Chợ nổi vùng Đồng bằng sông Cửu Long dưới góc nhìn địa lí

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH  
HO CHI MINH CITY UNIVERSITY OF EDUCATION  
TẠP CHÍ KHOA HỌC  
JOURNAL OF SCIENCE  
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN  
Tập 15, S2 (2018): 111-124  
SOCIAL SCIENCES AND HUMANITIES  
Vol. 15, No. 2 (2018): 111-124  
ISSN:  
1859-3100  
CHỢ NỔI VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG  
DƯỚI GÓC NHÌN ĐỊA LÍ  
Nguyễn Trọng Nhân  
Khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Cần Thơ  
Ngày nhn bài: 19-12-2017; ngày nhn bài sa: 08-01-2018; ngày duyệt đăng: 23-02-2018  
TÓM TẮT  
Bài viết trình bày kết quả nghiên cứu về chợ nổi ở đồng bằng sông Cửu Long, bao gồm: lịch  
sử hình thành, các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành, sự thay đổi không gian, hiện trạng mạng  
lưới, đặc điểm, vai trò, hạn chế, những thách thức và sự thay đổi trong hoạt động mua bán.  
Từ khóa: chợ nổi, đồng bằng sông Cửu Long, du lịch chợ nổi.  
ABSTRACT  
Floating markets in the Mekong Delta of Vietnam from the perspective of Geography  
The paper expresses the study results of floating markets in the Mekong Delta of Vietnam  
including formation history, formation affect factors, spacial changes, network status, features,  
roles, weakness, threats and trade activity changes.  
Keywords: floating market, the Mekong Delta of Vietnam, floating market tourism.  
1.  
Giới thiệu  
Thời gian gần đây, nhiều địa phương nhận thấy tầm quan trọng của chợ nổi đối với  
kinh tế, xã hội, văn hóa nên đã chú ý nhiều hơn đến công tác bảo tồn và khai thác nó. Đây  
là một động thái tích cực, thể hiện trách nhiệm của các nhà quản lí đối với sinh kế của  
người dân và tính toàn vẹn của di sản văn hóa trong cả hiện tại và tương lai. Trước đây, do  
ít có thông tin về hình thức thương mại này nên địa phương đã có những quyết định chưa  
thật sự phù hợp và trong một số trường hợp đã để lại những tiếc nuối. Trên thế giới, nhiều  
quốc gia rất xem trọng việc bảo lưu những giá trị văn hóa cổ, chợ nổi cũng có thể được xếp  
vào nhóm chợ cổ nên cần phải được duy trì.  
Mặc dù có những thế mạnh (ghe xuồng tập trung mua bán tương đối đông đúc, hoạt  
động đi lại, mua bán, sinh hoạt của người dân còn giữ được tính chân thực) nhưng chợ nổi  
ở đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam lâu nay vẫn chưa nhận được sự quan tâm đúng  
mức. Ở Thái Lan, do sự phát triển của hệ thống giao thông đường bộ cùng mạng lưới chợ  
trên bờ, nhiều chợ nổi đã mất đi, sau đó chúng lại được tái tạo và thu hút nhiều du khách  
cũng nhờ vào sự đầu tư tương xứng về tài chính, công sức và trí tuệ.  
111  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM  
Tập 15, S2 (2018): 111-124  
Với kì vọng góp thêm sự hiểu biết đối với hình thức mua bán vốn được xem là đặc  
trưng của Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung, đồng thời, cung cấp cơ sở thực tiễn  
cho kế hoạch bảo tồn và khai thác chợ nổi trong du lịch, chúng tôi thực hiện nghiên cứu  
này. Kết quả nghiên cứu là sản phẩm của quá trình khảo sát thực tế, phỏng vấn cư dân  
thương hồ, trao đổi, chuyện trò với người dân địa phương và tham khảo nguồn dữ liệu thứ  
cấp. Các nội dung nghiên cứu bao gồm: lịch sử hình thành, các nhân tố ảnh hưởng đến sự  
hình thành, sự thay đổi không gian, hiện trạng mạng lưới, đặc điểm, vai trò, hạn chế,  
những thách thức và sự thay đổi trong hoạt động mua bán của chợ nổi. Để có thái độ ứng  
xử phù hợp với chợ nổi, rất cần sự hiểu biết đầy đủ về nó.  
2.  
Phương pháp nghiên cứu  
Kết quả của nghiên cứu này dựa trên hai nguồn dữ liệu thứ cấp và sơ cấp. Nguồn dữ  
liệu thứ cấp là các ấn phẩm dưới dạng sách, tạp chí khoa học, kỉ yếu hội thảo khoa học. Dữ  
liệu sơ cấp được chúng tôi thu thập bằng phương pháp quan sát thực tế và phỏng vấn bán  
cấu trúc. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi quan sát các chợ nổi Cái Bè, Trà Ôn, Cái  
Răng, Phong Điền, Long Xuyên, Châu Đốc, Ba Ngàn, Ngã Năm, Vĩnh Thuận, Cà Mau và  
Cái Nước 4 lần (lần 1 vào các tháng 4, 5, 7 và 9 năm 2015; lần 2 vào tháng 12/2016; lần 3  
và 4 vào tháng 4 và 8 năm 2017, tương ứng); thực hiện chuyến tham quan ở chợ nổi  
Amphawa, Damnoen Saduak và Taling Chan của Thái Lan từ ngày 20 đến ngày 25 tháng 7  
năm 2017. Bên cạnh đó, chúng tôi còn phỏng vấn 80 người dân mua bán trên sông và trao  
đổi, chuyện trò với nhiều người dân sinh sống gần chợ nổi ở Đồng bằng sông Cửu Long.  
3.  
Kết quả nghiên cứu  
3.1. Lịch sử hình thành chợ nổi  
Chợ nổi Đồng bằng sông Cửu Long ra đời một cách tự nhiên từ hoạt động đi lại và  
mua bán trên sông của người dân. Vì lẽ đó, năm ra đời cụ thể của từng chợ nổi chưa được  
tài liệu nào ghi chép lại. Để truy tìm thời gian ra đời của nó, chúng tôi phải tra cứu tài liệu  
và tham vấn nhiều người dân địa phương cũng như cư dân thương hồ.  
Theo Lâm Nhân (2015, tr.384), chợ nổi Cái Bè ra đời vào cuối thế kỉ XVIII. Đầu thế  
kỉ XIX, đoạn nối sông Cần Thơ với sông Cái Lớn từ cuối đông qua xuân nước cạn, bùn  
nhão cạn lấp, từ hạ qua đông nước mưa tràn ngập cả bến bờ, ghe thuyền cưỡi lên cỏ, lướt  
trên lục bình mà đi, ở đây vắng ngắt, hai bên sông là rừng rậm, không có dân cư, lại có  
nhiều ruồi muỗi và đỉa khiến người qua lại rất khổ sở (Trịnh Hoài Đức, 2005, tr.85). Tình  
trạng đi lại khó khăn này kéo dài cho đến khi kênh xáng Xà No được hoàn thành vào tháng  
7 năm 1903. Do đó, chợ nổi Cái Răng không thể được hình thành trước năm 1903. Chúng  
tôi cho rằng, chợ nổi Cái Răng được hình thành vào đầu thế kỉ XX sau khi luồng lưu thông  
giữa sông Cần Thơ với rạch Cái Tư và sông Cái Lớn thuận tiện.  
Trong khoảng thời gian 1906-1908, thực dân Pháp cho đào nhiều con kênh ở vùng  
Hậu Giang để hình thành nên Ngã Bảy và Ngã Năm (Sơn Nam, 2005b, tr.116). Sau năm  
1908, Ngã Bảy và Ngã Năm trở thành đầu mối quan trọng về đường thủy nối bán đảo Cà  
112  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM  
Nguyễn Trọng Nhân  
Mau với sông Hậu, sông Tiền và thậm chí cả Sài Gòn. Nhà vựa cá, trại cưa, trại xuồng,  
chành lúa, nhà máy xay, cửa hiệu… mọc lên nhanh chóng (Sơn Nam, 2005b, tr.121). Sau  
khi điều kiện giao thông đã thuận lợi, phố xá mọc lên đông đúc thì chợ nổi mới có thể ra  
đời. Do đó, chúng tôi cho rằng, chợ nổi Ngã Bảy và Ngã Năm được hình thành vào đầu thế  
kỉ XX.  
Theo người dân địa phương và những người mua bán trên sông, chợ nổi Trà Ôn  
được hình thành vào đầu thế kỉ XX; chợ nổi Cà Mau, Phong Điền, Long Xuyên, Châu Đốc  
ra đời vào thập niên 70 của thế kỉ XX; chợ nổi Cái Nước được hình thành vào thập niên 80  
của thế kỉ XX; chợ nổi Vĩnh Thuận ra đời vào thập niên 90 của thế kỉ XX.  
Như vậy, có thể điểm qua mt snét vlch shình thành chnổi như sau: có thể  
chnổi Cái Bè được hình thành vào cui thế kỉ XVIII. Đầu thế kXX, nhiu chnổi ra đời  
Vĩnh Long, Cần Thơ, Hậu Giang và Sóc Trăng ngày nay mà cụ thlà chni Trà Ôn,  
Cái Răng, Ngã By và Ngã Năm. Chợ ni Cà Mau, Phong Điền, Long Xuyên và Châu Đốc  
ra đời vào thp niên 70 ca thế kỉ XX. Trong khi đó, chợ nổi Cái Nước ra đời khong sau  
mt thp niên. Thp niên 90 ca thế kXX, chni Vĩnh Thuận được hình thành.  
3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành chợ nổi  
Trên toàn lãnh thổ Việt Nam, chợ nổi chỉ có ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long và sự  
ra đời của hình thức thương mại này hoàn toàn do sự tác động của điều kiện tự nhiên, kinh  
tế, xã hội và văn hóa của vùng đã sản sinh ra nó, cụ thể như sau:  
- Hệ thống sông ngòi và kênh rạch chằng chịt. So với các vùng khác trong cả nước,  
Đồng bằng sông Cửu Long có mật độ sông ngòi và kênh rạch dày đặc nhất. Theo cố Thủ  
tướng Võ Văn Kiệt, Đồng bằng sông Cửu Long mang trong lòng 28.000 km kênh rạch tự  
nhiên và kênh đào (Phạm Khắc, 2009, tr.397). Con số này rất lớn bởi nó dài gấp 5,7 lần  
chiều dài dòng chính sông Mekong (4880 km) nhưng chỉ phân bố trên một diện tích 40.576  
km2. Trong số đó, có khoảng 13.000 km sông, kênh, rạch có khả năng khai thác vận tải (Lê  
Thông, 2007, tr.509). Mạng lưới sông rạch phân bố khắp nơi nên việc lưu thông bằng  
đường thủy rất thuận tiện, đã thúc đẩy hoạt động giao thương trên sông của người dân. Bên  
cạnh mặt thuận lợi về chiều dài và mật độ, sông ngòi, kênh rạch vùng Đồng bằng sông Cửu  
Long còn có những đặc điểm về độ rộng, độ sâu, tốc độ dòng chảy và sự hợp lưu phù hợp  
cho sự ra đời của chợ nổi (vấn đề này được thảo luận cụ thể trong phần 3.5). Có thể nói,  
sông ngòi là bà mẹ vĩ đại của hoạt động giao thương và chợ nổi là một trong những đứa  
con quan trọng của nó.  
- Sự yếu kém của mạng lưới giao thông đường bộ. Nếu tham chiếu với thời gian chợ  
nổi ra đời, mạng lưới giao thông đường bộ ở vùng/vùng phụ cận chợ nổi còn nhiều hạn  
chế. Theo ghi chép của Lê Quý Đôn (2008, tr.256), cuối thế kỉ XVIII, Đồng bằng sông  
Cửu Long không tiện cho việc đi bộ, người đi buôn nếu chuyên chở bằng thuyền lớn cũng  
đều đem theo thuyền nhỏ để dễ đi vào kênh, từ cửa biển lên đến đầu nguồn phải mất 6, 7  
ngày đường. Tình trạng này cũng không có gì thay đổi cho đến đầu thế kỉ XIX khi Trịnh  
113  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM  
Tập 15, S2 (2018): 111-124  
Hoài Đức (2005, tr.188) mô tả: cư dân Đồng bằng sông Cửu Long sẽ không đi lại được nếu  
không nhờ ghe thuyền. Năm 1833, Doãn Uẩn còn ghi nhận, nếu không dùng thuyền người  
dân không thể đến được làng khác vì không có đất đai nối giữa các làng (Choi, 2011,  
tr.127). Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp đẩy nhanh công cuộc đắp lộ, xây  
cầu nhằm mục đích thương mại và quân sự, tuy nhiên, sông rạch vẫn là đường giao thông  
chính (Sơn Nam, 2005a, tr.147). Đến năm 1981, mạng lưới đường bộ đã phát triển hơn  
trước rất nhiều nhưng chỉ tính 5 tuyến giao thông đường thủy liên tỉnh, khối lượng vận  
chuyển đã đạt 60% tổng khối lượng vận chuyển của vùng. Ở một số nơi không có đường  
bộ, hàng đến và hàng đi đều được thực hiện nhờ vào đường thủy (Phan Quang, 1981, tr.42,  
65). Thập niên 80 và 90 của thế kỉ XX, điều kiện giao thông đường bộ vẫn còn khó khăn ở  
nhiều địa phương vùng bán đảo Cà Mau. Chính sự khó khăn của hoạt động vận tải đường  
bộ trong từng thời kì đã tạo điều kiện thuận lợi cho loại hình vận tải thủy phát huy tác  
dụng, là chất xúc tác cần thiết để chợ nổi ra đời.  
- Sự hình thành của nền kinh tế hàng hóa. Từ lâu, Đồng bằng sông Cửu Long được  
mệnh danh là vựa lúa, thủy sản và cây ăn trái nhiệt đới đứng đầu cả nước. Bên cạnh những  
mặt hàng chủ lực đó, sản xuất rau màu và cây lương thực ngoài lúa cũng là thế mạnh của  
vùng. Với một khối lượng lớn hàng nông sản được tạo ra hàng năm không chỉ đáp ứng đủ  
nhu cầu lương thực, thực phẩm cho cư dân địa phương mà còn có thừa để bán. Theo Đỗ  
Quỳnh Nga, thế kỉ XVIII, Đồng bằng sông Cửu Long đã thoát khỏi tình trạng tự cung, tự  
cấp khép kín mà hướng đến nền kinh tế hàng hóa (2013, tr.310-314). Đến đầu thế kỉ XIX,  
cư dân Đồng bằng sông Cửu Long đã không lo đói rét vì có hàng nông sản phong phú, số  
hàng thừa người dân đem bán cho các thương thuyền (Trịnh Hoài Đức, 2005, tr.179-189).  
Chính sự trao đổi, mua bán các mặt hàng nông sản giữa các địa phương với nhau trong một  
thời gian dài và phương tiện chuyên chở chủ yếu là ghe xuồng đã góp phần tạo nên hệ  
thống chợ nổi.  
- Tập quán giao thương trên sông của người dân. Đến nay, vùng Đồng bằng sông Cửu  
Long được người Việt khai phá, định cư bao nhiêu năm thì việc đi lại, mua bán trên sông  
của người dân cũng đã trải qua từng ấy thời gian và phương tiện giúp người dân thực hiện  
các hoạt động đó là ghe xuồng. Từ khi khai phá, người dân trong vùng đã gây dựng cuộc  
sống gắn với sông nước. Đầu thế kỉ XIX, cư dân Đồng bằng sông Cửu Long ai cũng thạo  
chèo chống, trong 10 người đã có 9 người giỏi chèo thuyền (Trịnh Hoài Đức, 2005, tr.186-  
188). Người dân thường dùng ghe xuồng để đi thăm ruộng vườn, đi chợ, thăm người thân,  
chở nước ngọt, làm nơi ở, chuyên chở và mua bán hàng hóa… Từ đó, ghe xuồng trở nên  
quan trọng đối với người dân và nó được ví như đôi chân, ngôi nhà của cư dân vậy (khi  
muốn bán ghe, người chủ thường treo trên ghe tấm lá lợp nhà, điều này đồng nghĩa, bán  
ghe tức là bán nhà). Trong số những người thạo đi lại trên sông, có một tầng lớp chuyên  
thu mua và bán lại hàng hóa giữa khu vực nông thôn và thành thị được gọi là khách thương  
114  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM  
Nguyễn Trọng Nhân  
hồ. Chính hoạt động đi lại, neo đậu và mua bán trên sông của khách thương hồ đã sản sinh  
ra chợ nổi.  
- Sự tiến triển của nghề đóng ghe xuồng. Trong điều kiện sông ngòi, kênh rạch chằng  
chịt như Đồng bằng sông Cửu Long thì việc sử dụng ghe xuồng làm phương tiện đi lại và  
vận chuyển đã trở thành quy luật tất yếu. Nắm bắt được nhu cầu đi lại của thị trường, ở  
nhiều địa phương trong vùng đã sớm hình thành các trại hoặc xưởng chuyên đóng và sửa  
chữa ghe xuồng. Thế kỉ XVIII, số lượng ghe xuồng được tạo ra ở Đồng bằng sông Cửu  
Long không chỉ đáp ứng được nhu cầu trong vùng mà còn cung ứng cho cả vùng ngoài nữa  
(Huỳnh Lứa, 2000, tr.147), và dinh Long Hồ được xem là nơi có công xưởng đóng thuyền  
lớn nhất (Đỗ Quỳnh Nga, 2013, tr.200). Do sớm được chuyên môn hóa nên nghề đóng ghe  
xuồng Đồng bằng sông Cửu Long đã giải quyết được một số yêu cầu do xã hội đặt ra, đó là  
đa dạng về chủng loại, thẩm mĩ về kiểu dáng, vật liệu có độ bền chắc cao và lớn về số  
lượng. Nếu không có những cơ sở chuyên đóng và sửa cha ghe xung hoc nghnày kém  
phát trin thì hoạt động đi lại và mua bán trên chni không thể được mrng nhanh  
chóng trong quá khvà khó duy trì trong hin ti bi nn tng ca chni là ghe xung.  
- Tính tự do trong neo đậu và buôn bán cao. Cũng giống như đường bộ, đường sông là  
tài sản chung của tất cả mọi người. Bởi vậy, không cần phải thuê, mua nhưng khách  
thương hồ vẫn có được mặt bằng để neo đậu và bán hàng hóa. Bằng những kinh nghiệm  
của mình, khách thương hồ biết được địa điểm có thể buôn bán được. Ban đầu chỉ một vài  
ghe, dần nhiều ghe hội tụ tạo nên cái chợ. Lúc mới hình thành, chính quyền địa phương  
không có sự can thiệp nên chợ nổi ra đời một cách tự nhiên. Đối với những người dân tham  
gia giao thông đường thủy, họ cũng không tỏ ra quá khắt khe nên chợ nổi nhận được sự  
đồng thuận trong một thời gian dài của quá trình tồn tại.  
- Sự hình thành của hệ thống đô thị. Loại hình quần cư đô thị ra đời tạo nên một không  
gian sinh tồn khác biệt với quần cư nông thôn và đại bộ phận dân cư được giải phóng khỏi  
sn xuất nông nghiệp là những thị dân. Để tồn tại và phát triển, thị dân phải thu mua một  
khối lượng lớn hàng nông sản từ cư dân nông thôn để tiêu thụ và bán lại kiếm lời, đến lượt  
mình, cư dân nông thôn cũng có nhu cầu cung cấp nhiều loại hàng hóa cho cư dân đô thị.  
Trên cơ sở đó, mối quan hệ hữu cơ của cư dân thuộc hai loại hình quần cư bắt đầu xuất  
hiện. Một trong những thành phần đóng vai trò trung gian trong việc đảm bảo sự hài hòa  
lợi ích của mối quan hệ trên là cư dân thương hồ. Nhiều nơi thương lái neo đậu, cung cấp  
hàng hóa cho cư dân đô thị tạo thành chợ trên sông. Do đó, nếu không có đô thị sẽ không  
có chợ nổi, nhưng không phải mọi đô thị đều có chợ nổi đi kèm bởi nó còn phụ thuộc vào  
mức độ thuận lợi của hoạt động đi lại, neo đậu và mua bán.  
3.3. Sự thay đổi không gian chợ nổi  
Trước đây, chợ nổi được nhóm họp ở nơi giao nhau của nhiều nhánh sông, gần khu  
chợ trên bờ, trên tuyến chính của luồng giao thông nên có nhiều phương tiện thủy tới lui,  
qua lại. Vì lẽ đó, tình trạng ách tắc và tai nạn giao thông thường xuyên xảy ra. Hơn nữa,  
115  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM  
Tập 15, S2 (2018): 111-124  
tình hình trật tự không đảm bảo. Để giải quyết vấn đề này, công an đường thủy nội địa đã  
di dời rất nhiều chợ nổi đến các vị trí khác vào thập niên cuối của thế kỉ XX (Cà Mau, Cái  
Răng, Châu Đốc, Ngã Năm), thập niên thứ nhất (Ngã By, Cà Mau, Long Xuyên, Trà Ôn)  
và thứ hai (Vĩnh Thuận, Cái Nước) của thế kỉ XXI. Kết quả, tình trạng ùn tắc và tai nạn  
giao thông cơ bản được khắc phục, vấn đề trật tự được cải thiện rất nhiều. Ngoài ra, có  
nhiều vị trí mới thích hợp hơn cho sự phát triển du lịch vì có không gian và phải dùng tàu,  
ghe để đến tham quan. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, việc di dời chợ nổi cũng  
gây ra những hệ lụy nhất định. Thứ nhất, gia tăng khoảng cách đi lại trong hoạt động mua  
bán dẫn đến chi phí thuê phương tiện vận chuyển tăng, giảm khả năng sinh lời làm cho  
nhiều cư dân ngại đến mua hàng ở chợ nổi. Thứ hai, để bán được hàng hóa, mỗi chủ ghe  
phải có những bạn hàng thân thuộc, khi bị di dời, chủ ghe phải có thời gian để xác lập các  
mối quan hệ với bạn hàng mới, gây khó khăn trong buôn bán. Thứ ba, ở một số địa điểm  
mới, nơi xe tải hoặc xe máy có thể đến tận nơi để thu mua hàng hóa, làm giảm đi lượng  
ghe xuồng tập trung mua bán và làm thay đổi bản chất của chợ nổi.  
3.4. Hiện trạng mạng lưới chợ nổi  
Hiện tại, Đồng bằng sông Cửu Long có 11 chợ nổi: Cái Bè (tỉnh Tiền Giang), Trà Ôn  
(tỉnh Vĩnh Long), Cái Răng và Phong Điền (thành phố Cần Thơ), Long Xuyên và Châu  
Đốc (tỉnh An Giang), Ba Ngàn (tỉnh Hậu Giang), Ngã Năm (tỉnh Sóc Trăng), Vĩnh Thuận  
(tỉnh Kiên Giang), Cái Nước và Cà Mau (tỉnh Cà Mau). Như vậy, chợ nổi có mặt ở 8 trong  
số 13 tỉnh và thành phố vùng Đồng bằng sông Cửu Long, trong đó thành phố Cần Thơ,  
tỉnh An Giang và Cà Mau có số lượng chợ nổi nhiều nhất.  
Xét trong mối tương quan giữa các chợ nổi, Cái Răng, Long Xuyên và Ngã Năm có  
quy mô lớn (>= 150 ghe/xuồng/vỏ lãi); Cái Bè, Vĩnh Thuận, Châu Đốc, Phong Điền, Cà  
Mau, Cái Nước, Ba Ngàn, Trà Ôn có quy mô nhỏ (<150 ghe/xuồng/vỏ lãi). Xét theo  
phương vĩ tuyến, chợ nổi phân bố chủ yếu ở phía nam sông Hậu, nơi có nhiều kênh đào,  
giao thông đường bộ trước đây nhiều trắc trở. Theo phương kinh tuyến, chợ nổi phân bố  
chủ yếu ở khu vực gần giữa đồng bằng, nơi có hệ sinh thái nông nghiệp trù phú. Hơn nữa,  
đây còn là tuyến giao thông thủy huyết mạch nối vùng bán đảo Cà Mau với sông Hậu, sông  
Tiền và Thành phố Hồ Chí Minh.  
Những chợ nổi lâu đời chủ yếu phân bố ở ven sông Tiền, sông Hậu và trục kênh nối  
sông Hậu với vùng Ngã Năm của Sóc Trăng. Quá trình đường bộ hóa đã đẩy chợ nổi dịch  
chuyển về phía bán đảo Cà Mau (vùng Kiên Giang và Cà Mau), nơi điều kiện lưu thông  
trên bộ còn nhiều khó khăn đến thp niên 80 và 90 ca thế kXX. Những chợ nổi quy  
mô tập trung ở miệt vườn, nơi cung ứng hàng hóa đa dạng, phong phú và cư dân đông đúc.  
Bởi những lợi ích kinh tế, mô hình chợ nổi được nhân rộng ra gần khắp vùng và nó tiếp tục  
tồn tại ở những nơi vốn không phải “miền đất hứa” của nó.  
Các chợ nổi hoạt động suốt năm nhờ vào lưu lượng nước lớn đến khá lớn của các  
tuyến sông nơi chợ nổi phân bố cùng hoạt động sản xuất và cung ứng hàng nông sản liên  
116  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM  
Nguyễn Trọng Nhân  
tục của cư dân trong vùng. Do điều kiện khí hậu, thời vụ canh tác và sức mua của thị  
trường nên số lượng ghe xuồng tham gia mua bán ở chợ nổi có sự thay đổi nhất định theo  
quý và thời điểm. Từ tháng 01 đến tháng 4, số lượng ghe xuồng tham gia mua bán có xu  
hướng tăng và xu hướng này vẫn duy trì từ tháng 5 đến tháng 8. Từ tháng 9 đến tháng 12,  
mức độ nhộn nhịp của hoạt động mua bán ở chợ có xu hướng giảm. Vào thời gian gần Tết  
Đoan Ngọ và Nguyên Đán, số lượng ghe xuồng tham gia mua bán trên chợ nổi có phần  
đông đúc hơn so với những thời điểm khác (để chuẩn bị thực phẩm cho Tết Đoan Ngọ và  
Nguyên Đán, người dân địa phương mua nhiều loại nông sản nên sức mua ở chợ nổi có  
phần sôi động hơn).  
3.5. Đặc điểm của chợ nổi  
Chợ nổi vùng Đồng bằng sông Cửu Long có những đặc điểm như sau:  
Nguyên thy, chợ nổi được nhóm họp trên một khúc sông có những điều kiện hết sức  
thuận lợi. Thứ nhất, là nơi gặp nhau của nhiều nhánh sông. Thứ hai, nơi sông không quá  
hẹp cũng không quá rộng, lòng sông không cạn cũng không quá sâu, tốc độ dòng chảy vừa  
phải. Thứ ba, vị trí nhóm chợ sát nách khu dân cư đông đúc. Với những điều kiện này, một  
mặt, ghe xuồng có thể đến được từ nhiều ngã khác nhau; mặt khác, việc neo đậu, buôn bán  
rất thuận tiện.  
Nếu chợ trên bờ, việc đi lại và chuyên chở hàng hóa được thực hiện chủ yếu bằng  
các phương tiện xe cộ thì các hoạt động này đối với chợ nổi phải nhờ vào ghe, vỏ lãi và  
xuồng. Có nhiều loại ghe và vỏ lãi/xuồng tham gia mua bán ở chợ nổi nhưng có thể phân  
thành hai nhóm. Nhóm ghe lớn chuyên bán hàng/mua hàng và nhóm ghe nhỏ, vỏ lãi/xuồng  
chuyên mua hàng/bán hàng. Nhóm ghe lớn đến từ nhiều tỉnh thành khác nhau trong vùng  
và có thể nhận diện thông qua biển số. Nhóm ghe nhỏ, vỏ lãi/xuồng được sử dụng phần lớn  
bởi những cư dân địa phương trong các hoạt động giao thương ở chợ nổi.  
Trên chợ nổi có nhiều chủng loại hàng hóa nhưng nông sản vẫn là mặt hàng chủ lực.  
Để có được hàng hóa, thương lái phải vào tận ngõ ngách ở thôn quê hoặc đến chợ nổi khác  
mua hàng và chở ra chợ bán. Thông thường, mỗi thương lái thu mua và bán nhiều hàng  
hóa, tuy nhiên, cũng có một số thương lái chỉ thu mua và bán chuyên một mặt hàng nào đó  
qua nhiều năm. Tiêu thụ được hàng hóa là vấn đề rất đỗi quan tâm của thương lái, và để có  
được thông tin thị trường, họ phải nhờ vào kinh nghiệm mua bán nhiều năm của bản thân  
cùng sự chia sẻ của người thân, bạn hàng.  
Không giống chợ trên bờ, một phần quan trọng trong hình thức tiếp thị của chợ nổi  
là sử dụng cây bẹo. Cây bẹo là một thanh cây có chiều dài khoảng 3-6 m, thường làm bằng  
tre, được cắm hoặc mắc ở trên ghe, trên thân có mắc nhiều loại hàng nông sản muốn bán.  
Đến nay có nhiều cách giải thích về xuất xứ của cây này. Chẳng hạn, Nhâm Hùng (2009,  
tr.50) cho rằng, từ cách nói “bẹo hình, bẹo dạng” trong dân gian, thương lái nghĩ ra cách  
“bẹo hàng”. Khác với cách giải thích đó, Thiên Lý (2009) khẳng định, việc “phát minh” ra  
cây bẹo xuất phát từ thói quen treo hàng nông sản trên thanh tre để bán ở nhiều gia đình  
117  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM  
Tập 15, S2 (2018): 111-124  
vùng nông thôn (trích trong Nguyễn Trọng Nhân, 2014, tr.103). Chúng tôi cho rằng, cây  
bẹo trên chợ nổi có thể được kế thừa từ cây bẹo chim của người nông dân. Về hình thức  
(treo nhiều vật lên một thân cây) và tác dụng (thông báo) có sự tương đồng cao, tuy nhiên,  
tùy theo mục đích mà cây bẹo có tác dụng mời gọi (bạn hàng) hoặc xua đuổi (chim). Trong  
điều kiện mênh mông sông nước và rày đây mai đó thiết nghĩ khó có hình thức tiếp thị nào  
có khả năng cạnh tranh và tiện ích bằng cây bẹo (Nguyễn Trọng Nhân, 2014, tr.103).  
Chợ nổi được nhóm họp suốt ngày, một số chợ nổi hoạt động cả vào ban đêm nhưng  
buổi sáng vẫn là thời điểm mua bán đông đúc nhất. Theo lời người dân mua bán trên sông,  
khoảng 24 giờ đã có chợ nổi bắt đầu nhóm họp (Vĩnh Thuận, Cái Nước), các chợ nổi còn  
lại bắt đầu ngày chợ trễ hơn nhưng dao động từ 2 đến 5 giờ. Thời gian mua bán đông đúc  
nhất của chợ kéo dài một vài tiếng đồng hồ và rơi vào thời điểm từ 3 đến 10 giờ tùy chợ  
nổi. Sau đó, hoạt động mua bán trở nên thưa vắng và kết thúc ngày chợ sớm nhất vào lúc  
15 giờ (Ba Ngàn), trễ nhất lúc 21 giờ (Cà Mau), từ 17 đến 19 giờ là thời điểm vãn của các  
chợ nổi còn lại.  
Người Kinh đóng vai trò quan trọng trong hoạt động giao thương ở chợ nổi. Năm  
2013, chúng tôi đã thực hiện nghiên cứu “Kết quả khảo sát bước đầu về đời sống cư dân  
thương hồ vùng Đồng bằng sông Cửu Long” cho thấy 100% đối tượng trả lời phỏng vấn ở  
3 chợ nổi Cái Răng, Ba Ngàn và Ngã Năm đều là người Kinh (Nguyễn Trọng Nhân và ctv.,  
2013, tr.87). Theo Ngô Văn Lệ (2014, tr.6), qua khảo sát tại các chợ nổi, người Việt giữ  
vai trò quan trọng trong hoạt động thương hồ. Trong các năm 2015, 2016 và 2017, chúng  
tôi đã nhiều lần quan sát chợ nổi và phát hiện ngoài người Việt/Kinh, người Chăm cũng có  
tham gia mua bán ở chợ nổi Châu Đốc. Từ những cứ liệu cho thấy đối tượng làm nên và  
duy trì hoạt động mua bán ở chợ nổi chủ yếu là người Kinh. Điều này có thể được lí giải  
bởi người Kinh là dân tộc chủ thể, có số lượng đông đảo hơn rất nhiều so với các dân tộc  
khác ở vùng.  
3.6. Vai trò của chợ nổi  
Chợ nổi ra đời trong kỉ nguyên giao thông đường thủy chiếm ưu thế nên nó trở thành  
chợ đầu mối trong việc phân phối hàng nông sản. Hàng hóa ở các vùng chuyên canh được  
khách thương hồ thu mua, vận chuyển và cung cấp cho nhiều chợ trên bờ với khối lượng  
lớn. Sau khi “ăn hàng”, tiểu thương, nhà vựa bán lại số hàng cho cư dân tại chỗ và thương  
lái ở những nơi khác. Nhờ đó, hàng hóa lưu thông, giá cả đảm bảo, kích thích nông dân sản  
xuất. Hơn nữa, cư dân đô thị có đủ hàng hóa để tiêu dùng, khắc phục tình trạng khan hiếm  
hàng hóa, giá cả tăng cao và thúc đẩy hoạt động thương mại ở vùng phát triển.  
Cũng là chợ, nhưng chợ nổi có những nét khác biệt và chính điều này làm cho văn  
hóa Đồng bằng sông Cửu Long thêm đa dạng. Điểm phân biệt của chợ nổi so với các chợ  
truyền thống khác là ở phương tiện đi lại được sử dụng, cách thức tiếp thị hàng hóa, sinh  
hoạt, khả năng thích nghi với môi trường sông nước của người dân. Do đó, để hiểu phần  
nào về hoạt động đi lại, sinh kế trên sông của người Việt xưa và văn hóa ứng xử của họ đối  
118  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM  
Nguyễn Trọng Nhân  
với môi trường sông nước ở vùng đất mới thì chợ nổi nhất định phải là đối tượng mục tiêu.  
Với những giá trị văn hóa nội tại, chợ nổi đã và đang góp thêm mảnh ghép tạo nên bức  
tranh sinh động của văn hóa bản địa Đồng bằng sông Cửu Long.  
Chợ nổi góp phần tạo việc làm và mang lại thu nhập cho người dân. Thành phần  
tham gia mua bán chính ở chợ nổi là người Kinh, sống ở nông thôn và từng là nông dân.  
Bên cạnh đó, một tỉ lệ ít hơn những người sống ở đô thị, những người làm nghề khác nghề  
nông cũng tham gia mua bán ở chợ nổi. Đối với nhiều người, kinh doanh ở chợ nổi là  
nguồn thu nhập chính của họ. Người dân đến với nghề buôn bán ở chợ nổi bởi họ không có  
hoặc có ít đất để sản xuất, muốn có thêm thu nhập, không có việc làm, tận dụng thời gian  
nhàn rỗi, theo nghiệp của gia đình, để có được niềm vui… Vì vậy, có thể nói, khi nào chợ  
nổi còn tồn tại thì cơ hội việc làm và khả năng cải thiện thu nhập cho người dân còn tiếp  
tục mở ra, đặc biệt đối với người Kinh, bởi họ tham gia rất tích cực và có vị trí quan trọng  
trong hoạt động giao thương.  
Chợ nổi là nơi giao lưu văn hóa và trao đổi thông tin. Cư dân chợ nổi đến từ nhiều  
tỉnh/thành khác nhau trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long với trình độ văn hóa, tôn giáo  
- tín ngưỡng, lối sống, sinh kế, kinh nghiệm mua bán và sản xuất, sở thích, quan hệ xã  
hội… không hoàn toàn giống nhau, là nguồn vốn văn hóa và thông tin quan trọng để tiến  
hành trao đổi, giao lưu giữa những người trong cộng đồng nghề nghiệp. Qua quá trình gặp  
gỡ, tiếp xúc trên chợ nổi, cư dân đã có sự tương tác và tiếp nhận văn hóa cũng như thông  
tin để làm giàu vốn sống, kinh nghiệm, sự hiểu biết… cho bản thân, đồng thời mở rộng  
mối quan hệ và cải thiện điều kiện mua bán, kinh tế gia đình.  
Chợ nổi là phương tiện góp phần quảng bá hình ảnh vùng miền. Trong vài thập niên  
gần đây, chợ nổi được quan tâm, tìm hiểu và nghiên cứu bởi nhiều cơ quan, nhiều ngành  
trong và ngoài nước nên số bài báo, phim tài liệu, phim phóng sự, hình ảnh về chợ nổi rất  
nhiều và ngày càng gia tăng về số lượng. Do được đăng tải trên nhiều phương tiện thông  
tin đại chúng, đặc biệt trên Internet, nên đã góp phần quảng bá hình ảnh miền đất và con  
người vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến nhiều nơi, trong nước và quốc tế.  
Chợ nổi tạo niềm cảm hứng cho hoạt động sáng tạo nghệ thuật. Tính sông nước và  
nhân văn của chợ nổi đã gây được sự chú ý của nhiều soạn giả, tác giả, nhạc sĩ, nhà làm  
phim, nhiếp ảnh gia… trong các lĩnh vực âm nhạc, văn học, điện ảnh, thơ ca, nhiếp ảnh...  
Nhờ đó, nhiều loại hình nghệ thuật ở vùng trở nên phong phú về chủ đề, nội dung, đối  
tượng tiếp cận và góp phần tạo danh tiếng cho soạn giả Viễn Châu với bài vọng cổ Tình  
anh bán chiếu, soạn giả Ngô Hồng Khanh với bài vọng cổ Khóm ngọt, tác giả Lâm Viên  
với bài vọng cổ Chợ nổi tình xuân, nhạc sĩ Sơn Hà với ca khúc Bảy dòng sông nhớ, nhà  
văn Mường Mán với kịch bản Chuyện Ngã Bảy, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư với tạp văn  
Chút tình sông nước.  
Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, chợ nổi là nguồn tài nguyên du lịch  
của Đồng bằng sông Cửu Long. Với những giá trị văn hóa tiềm ẩn, chợ nổi đã và đang thu  
119  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM  
Tập 15, S2 (2018): 111-124  
hút nhiều du khách đến tham quan và nó trở thành điểm đến du lịch. Hoạt động du lịch chợ  
nổi ra đời vào thập niên 80 của thế kỉ XX và điều này được minh chứng qua những ghi  
chép của Nguyễn Khắc Viện và ctv. (1989, tr.425-426): “Sông Hậu mênh mông, đôi bờ nơi  
bến phà cách nhau 2 km. Ngồi thuyền lướt trên sông mà xem phong cảnh hai bên mượt mà  
màu xanh cây trái thật là thú vị. Đến chỗ gặp nhau của 7 con kênh, lại có chợ nổi họp trên  
sông, ghe thuyền đậu san sát, người mua kẻ bán đều ngồi trên thuyền”. Cũng như những  
loại hình du lịch khác, du lịch chợ nổi tạo việc làm và mang lại thu nhập cho người dân.  
3.7. Hạn chế và những thách thức đối với chợ nổi  
Khi nói đến hạn chế của chợ nổi, chúng ta có thể sẽ nghĩ ngay đến tình trạng ách tắc,  
tai nạn giao thông và ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, theo thời gian, do số lượng ghe  
xuồng đi lại trên sông giảm cùng công tác quy hoạch nơi neo đậu, phân luồng giao thông  
đã giải quyết cơ bản những vấn đề liên quan đến trật tự và an toàn trong hoạt động giao  
thương đường thủy. Vấn đề còn tồn tại dai dẳng và rất khó giải quyết hiện nay là sông  
nước bị ô nhiễm. Đến chợ nổi, chúng ta sẽ bắt gặp nhiều loại rác thải hữu cơ và vô cơ trên  
sông, làm sông nước ô nhiễm. Đối tượng tham gia chủ yếu vào việc xả thải là cư dân  
thương hồ, bên cạnh đó, người dân địa phương và du khách cũng tham gia vào hoạt động  
xả thải nhưng với mức độ ít hơn. Hiện tượng gây ô nhim nêu trên là kết quca sthiếu  
hiu biết đầy đủ vô nhiễm môi trường sông nước và nhng hly ca nó; ý thc và trách  
nhiệm chưa cao, không nghĩ đến lợi ích lâu dài, đặt sthun tin cho bn thân lên trên hết.  
Sông nước có chức năng chính là phục vụ hoạt động ăn uống, tưới tiêu, sinh hoạt, giao  
thương, giải trí, thẩm mĩ… vô hình trung, nó lại trở thành kho chứa rác thải. Sự ô nhiễm  
sông nước tất yếu gây ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe và nhiều hoạt động sản xuất, sinh  
hoạt, dịch vụ của người dân bởi tính liên vùng của nó. Do đó, đã đến lúc chúng ta phải thay  
đổi nhận thức, thái độ và hành vi của những người xả thải nhằm trả lại cho môi trường  
sông nước tính toàn vẹn vốn có của nó.  
Chợ nổi vùng Đồng bằng sông Cửu Long có ý nghĩa quan trọng về kinh tế, xã hội,  
văn hóa và lịch sử. Tuy nhiên, trong quá trình tồn tại của mình, chợ nổi đã và đang phải đối  
mặt với những thách thức như sau:  
Sự phát triển của mạng lưới giao thông đường bộ. Khoảng hai thập niên gần đây,  
mạng lưới giao thông đường bộ vùng Đồng bằng sông Cửu Long không ngừng được xây  
dựng và cải tạo, dẫn đến nhiều quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ, xã lộ, lộ nông thôn lần lượt ra đời  
và ngày càng hoàn thiện về độ rộng cũng như chất lượng mặt đường. Bên cạnh đó, hệ  
thống cầu trên các tuyến đường cũng được xây dựng. Sự cải thiện của mạng lưới giao  
thông đường bộ đã giúp người dân đi lại, chuyên chở hàng hóa, mua bán nhanh chóng và  
dễ dàng hơn so với giao thông đường thủy. Hơn nữa, trong rất nhiều trường hợp, chính cầu  
bê tông đã làm cho việc lưu thông cũng như cất giữ ghe trở nên khó khăn hơn. Hệ quả là  
giao thông đường thủy mất đi thế thượng phong và thay vào đó, giao thông đường bộ đóng  
vai trò chính yếu trong việc đi lại, chuyên chở hàng hóa và mua bán của cư dân. Điều này  
120  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM  
Nguyễn Trọng Nhân  
làm giảm đi mức độ tập trung của người dân ở các chợ nổi. Đây là một quy luật tất yếu và  
nó không chỉ xảy ra đối với vùng Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam mà đất nước  
Thái Lan cũng đã từng trải qua hiện tượng này.  
Sự phát triển của mạng lưới chợ trên b. Mạng lưới chợ trên bờ gồm chợ truyền  
thống và siêu thị, trong đó, chợ truyền thống vừa là động lực lại vừa là rào cản đối với sự  
tồn tại và thịnh vượng của chợ nổi. Điều này có nghĩa, một mặt chợ truyền thống tiêu thụ  
hàng hóa của chợ nổi, nhưng mặt khác, nó lại tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ với chợ nổi  
bởi phần lớn hàng hóa của chợ truyền thống được cung ứng bởi hệ thống các chợ truyền  
thống khác thông qua phương tiện vận chuyển đường bộ nên chất lượng tốt hơn. Trong khi  
đó, không như một số chợ truyền thống, siêu thị không tiêu thụ hàng hóa từ chợ nổi, hơn  
nữa, siêu thị có rất nhiều hàng hóa và sự tiện lợi trong việc tiếp cận nên nó tạo ra sự cạnh  
tranh hiu quả đối với chợ nổi. Nghiên cứu của Dewi et al. (2012; trích trong Rahmini et  
al., 2015, p.76) cũng cho thấy, chợ truyền thống nói chung, chợ nổi truyền thống nói riêng  
bị suy giảm sức mua bởi sự mở rộng của hệ thống siêu thị.  
Số người tiếp nối hoạt động mua bán trên sông giảm. Mua bán trên sông là hoạt  
động chủ yếu của những người có trình độ học vấn thấp và xuất thân từ nông dân. Có ít  
hoặc không có đất sản xuất, không có việc làm, giữ nghề của gia đình, tận dụng thời gian  
nhàn rỗi, để có thêm thu nhập, yêu thích hoạt động mua bán trên sông… đã thúc đẩy người  
dân đến với nghề thương hồ. Do đó, với sự chuyển đổi mô hình và kĩ thuật canh tác, việc  
sử dụng các giống cây trồng và vật nuôi cho năng suất và chất lượng cao, đời sống kinh tế  
của người dân không ngừng được cải thiện, đã ảnh hưởng xấu đến sự yêu và theo nghề  
mua bán trên sông của không ít cư dân. Bên cạnh đó, hoạt động mua bán trên sông cũng  
gặp những khó khăn (đôi lúc hàng hóa được tiêu thụ chậm; thiếu điện, nước sạch và  
phương tiện giải trí; không có nhà vệ sinh khép kín; con cái theo ghe nên không thể học  
hành; phải thường xuyên xa gia đình; đôi khi mua bán không có lời và thậm chí lỗ lã;  
không gian sống và sinh hoạt trên ghe chật chội; mưa to, gió lớn gây khó khăn trong việc  
neo đậu ghe và mua bán; đóng phí bến nước và bốc dỡ hàng hóa…) đã tạo tâm lí e ngại  
trong việc theo đuổi nghề thương hồ của một số thương nhân. Hơn nữa, trong thời buổi  
hiện nay, nhiều người có điều kiện học hành nên có nhiều cơ hội việc làm. Khi có việc làm  
và thu nhập ổn định, những người này ít có khả năng tham gia hoạt động mua bán trên  
sông.  
Sự phát triển của hệ thống nhà vựa. Trên toàn lãnh thổ vùng Đồng bằng sông Cửu  
Long xuất hiện rất nhiều nơi thu mua hàng nông sản để phân phối cho những chợ trên bờ ở  
cả vùng thành thị và nông thôn. Trực tiếp xuống vùng sản xuất để thu mua hoặc nhà vườn  
chở hàng ra vựa bán là hai phương thức giúp nhà vựa có được hàng hóa. Số lượng nhà vựa  
càng lớn, hàng hóa cung ứng càng đa dạng và phong phú, chất lượng hàng hóa tốt và giá cả  
cạnh tranh càng gây áp lực cho cư dân mua bán ở những chợ nổi bởi nó chiếm lĩnh một  
121  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM  
Tập 15, S2 (2018): 111-124  
phần đáng kể trong chuỗi cung ứng hàng hóa cho nhu cầu tiêu dùng của một bộ phận quần  
chúng nhân dân.  
3.8. Sự thay đổi trong hoạt động mua bán ở chợ nổi  
So với chợ nổi ở thập niên 80 trở về trước, chợ nổi hiện tại có những thay đổi đáng  
kể trong hoạt động mua bán và điều này bị tác động bởi nhu cầu mua bán giữa những  
người trong nội bộ địa phương giảm, nhu cầu mua bán giữa các địa phương gia tăng, sự  
phát triển của khoa học kĩ thuật và công nghệ, nhu cầu của thị trường thay đổi, sự tác động  
của nền kinh tế thị trường, tính nhạy bén của người dân trong mua bán được nâng cao. Vốn  
là một thực thể văn hóa thương mại nên chợ nổi luôn có sự thay đổi và nó thể hiện tính quy  
luật trong sự vận động, phát triển của sự vật. Một học giả từng nói rất đúng rằng “nền văn  
hóa không thay đổi là nền văn hóa chết” (Reid, 2003, p.81). Mặc dù văn hóa có tính ổn  
định cao nhưng cùng với thời gian, không có gì là không biến đổi. Chợ nổi Đồng bằng  
sông Cửu Long vẫn tồn tại nên trong hoạt động mua bán của nó có những thay đổi như sau  
(xem Bảng 1):  
Bảng 1. Sự thay đổi trong hoạt động mua bán của chợ nổi  
Thập niên 80 trở về trước  
Hiện tại  
- Số lượng ghe, xuồng nhỏ tham gia mua bán ở - Số lượng ghe lớn tham gia mua bán ở chợ  
chợ nổi đông hơn số lượng ghe lớn  
nổi đông hơn số lượng ghe nhỏ, vỏ lãi và  
xuồng  
- Có nhiều ghe, xuồng chèo tham gia mua bán - Phần lớn ghe, vỏ máy tham gia mua bán ở  
chợ nổi chợ nổi  
- Có nhiều ghe, xuồng nhỏ chở hàng nông sản địa - Nhiều ghe lớn chở hàng nông sản từ các  
phương ra chợ nổi bán nơi khác đến chợ nổi bán  
- Bán các loại hàng hóa: trái cây, rau, củ, bông, - Bán các loại hàng hóa: rau, củ, quả, thức  
kiểng, hàng thủ công, gia dụng, thực phẩm và ăn, đồ uống, thực phẩm tươi sống, cây  
động vật, hàng gia dụng thiết yếu (Nhâm Hùng, giống, xăng dầu, quần áo, nhu yếu phẩm,  
2009, tr.40)  
hàng gia dụng, hàng lưu niệm, cây cảnh  
- Các hoạt động dịch vụ: đò ngang, phục vụ ăn - Các hoạt động dịch vụ: vận chuyển, ăn  
uống, tiếp nhiên liệu, may vá, sửa máy (Nhâm uống, mua sắm, tiếp nhiên liệu, sửa máy,  
Hùng, 2009, tr. 42-44).  
sửa cân  
- Đơn vị đo lường trong mua bán: giạ, lít, thiên, - Đơn vị đo lường trong mua bán: kg, thiên,  
trăm, chục, chiếc, cái, rổ, cần xé, mớ, mão (Nhâm chục, tạ, trái, nải, lít, chậu, cái  
Hùng, 2009, tr. 45-46).  
- Thu mua hàng hóa chủ yếu bằng cách đến chợ - Thu mua hàng hóa chủ yếu bằng cách vào  
nổi và vào trực tiếp nhà vườn; không hoặc ít sử trực tiếp nhà vườn, nhờ “cò” thu mua hộ,  
dụng điện thoại để liên lạc.  
đến chợ nổi; điện thoại được sử dụng phổ  
biến trong liên lạc  
- Bạn hàng đông, tiêu thụ hàng hóa nhanh.  
- Bn hàng ít, tiêu thhàng hóa chm  
Nguồn: Tác giả, 2017  
122  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM  
Nguyễn Trọng Nhân  
4.  
Kết luận  
Chợ nổi Đồng bằng sông Cửu Long có thể được hình thành từ cuối thế kỉ XVIII mà  
điển hình là chợ nổi Cái Bè. Đến đầu thế kỉ XX, một loạt các chợ nổi Trà Ôn, Cái Răng,  
Ngã Bảy, Ngã Năm lại ra đời. Các chợ nổi Phong Điền, Long Xuyên, Châu Đốc, Cà Mau  
xuất hiện vào thập niên 70 của thế kỉ XX. Cái Nước và Vĩnh Thuận là hai chợ nổi ra đời  
muộn hơn so với các chợ nổi trên (thập niên 80 và 90 của thế kỉ XX). Chợ nổi có vai trò  
phân phối hàng nông sản, làm đa dạng văn hóa vùng, tạo việc làm và mang lại thu nhập  
cho người dân, giao lưu văn hóa và trao đổi thông tin, quảng bá hình ảnh vùng, tạo cảm  
hứng cho hoạt động sáng tạo nghệ thuật, là nguồn tài nguyên du lịch. Hiện tại, hoạt động  
mua bán ở chợ nổi có một số thay đổi đáng kể so với thời điểm thập niên 80 trở về trước.  
Chợ nổi là nguồn tài nguyên quý giá, là cơ sở sinh kế quan trọng của người dân nên việc  
bảo tồn và khai thác chợ nổi theo hướng thương mại - du lịch sẽ góp phần phát triển kinh  
tế, xã hội, văn hóa địa phương nói riêng, cả vùng nói chung.  
Tuyên bvquyn li: Tác gixác nhận hoàn toàn không có xung đột vquyn li.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
Lê Quý Đôn (Nguyễn Khắc Thuần dịch). (2008). Phủ biên tạp lục. tập 3. TPHCM: NXB Giáo dục.  
Trịnh Hoài Đức (Lý Việt Dũng dịch). (2005). Gia Định thành thông chí. Tái bản lần 1. TPHCM:  
NXB Tổng hợp Đồng Nai.  
Nhâm Hùng. (2009). Chợ nổi Đồng bằng sông Cửu Long. TPHCM: NXB Trẻ.  
Phạm Khắc. (2009). Mekong kí s. TPHCM: NXB Văn nghệ.  
Ngô Văn Lệ. (2014). Chợ nổi đồng bằng sông Cửu Long - nét đặc trưng văn hóa của người Việt  
Nam Bộ, Tạp chí Phát triển Khoa học và Công ngh, 17 (X3), tr.5-14.  
Huỳnh Lứa. (2000). Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỉ XVII, XVIII, XIX. TPHCM:  
NXB Khoa học Xã hội.  
Sơn Nam. (2005a). Đất Gia Định - Bến Nghé Xưa và Người Sài Gòn. TPHCM: NXB Trẻ.  
Sơn Nam. (2005b). Tìm hiểu đất Hậu Giang và Lịch sử đất An Giang. TPHCM: NXB Trẻ.  
Đỗ Quỳnh Nga. (2013). Công cuộc mở đất Tây Nam Bộ thời chúa Nguyễn. Hà Nội: NXB Chính trị  
Quốc gia.  
Lâm Nhân. (2015). Chợ nổi Cái Bè tỉnh Tiền Giang với việc khai thác và phát triển du lịch. Kỉ yếu  
Hội thảo quốc tế “Phát triển nguồn lực tiểu vùng sông Mê Kông, Trường Đại học Văn hóa  
TPHCM: NXB Thông tin và Truyền thông, tr.383-392.  
Nguyễn Trọng Nhân, Đào Ngọc Cảnh, Lê Thị Tố Quyên. (2013). Kết quả khảo sát bước đầu về đời  
sống cư dân thương hồ vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Tạp chí Khoa học Trường Đại học  
Cần Thơ, 27 (2013), tr.86-90.  
Nguyễn Trọng Nhân. (2014). Cây bẹo - Biểu tượng văn hóa trên chợ nổi vùng Đồng bằng sông  
Cửu Long, Di sản văn hóa, 4 (49), tr.102-104.  
123  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM  
Tập 15, S2 (2018): 111-124  
Phan Quang. (1981). Đồng bằng sông Cửu Long. TPHCM: NXB Văn hóa.  
Lê Thông (chủ biên). (2007). Việt Nam - Đất nước con người. Thành phố Đà Nẵng: NXB Giáo dục.  
Nguyễn Khắc Viện, Đặng Nghiêm Vạn, Nguyễn Vinh Phúc, Đỗ Thủy, Trần Thanh Phương, Trịnh  
Cao Tưởng, Nguyễn Bích San, Nguyễn Thị Lâm, Nguyễn Hồng Hà. (1989). Đất nước Việt  
Nam. Hà Nội: Công ti Tuyên truyền quảng cáo du lịch Việt Nam.  
Choi, B. W. (2011). Vùng đất Nam Bộ dưới triều Minh Mạng. Lê Thùy Linh và cộng sự dịch. Hà  
Nội: NXB Thế giới.  
Rahmini, N., Pudjihardjo M., Hoetoro A. & Manzilati A. (2015). The Role of Bonding, Bridging  
and Linking at Traditional Markets in Indonesia: A Study at Lok Baintan Floating Market  
Banjar Regency South Kalimantan, Journal of Applied Economics and Business, 3 (3), pp.  
76-88.  
Reid, D. G. (2003). Tourism, Globalization and Development. London: Pluto Press.  
124  
pdf 14 trang Hứa Trọng Đạt 08/01/2024 980
Bạn đang xem tài liệu "Chợ nổi vùng Đồng bằng sông Cửu Long dưới góc nhìn địa lí", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfcho_noi_vung_dong_bang_song_cuu_long_duoi_goc_nhin_dia_li.pdf