy tín hàng đầu thế giới của những người mua sắm công nghệ, mục tiêu hướng đến nội dung và các nhà cung  
cấp công nghệ trên khắp toàn cầu.  
31  
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2018  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
a. Dịch vụ định vị, truy cập vào thư viện  
và các dịch vụ thư viện  
truyền và nhận dữ liệu thông qua kết nối  
mạng Internet. Trong bài viết này, vai trò  
và ứng dụng của IoT vào các hoạt động  
của thư viện cũng sẽ đề cập dựa trên các  
nội dung đó.  
3. Vai trò của Internet of Things (IoT)  
và triển vọng ứng dụng vào hoạt động  
của các thư viện ở Việt Nam  
IoT cho phép người sử dụng, thông  
qua các ứng dụng di động chạy trên  
smartphone, kết nối với hệ thống định  
vị toàn cầu (Global Positioning System  
- GPS) để lấy và phân tích dữ liệu, từ đó  
cung cấp chính xác vị trí của các tòa nhà  
thư viện gần nhất mà người đọc có thể tiếp  
cận đến nhanh nhất [Hahn, 2017, tr. 8].  
Các thư viện cũng có thể tạo ra một “thẻ  
thư viện ảo” cho phép người đọc sử dụng  
thư viện, truy cập vào các dịch vụ và tài  
nguyên có sẵn tại đây. Ứng dụng này sẽ  
cung cấp một bản đồ hướng dẫn xác định  
vị trí của các tài nguyên đó hoặc tự điều  
hướng tới một dịch vụ khác được cung cấp  
bởi một bên thứ ba. Đó có thể là các nhà  
cung cấp các ấn phẩm sách, báo, tạp chí,  
phim ảnh, thiết bị điện tử,… mà người đọc  
đang tìm kiếm hoặc muốn sử dụng. Nó còn  
cung cấp cho họ thông tin chi tiết về các  
sản phẩm này, giúp họ đưa ra các quyết  
định thay thế có nên tiếp tục mượn hoặc  
mua hay không. Người đọc tại nhà, hoặc tại  
nơi làm việc cũng có thể lựa chọn các danh  
mục tài liệu mà mình quan tâm và gửi yêu  
cầu đặt chỗ trước tới thư viện. Sau đó, khi  
người đọc vào thư viện để tìm kiếm thì ứng  
dụng trên điện thoại sẽ kết nối với các kệ  
sách số thông minh (smart digital shelves)  
để báo cho họ biết chính xác các tài liệu  
đó đang được xếp ở đâu trên kệ. Do đó, cả  
người dùng và thư viện sẽ tiết kiệm được  
thời gian, chi phí và xa hơn là thư viện cải  
thiện được dịch vụ để phục vụ tốt hơn cho  
người dùng tin [Pujar & Satyanarayana,  
2015, tr. 189].  
Trong xu hướng CMCN 4.0, vai trò của  
IoT đã có mặt ở hầu hết các lĩnh vực quan  
trọng trong sản xuất, kinh doanh, vận tải,  
khoa học, giải trí và cả cuộc sống hàng  
ngày của con người. Nó cũng mở ra một  
triển vọng đáng kể cho ngành TV-TT, đặc  
biệt là ứng dụng vào hoạt động của các  
thư viện. Trên thực tế, các thư viện chính là  
không gian lý tưởng để kết hợp và ứng dụng  
IoT vào việc quản lý các tài nguyên hữu  
hình như: sách, báo, băng đĩa ghi âm - ghi  
hình, máy in, máy photocopy, máy scan, kệ  
sách, máy tính, trang thiết bị hỗ trợ khác,...  
Các thư viện sẽ được hưởng lợi từ các ứng  
dụng này để làm tăng thêm giá trị cho các  
dịch vụ thư viện, từ đó mang lại những trải  
nghiệm mới cho người sử dụng. Hiện nay,  
việc sở hữu smartphone được cài đặt các  
ứng dụng di động (mobi-apps) đã trở nên  
phổ biến hơn đối với bạn đọc. Thông qua  
IoT, người dùng tin có thể tìm kiếm tài liệu,  
lựa chọn các dịch vụ mượn - trả, gia hạn  
tài liệu, hay truy cập vào các tài nguyên số  
của thư viện,... Đối với thư viện, vai trò của  
IoT trong quản lý có thể giúp tăng hiệu quả  
trong các khâu chọn lọc, bổ sung, thanh  
lọc vốn tài liệu, lưu trữ - bảo quản tài liệu,  
tìm tin - phổ biến thông tin, quản lý chặt  
chẽ việc kiểm kê kho và tài sản, đẩy mạnh  
lưu hành tài liệu, marketing sản phẩm và  
dịch vụ thông tin thư viện, chia sẻ thông  
tin/học liệu, đồng thời tạo ra môi trường tiện  
ích nhất để khuyến khích họ đến với thư  
viện và sử dụng các dịch vụ thư viện nhiều  
hơn. Do đó, triển vọng ứng dụng của IoT  
vào một số hoạt động của thư viện sẽ góp  
phần nâng cao chất lượng dịch vụ của các  
thư viện ở Việt Nam trong một số lĩnh vực:  
b. Quản lý vốn tài liệu  
IoT còn được áp dụng vào hoạt động  
quản lý vốn tài liệu bằng cách gắn các thẻ  
RFID (RFID tags) vào các tài liệu có trong  
thư viện. Các thư viện ở Việt Nam có lẽ đã  
trở nên quen thuộc với công nghệ RFID ra  
đời cách đây hơn 40 năm. Nó cho phép các  
thư viện quản lý, giám sát và lưu thông vốn  
32  
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2018  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
tài liệu từ xa dựa trên dữ liệu được lưu trữ  
khi thẻ RFID được gắn vào tài liệu và được  
giải mã dựa trên một thiết bị đọc chuyên  
dụng. Sự kết hợp giữa công nghệ RFID và  
IoT sẽ giúp tối ưu hóa các hoạt động lưu  
thông tài liệu, giảm thiểu rủi ro mất mát,  
thất lạc trong quá trình kiểm kê tài sản,  
thanh lọc - bổ sung và quản lý vốn tài liệu.  
Với thẻ thư viện có gắn RFID, người đọc sẽ  
được thông báo cho biết một tài liệu nào  
đó có bị trễ hạn hay không, trễ bao nhiêu  
ngày, với mức phí phạt là bao nhiêu,... mà  
không cần đến trực tiếp quầy lưu hành.  
Các kệ sách số thông minh cũng có thể  
cung cấp một số nội dung cơ bản của các  
tài liệu mà bạn đọc đang quan tâm dựa  
trên lịch sử tìm kiếm của người đó hoặc  
các giao dịch trong phiếu mượn - trả tài  
liệu [Pujar & Satyanarayana, 2015, tr. 188].  
Bên cạnh đó, khi đăng nhập vào tài khoản  
trên Facebook, Twitter hoặc LinkedIn đã  
được xác thực, người đọc có thể nhận được  
thông báo trên smartphone các tài liệu mà  
họ đang tìm kiếm có bao nhiêu cuốn, đã  
được mượn hay chưa [Pera, 2014], cũng  
như giúp thư viện dễ dàng xác định được  
các tài liệu bị xếp nhầm vị trí.  
virtual tours). Thư viện sẽ lắp đặt các đèn  
báo hiệu (beacons)4 ở một số điểm chính  
xung quanh thư viện, khi họ đến từng vị trí  
cụ thể, điện thoại của họ sẽ tự động phát ra  
các đoạn video, hình ảnh hoặc âm thanh,  
cung cấp thêm thông tin để họ biết và tận  
dụng tối đa các tiện ích mà khu vực đó mang  
lại. IoT cũng làm phong phú thêm các trải  
nghiệm thú vị khác khi bạn đọc muốn tiếp  
xúc với các bộ sưu tập đặc biệt, bị hạn chế  
tiếp cận như: các bản thảo chép tay, tài liệu  
cổ độc bản, các tác phẩm, tranh ảnh quý  
hiếm,… được trưng bày và bảo quản trong  
các hộp kính. Khi bạn đọc đến gần, toàn  
bộ nội dung của bộ sưu tập này sẽ hiển thị  
trên màn hình smartphone, hoặc máy tính  
bảng dưới định dạng số để họ tham khảo  
và trải nghiệm [Porter, 2014]. IoT còn được  
dùng để tải xuống các thông tin cập nhật  
của người sử dụng như trạng thái cảm xúc,  
thời gian biểu, nhật ký, các chủ đề quan  
tâm,... từ smartphone của họ, dựa vào đó,  
thư viện sẽ giới thiệu các khóa đào tạo phù  
hợp sau khi tổng hợp và phân tích thông  
tin, dữ liệu thu được [Wójcik, 2015, tr. 411].  
d. Marketing sản phẩm và dịch vụ thông  
tin thư viện trên nền tảng IoT  
c. Nâng cao năng lực thông tin  
IoT cũng mang lại tiềm năng to lớn trong  
việc marketing sản phẩm và dịch vụ thông  
tin thư viện đến với người dùng. Thông qua  
việc theo dõi và phân tích lịch sử tìm tin,  
dựa trên dữ liệu, biểu thức tìm, các từ khóa  
trong các máy tìm kiếm, thư viện có thể  
thiết lập một danh sách các chủ đề, tài liệu  
mà bạn đọc quan tâm để tổ chức tìm, tổng  
hợp và cung cấp thông tin, dữ liệu đúng  
với nhu cầu của người dùng. Bên cạnh đó,  
nếu không có nguồn thông tin, dữ liệu phù  
hợp, thư viện có thể tư vấn cho người đọc  
chuyển sang chọn lựa các nguồn tài liệu  
thay thế khác. IoT còn giúp các thư viện  
giới thiệu danh mục tài liệu mới, các dịch  
Trong CMCN 4.0, không chỉ người làm  
nghề TT-TV mà cả những người dùng tin sẽ  
phải đối mặt với xu thế bùng nổ thông tin  
và các nguồn dữ liệu lớn (Big Data). Xu thế  
này đòi hỏi họ phải có năng lực thông tin  
để nắm rõ nhu cầu thông tin của mình, từ  
đó vạch ra cách thức tìm kiếm, tổ chức lưu  
trữ, đánh giá và sử dụng thông tin một cách  
hiệu quả. Việc tìm kiếm thông tin có thể  
được thực hiện dựa vào hai hình thức, tìm  
trong môi trường vật lý, hoặc tìm trong môi  
trường số. Thông qua IoT, các thư viện có  
thể hướng dẫn cho người đọc trải nghiệm  
các “tour ảo tự hướng dẫn” (self-guided  
4
Beacon là thiết bị không dây sử dụng giao thức Bluetooth 4.0 (BLE-Bluetooth Low Energy) để phát các tín hiệu vô tuyến nhỏ xung quanh  
nó, cho phép Bluetooth 4.0 kích hoạt các thiết bị khác “giao tiếp” với nó trong phạm vi khoảng từ 7.6 cm lên đến 45 m (Mishra, R. (2014),  
changing-nature-of-beacons).  
33  
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2018  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
cùng lúc của nhiều người sử dụng di động  
trong một khu vực rộng lớn [Delicato, 2017,  
tr. 49]. Nhờ đó, cộng đồng người dùng tin  
và các thư viện ở những khu vực địa lý xa  
xôi có thể kết nối để cùng nhau đóng góp,  
chia sẻ và khai thác thông tin một cách  
hiệu quả, giúp giảm chi phí, qua đó thúc  
đẩy hợp tác, nâng cao hơn nữa nhận thức  
và trách nhiệm của cộng đồng.  
vụ phổ biến thông tin có chọn lọc (SDI)  
và dịch vụ tìm tin theo yêu cầu, hoặc hợp  
tác với các thư viện khác thông qua dịch  
vụ mượn liên thư viện (ILL), giới thiệu đến  
các nhà cung cấp để tìm phương án hỗ trợ  
người dùng tiếp cận tối đa đến các nguồn  
tài liệu này. IoT còn có thể tối đa hóa các  
quy trình công việc nội bộ của thư viện và  
phát triển các mô hình kinh doanh sáng tạo  
để đảm bảo thư viện là nơi thật sự lý tưởng,  
thu hút người sử dụng và các đối tác. Việc  
sử dụng sáng tạo các kỹ thuật marketing  
dựa trên IoT để quảng bá thư viện và tổ  
chức các sự kiện có thể giúp các thư viện  
xây dựng được hình ảnh như là một trung  
tâm thông tin hiện đại trong xu hướng mới  
[Wójcik, 2015, tr. 411].  
f. Quản lý trang thiết bị, cơ sở vật chất  
của thư viện  
IoT cho phép bạn đọc sở hữu thiết bị di  
động (bao gồm cả smartphone) khả năng  
tương tác với thư viện và sử dụng các trang  
thiết bị, cơ sở vật chất trong thư viện một  
cách dễ dàng. Thông qua ứng dụng di  
động, thư viện có thể cung cấp cho bạn  
đọc một thẻ thư viện ảo để mượn - trả sách,  
hoặc ra vào thư viện. Có lẽ trong tương lai,  
bạn đọc sẽ trở nên quen thuộc với việc  
nhận được các thông báo cho biết các tài  
liệu mà họ quan tâm hiện có trong thư viện  
hay không [Roullard, 2013]. IoT cũng giúp  
cho việc quản lý và sử dụng các trang thiết  
bị trong thư viện dễ dàng hơn, giúp thư viện  
và người dùng biết được tình trạng của các  
máy in, máy photocopy, máy scan, máy  
tính, máy chiếu, phòng đọc sách, phòng  
multimedia, số lượng chỗ ngồi còn trống và  
thậm chí kiểm soát ánh sáng của đèn hoặc  
máy điều hòa nhiệt độ,… từ đó giúp thư viện  
hướng dẫn người dùng lựa chọn các thiết  
bị có sẵn cho nhu cầu của họ. Các ứng  
dụng còn có thể giúp bạn đọc khiếm thị  
hoặc khuyết tật tìm thấy các khu vực có  
các trang thiết bị và tiện ích chuyên biệt  
dành cho họ [Porter, 2014]. Trong tương  
lai, với sự phổ biến của máy in 3D và máy  
in Espresso Book Machine (EBM), IoT sẽ  
góp phần làm nên cuộc cách mạng trong  
in ấn và xuất bản, theo đó, người sử dụng  
có thể tự do lựa chọn cách thức mua mới  
tài liệu hoặc mượn về nhà thông qua việc in  
trực tiếp sách qua máy in 3D hoặc máy in  
EBM mà không cần phải mượn theo cách  
truyền thống.  
e. Chia sẻ thông tin/học liệu  
Chia sẻ thông tin/học liệu đang trở thành  
một xu hướng hợp tác, thu hút sự quan tâm  
không chỉ giữa các thư viện mà còn ở cấp  
quốc gia, và thậm chí vượt ra khỏi ranh giới  
một quốc gia. IoT đã, đang và sẽ thúc đẩy  
cho quá trình này diễn ra một cách mạnh  
mẽ, nhanh chóng và hiệu quả hơn. Các  
thư viện hiện nay đang nỗ lực cùng hợp  
tác để tạo ra các cổng thông tin và các  
CSDL dùng chung. Hoạt động này thể hiện  
những nỗ lực trong việc mở rộng khả năng  
đáp ứng các nguồn thông tin đặc thù, đắt  
đỏ mà một thư viện hoặc người dùng đơn  
lẻ không có khả năng làm được [Walden,  
1999, trích trong Ali, 2010]. Thông qua IoT,  
các thiết bị di động như điện thoại thông  
minh, máy tính bảng kết hợp với điện toán  
đám mây, điện toán di động và mạng không  
dây tạo ra mô hình “điện toán đám mây di  
động” (mobile cloud computing - MCC).  
MCC lại kết hợp với “yếu tố địa lý” tạo ra  
một mô hình mới là “điện toán đám mây di  
động phân bố theo địa lý” (Geo-Distributed  
Cloud Computing - GMCC). Nền tảng  
GMCC này cho phép kết nối đến các trung  
tâm dữ liệu dùng chung và tài nguyên đám  
mây phân bố theo khu vực địa lý trở nên  
dễ dàng hơn, đáp ứng cho nhu cầu kết nối  
34  
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2018  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
Hình 3. Triển vọng ứng dụng IoT vào hoạt động của các thư viện  
Nguồn: Tác giả tổng hợp.  
Nhìn chung, mặc dù việc ứng dụng IoT  
đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu sử dụng và  
mang lại lợi ích tích cực cho người dùng.  
Xu hướng này được dự báo sẽ tiếp tục tăng  
lên trong tương lai và khi đó, vai trò của thư  
viện sẽ dần thay thế từ “Internet kết nối vạn  
vật (IoT)” sang “Thư viện kết nối vạn vật” -  
Library of Things (LoT).  
vào các hoạt động của thư viện đến nay  
còn hạn chế, nhưng nó mở ra tiềm năng  
to lớn, đồng thời cũng tạo ra thách thức  
không nhỏ, như: đầu tư hạ tầng kỹ thuật -  
công nghệ đồng bộ; an toàn dữ liệu và bảo  
mật thông tin cá nhân; năng lực tài chính;  
năng lực của đội ngũ nhân lực và những  
người dùng tin. Đặc biệt, trong môi trường  
Internet với các thiết bị số thông minh cho  
phép kết nối với mọi vật mà không bị giới  
hạn về không gian, thời gian. Từ lâu, thư  
viện là ngành được hưởng lợi từ sự phát  
triển của các KH&CN mới nổi khi nó được  
ứng dụng vào các hoạt động chuyên môn  
và quản lý, từ đó tạo ra các sản phẩm và  
dịch vụ TT-TV, các môi trường tương tác  
hiện đại cho việc nghiên cứu và học tập,  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. ALA, Center for the Future of Libraries  
(2017). “Internet of Things”. Trends, truy  
ala.org/transforminglibraries/future/trends/  
IoT  
2. ALA, Center for the Future of Libraries  
(2017). “How It’s Developing”.Internet of  
Things, truy cập ngày 19/06/2017 tại địa chỉ:  
future/trends/IoT  
35  
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2018  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
3. Ali,Hussainietal.(2010).ResourceSharing  
among Law Libraries: An Imperative for  
Legal Research and the Administration of  
Justice in Nigeria”. Library Philosophy and  
Practice 2010, truy cập ngày 21/06/2017  
edu/~mbolin/ali-owoeye-anasi.htm  
4. Ashton, Kevin (2009). “That ‘Internet of  
Things’ Thing: In the real world, things  
matter more than ideas”.RFID Journal, truy  
rfidjournal.com/articles/view?4986  
5. Cục Thông tin KH&CN Quốc gia (2017).  
Tổng luận: Cuộc Cách mạng Công nghiệp  
lần thứ 4.  
6. Delicato, Flávia C. et al. (2017). “Chapter  
5: The Activity of Resource Allocation”.  
Trong Resource Management for Internet  
of Things. NXB Springers, tr. 49.  
7. Hahn, Jim (2017). “Chapter 1: The Internet  
of Things: Mobile Technology and Location  
Services in Libraries”. Library Technology  
Reports, tr. 5.  
8. Đăng Khoa (2017). “Cách mạng công  
nghiệp lần thứ tư: Việt Nam đang ‘đứng’  
đâu?”. Viettimes.vn, truy cập ngày  
cach-mang-cong-nghiep-lan-thu-tu-viet-  
nam-dang-dung-dau-118838.html  
9. Meola, Andrew (2016). “What is the Internet  
of Things(IoT)?”. Business Insider, truy cập  
businessinsider.com/what-is-the-internet-  
of-things-definition-2016-8?IR=T  
10. Khương Nha - Duy Tín (2017). “Cách mạng  
Công nghiệp 4.0 là gì?”. News.zing.vn, truy  
cập ngày 19/06/2017 tại địa chỉ: https://  
news.zing.vn/cach-mang-cong-nghiep-40-  
la-gi-post750267.html  
13. Pera, Mariam (2014). “Libraries and the  
Internet of Things: OCLC Symposium  
shows benefits, raises questions”.American  
Libraries, truy cập ngày 20/06/2017 tại địa  
blogs/the-scoop/libraries-and-the-internet-  
of-things/  
14. Porter, Ned (2014). “Libraries, Beacons,  
and the Internet of Things”.Ned-Porter.  
com, truy cập ngày 21/06/2017 tại địa chỉ:  
15. Postscapes (2017). “IoT Technology  
Guidebook”.Postscapes.com, truy cập  
ngày 22/06/2017 tại địa chỉ: https://  
www.postscapes.com/internet-of-things-  
technologies/#machine  
16. Pujar, Shamprasad M. và Satyanarayana, K. V.  
(2015). “Internet of Things and Libraries”. Annals  
of Library and Information Studies, tr. 190.  
17. Roullard, Sarah (2013). “The Internet of  
Things in the Library”.Libserra.com, truy  
cập ngày 20/06/2017 tại địa chỉ: http://  
archive.is/iviyF#selection-367.0-371.401  
18. Schwab, Klaus (2015). “The Fourth  
Industrial Revolution: What It Means and  
How to Respond”.Foreign Affairs, truy cập  
foreignaffairs.com/articles/2015-12-12/  
fourth-industrial-revolution  
19. Schwab, Klaus (2016). “The Fourth  
Industrial Revolution”. World Economic  
Forum, tr. 8-9.  
20. Techopedia (2017). “Internet of Things”.  
Techopedia.com, truy cập ngày 16/06/2017  
definition/28247/internet-of-things-iot  
21. TechTarget(2017).InternetofThings(IoT)”.  
TechTarget.com, truy cập ngày 16/06/2017  
techtarget.com/definition/Internet-of-  
Things-IoT  
22. Wikipedia (2017). “Internet of Things”.  
Wikipedia.org, truy cập ngày 19/06/2017  
Internet_of_things  
11. Oxford Dictionary (2017). “Internet of  
Things”.Oxford  
Dictionary.com,  
truy  
cập ngày 16/06/2017 tại địa chỉ: https://  
en.oxforddictionaries.com/definition/  
internet_of_things  
12. Panetta, Kasey (2017). “Top Trends in  
23. Wójcik, Magdalena (2015). “Internet of  
Things - Potential for Libraries”. Emeral  
Insight, 34 (2), tr. 411.  
the Gartner Hype Cycle for Emerging  
Technologies,  
2017”.  
Gartner.com,  
truy cập ngày 25/04/2018 tại địa chỉ:  
h t t p s : / / w w w . g a r t n e r . c o m /  
smarterwithgartner/top-trends-in-the-  
gartner-hype-cycle-for-emerging-  
technologies-2017.  
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 15-3-2018;  
Ngày phản biện đánh giá: 25-5-2018; Ngày  
chấp nhận đăng: 15-6-2018).  
36  
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2018  
pdf 10 trang Hứa Trọng Đạt 09/01/2024 320
Bạn đang xem tài liệu "Cách mạng công nghiệp 4.0 và vai trò của Internet kết nối vạn vật (Iot) trong triển vọng ứng dụng vào hoạt động của các thư viện ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfcach_mang_cong_nghiep_4_0_va_vai_tro_cua_internet_ket_noi_va.pdf