Giao tiếp phi ngôn từ trong hoạt động du lịch

TRAO ĐỔI  
GIAO TIẾP PHI NGÔN TỪ  
TRONG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH  
NGUYỄN MINH THÚY  
Tóm tắt  
Giao tiếp phi ngôn từ là một bộ phận quan trọng của giao tiếp nói chung. Nó được hiện thực hoá  
bằng các yếu tố cận ngôn và ngoại ngôn. Trong hoạt động du lịch, không thể phủ nhận vai trò của giao  
tiếp phi ngôn từ. Bài viết đề cập đến một số biểu hiện của giao tiếp phi ngôn từ nhằm khẳng định vai  
trò, tầm quan trọng của nó đối với hoạt động giao tiếp du lịch.  
Từ khóa: Giao tiếp, phi ngôn từ, du lịch.  
Abstract  
Nonverbal communication is an important part of communication in general. It was realized  
by the nonverbal elements and verbal elements. In tourism, we can not deny the role of nonverbal  
communication. The article refers to a number of expressions of nonverbal communication in order to  
confirm its role and importance with tourism activities.  
Keyword: Communication, nonverbal, tourism.  
1. Giao tiếp và giao tiếp phi ngôn từ  
- Có thể nhấn mạnh vào cả người nói và  
người nghe: Giao tiếp là sự truyền tải từ người  
này đến người khác một thông điệp được người  
nhận hiểu theo đúng ý của người (4, tr.37).  
1.1. Giao tiếp  
Trong lịch sử, vấn đề giao tiếp đã được  
nghiên cứu bởi các nhà triết học, locgic học,  
hùng biện học. Khi đưa ra định nghĩa về giao  
tiếp, các nhà nghiên cứu đều thống nhất :  
Giao tiếp là một quá trình tương tác, một hoạt  
động trao đổi thông tin nhằm nhận biết và  
tác động lẫn nhau trong quan hệ giữa người  
với người để đạt được mục đích nhất định.  
Nguyễn Quang đã hệ thống những định nghĩa  
về giao tiếp của các học giả nước ngoài, các  
định nghĩa này có mức độ nhấn mạnh khác  
nhau vào các yếu tố khác nhau.  
- Giao tiếp là sự chia sẻ ý nghĩa thông qua  
hành vi ngôn từ và phi ngôn từ.  
- Hoặc tập trung vào ý nghĩa của thông  
điệp được truyền tải:  
Giao tiếp là quá trình trong đó người ta gắn  
các ý nghĩa vào các sự kiện và đặc biệt là vào  
hành vi của người khác (4, tr.37).  
- Hoặc tập trung vào quá trình truyền tải  
thông tin: Giao tiếp được coi là quá trình trao  
đổi thông tin giữa mọi người bằng cả ngôn từ  
và phi ngôn từ (4, tr.38).  
- Có thể nhấn mạnh vào người nghe (người  
nhận tin): Giao tiếp hàm chỉ quá trình người ta  
phản hồi lại hành vi tượng trưng trực diện của  
những người khác (4, tr.37).  
- Hoặc tập trung vào cả thông tin ý niệm,  
thái độ và tình cảm của thông điệp được trao  
NGHIÊN CỨU  
Số 4 - Tháng 6 - 2013  
71  
VĂN H ÓA  
NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H ÓA  
đổi: Giao tiếp là một quá trình hữu thức hoặc  
vô thức, hữu ý hoặc vô tình trong đó các tình  
cảm và ý tưởng được diễn tả bằng các thông  
điệp ngôn từ hoặc phi ngôn từ. Nó xảy ra ở các  
cấp độ nội nhân, liên nhân và công cộng. Giao  
tiếp của con người vốn năng động và liên tục,  
bất hồi tương tác và mang tính chu cảnh.  
đưa ra để phản hồi thông điệp do người gửi  
chuyển đến, thông thường “phản hồi” thực sự  
tạo ra ảnh hưởng đối với hành vi tiếp sau của  
người gửi thông điệp ban đầu;  
- Chu cảnh: là tính huống trong đó thông  
điệp được truyền tải, chu cảnh bao gồm: Địa  
điểm giao tiếp, thời gian giao tiếp, phương  
tiện truyền tải, số người có mặt...;  
Giao tiếp là bất cứ quá trình nào trong đó  
người ta chia sẻ thông tin, ý niệm và tình cảm,  
nó viện đến ngôn từ không chỉ ở dạng khẩu  
ngữ, bút ngữ mà cả ngôn ngữ thân thể, phong  
cách và kiểu cách cá nhân, ngoại cảnh và mọi  
thứ bổ sung ý nghĩa cho thông điệp.  
- Vật cản: là bất cứ cái gì, điều gì làm ngắt  
quãng thông điệp hoặc dòng giao tiếp giữa  
người gửi và người nhận;  
Các nhà khoa học đã khẳng định “Con  
người giao tiếp bằng ngôn từ để chia sẻ những  
thông tin mang tính nhận thức và để truyền bá  
kiến thức, nhưng họ phụ thuộc rất nhiều vào  
giao tiếp phi ngôn từ để chia sẻ tình cảm, cảm  
xúc và thái độ” (4, tr.45). Nhận định trên cho  
thấy trong hoạt động giao tiếp của con người,  
đặc biệt là giao tiếp trực diện, không thể phủ  
nhận vai trò của ngôn ngữ (giao tiếp bằng  
ngôn từ). Tuy nhiên, trên thực tế, mỗi cá nhân,  
khi tham gia vào quá trình giao tiếp, có thể ít  
hoặc nhiều, có thể có chủ đích, hay không có  
chủ đích, đều sử dụng các yếu tố như cử chỉ  
tay chân, biểu hiện nét mặt, ngữ điệu.... (giao  
tiếp phi ngôn từ) để truyền tải cụ thể hơn, rõ  
ràng hơn thông điệp của mình đến đối tượng  
giao tiếp.  
Trong các khái niệm giao tiếp nêu trên có  
thể thấy các khái niệm của Berko et al (1989)  
và Hybel& Weaver (1992) là đầy đủ và thuyết  
phục hơn cả bởi các khái niệm này đã chỉ ra  
được bản chất hành tác, tương tác và xuyên  
tác của quá trình giao tiếp; nêu bật được các  
đặc tính của giao tiếp; nêu ra được các phương  
tiện hiện thực hóa giao tiếp và nêu rõ được các  
cấp độ của giao tiếp.  
Trong quá trình giao tiếp ta có thể thấy  
các thành phần chính yếu sau :  
- Người gửi (còn được gọi là người nói) là  
người đưa ra hành vi giao tiếp (có thể là ngôn  
từ hoặc phi ngôn từ) hay nói cách khác, đây  
quá trình mã hoá: thông tin được biến thành  
lời nói, chữ viết hay các ký hiệu khác;  
1.2. Giao tiếp phi ngôn từ  
- Người nhận (còn được gọi là người nghe)  
là người gán nghĩa vào hành vi của người gửi  
hay nói cách khác đây là quá trình giải mã các  
thông điệp của người gửi;  
Giao tiếp phi ngôn từ được định nghĩa là  
toàn bộ các bộ phận kiến tạo nên giao tiếp  
không thuộc mã ngôn từ, có nghĩa là không  
được mã hoá bằng từ ngữ. Nếu giao tiếp  
ngôn từ được thực hiện thông qua Nội ngôn  
ngữ bao gồm các đơn vị từ vựng: từ đơn, từ  
ghép,cụm từ, thành ngữ...; các qui tắc ngữ  
pháp, ngữ âm, qui tắc sử dụng ngôn ngữ và  
các kỹ năng tương tác thì giao tiếp phi ngôn  
từ được hiện thực hoá thông qua hai yếu tố là  
Cận ngôn ngữ và ngoại ngôn ngữ.  
(Ở một số tài liệu khác, người gửi và người  
nhận được gọi là bộ phát và bộ thu, hai thành  
phần chính trong giao tiếp).  
- Thông điệp là hành vi của người gửi (ngôn  
từ và phi ngôn từ; hữu ý hoặc vô tình) được  
người nhận gán nghĩa;  
- Kênh là phương tiện qua đó các thông  
điệp được truyền tải từ người gửi đến người  
nhận. Trong giao tiếp trực tiếp, kênh chính  
được sử dụng là nghe và nhìn;  
- Cận ngôn ngữ bao gồm các thành tố: Các  
đặc tính của ngôn thanh: tốc độ, cao độ, cường  
độ (độ nhanh chậm,cao thấp, mạnh nhẹ của  
chuỗi lời nói); phẩm chất của ngôn thanh(chất  
- Phản hồi: là thông điệp được người nhận  
72 Số 4 - Tháng 6 - 2013  
TRAO ĐỔI  
giọng: khàn, trong, rè, the thé...), các yếu tố xen  
ngôn thanh (hắng giọng, ậm ừ, ờ, à...); các loại  
thanh lưu và đôi khi cả sự im lặng.  
ngôn từ một thời vốn thuộc về một hay một số  
cộng đồng nhất định, nay đã được phổ biến và  
chấp nhận rộng rãi. Ví dụ, giơ ngón tay cái lên  
để biểu thị ý nghĩa “tốt, giỏi, đồng tình” hoặc  
giơ ngón trỏ và ngón giữa thành hình chữ V và  
quay lòng bàn tay ra ngoài để biểu thị ý nghĩa  
“chiến thắng, chúc thành công.  
- Ngoại ngôn ngữ bao gồm các thành tố:  
Ngôn ngữ thân thể: tiếp xúc qua ánh mắt;  
các biểu hiện trên khuôn mặt; đặc tính thể  
chất: cao, thấp, béo, gầy...; các cử chỉ của tay  
và chuyển động của thân thể, tư thế, hành vi  
động chạm... Ngôn ngữ vật thể: trang phục,  
quần áo, giầy dép...; đồ trang sức, cách trang  
điểm; các phụ kiện đi kèm: kính, đồng hồ túi  
sách...; mùi hương nhân tạo: nước hoa, băng  
phiến, xà phòng... Ngôn ngữ môi trường: địa  
điểm, khoảng cách, thời gian, hệ thống ánh  
sáng, mầu sắc, nhiệt độ.... (4, tr. 61)  
Tuy vậy trong quá trình giao tiếp phi ngôn  
từ cũng cần cẩn trọng bởi nhiều biểu hiện phi  
ngôn từ giống nhau nhưng được nhận diện  
và diễn giải khác nhau, thậm chí với ý nghĩa  
trái ngược nhau trong các cộng đồng ngôn  
ngữ -văn hóa khác nhau. Ví dụ: cùng là hành  
động nối hai đầu ngón tay cái và ngón tay trỏ  
của một bàn tay để tạo thành một vòng tròn  
thì với người Anh, Mỹ, Úc, biểu hiện phi ngôn  
từ này được hiểu là Ok (tốt, được), nhưng với  
người Nhật nó lại có nghĩa là tiền, trong khi  
đó người Pháp và người Lào lại hiểu nó theo  
nghĩa là zero (không có gì hoặc là vô giá trị)….  
Như vậy trong mọi tình huống giao tiếp xã  
hội, ta đều có thể nhận thấy các dạng thức của  
giao tiếp phi ngôn từ chỉ là ở mức độ đậm nhạt  
khác nhau mà thôi. Hay nói cách khác, người  
ta không thể không giao tiếp phi ngôn từ bởi  
ngay cả khi ta không nói năng, không hoạt  
động thì ở những mức độ khác nhau, hoặc hữu  
ý hoặc vô tình, ta vẫn đang giao tiếp với người  
khác, thông báo với họ về thái độ (thờ ơ, phân  
vân, khinh thị hay kính trọng…), tình cảm (say  
mê, đau khổ, căm giận, yêu thương…), tình  
trạng sức khoẻ (cường tráng, suy sụp…), trạng  
thái tâm lý (căng thẳng, lo âu, phấn khích…).  
Trong một số trường hợp, giao tiếp phi ngôn  
từ giúp người nghe nhìn thấy rõ tình cảm thật  
của người nói hơn là giao tiếp ngôn từ. Ngôn  
từ thường rất chính xác trong việc mô tả các  
trạng thái tình cảm tinh tế khác nhau xong  
trên thực tế chúng chỉ miêu tả được một khía  
cạnh hoặc biểu thị được một trạng thái của  
một cảm giác nào đó mà thôi. Ví dụ khi nói  
“đứa trẻ vô cùng sung sướng khi nhận món  
quà từ tay bố, sẽ không biểu đạt được rõ nét  
svô cùng sung sướngcủa đứa trẻ bằngđứa  
trẻ nhảy cẫng lên, gương mặt sáng bừng rạng  
rỡ khi nhận món quà từ tay bố.  
Như vậy khi thực hiện giao tiếp phi ngôn  
từ, chúng ta không chỉ xem xét và diễn giải  
một hiện tố phi ngôn từ hay một cử chỉ đơn lẻ  
mà phải xem xét chúng trong mối tương giao  
với một loạt các yếu tố như thời gian, không  
gian, quan hệ, đề tài trao đổi….  
Tóm lại, giao tiếp nói chung và giao tiếp  
phi ngôn từ nói riêng là hoạt động gắn liền với  
đời sống xã hội của con người. Giao tiếp giúp  
cho các cá nhân, các tổ chức xã hội thực hiện  
việc trao đổi thông tin, kinh nghiệm và trong  
một chừng mực nhất định, giao tiếp (đặc biệt  
là giao tiếp phi ngôn từ) góp phần vào quá  
trình giao lưu trao đổi văn hóa giữa các quốc  
gia các cộng đồng, giúp các cộng đồng xích  
lại gần nhau.  
2. Một số biểu hiện của giao tiếp phi ngôn  
từ trong hoạt động du lịch  
Du lịch là ngành kinh tế dịch vụ tổng hợp.  
Sản phẩm của du lịch có thể là sự kết hợp của  
một chuỗi các sản phẩm dịch vụ như : lưu trú,  
ăn uống, vận chuyển, tham quan giải trí…  
nhằm đem lại cho du khách một kỳ nghỉ tương  
xứng với đồng tiền họ đã đầu tư. Đối tượng  
Đặc biệt nhiều biểu hiện phi ngôn từ có thể  
được nhận diện và được tiếp nhận như nhau  
trong nhiều cộng đồng ngôn ngữ và văn hóa  
khác nhau. Bằng chứng là nhiều hiện tố phi  
NGHIÊN CỨU  
Số 4 - Tháng 6 - 2013  
73  
VĂN H ÓA  
NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H ÓA  
phục vụ của du lịch rất đa dạng về quốc tịch,  
giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp…, Mục đích, sở  
thích đi du lịch của khách cũng rất khác nhau.  
Do đó, để kinh doanh có hiệu quả, đòi hỏi phải  
có sự đầu tư toàn diện, đồng bộ từ hệ thống  
cơ sở vật chất kỹ thuật hoàn chỉnh, phù hợp  
với loại hạng và đối tượng khách hàng mà  
doanh nghiệp hướng tới đến đội ngũ những  
người phục vụ được đào tạo một cách bài bản,  
có khả năng tác nghiệp tốt, đặc biệt là khả  
năng giao tiếp và nắm bắt được tâm lý khách.  
- Giọng nói ấm áp và hấp dẫn cộng với đôi  
mắt sáng… tạo thành cái duyên trong giao  
tiếp; không cần đẹp mà cần cái “duyên.  
- Về cường độ: tiếng nói đủ to, đủ mạnh sẽ  
làm rung chuyển người nghe, những tiếng nói  
lếu lếu hoặc lờ đờ trong miệng, những tiếng  
nói nhựa nhựa không thể nào cảm được người  
nghe.  
- Về âm sắc: Âm sắc trong trẻo, mềm mại  
làm cho tiếng nói dễ nghe, ngược lại âm sắc  
cứng đờ, chát chúa hay mai mỉa làm chối tai  
thính giả.  
Như đã phân tích ở phần trên, mỗi cá nhân  
có thể thực hiện hoạt động giao tiếp dưới hai  
hình thức giao tiếp ngôn từ và giao tiếp phi  
ngôn từ. Hoạt động giao tiếp trong du lịch  
cũng không ngoại lệ, tuy nhiên trong phạm vi  
bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến một số  
biểu hiện của giao tiếp phi ngôn từ trong hoạt  
động kinh doanh du lịch để khẳng định thêm  
vai trò, tầm quan trọng của nó trong hoạt động  
kinh doanh mang tính tổng hợp này.  
- Về âm vực: Âm vực rộng phát ra từ những  
giọng thật trầm đến những giọng thật bổng  
mới có đủ phương tiện để diễn đạt tất cả tình  
cảm (3, tr.158).  
Đối với một hướng dẫn viên du lịch, việc  
sử dụng cường độ, tốc độ âm thanh không  
phù hợp trong quá trình tác nghiệp như “Nói  
không rõ làm người nghe khó hiểu, khó tiếp  
thu điều mình nói” hay “Nói thao thao bất  
tuyệt” là những điềutối kkhi tác nghiệp bởi  
một nét đặc thù của giao tiếp trong hoạt động  
hướng dẫn là giao tiếp giữa một người với một  
nhóm người, trong điều kiện không gian, thời  
gian mở. Chất giọng, âm điệu, của hướng dẫn  
viên khi thực hiện việc thuyết minh, hướng  
dẫn tại một điểm du lịch cũng rất quan trọng  
bởi họ không chỉ thực hiện nhiệm vụ cung  
cấp các thông tin về điểm đến tới khách hàng  
mà còn gửi gắm, trao truyền cả tâm tư, tình  
cảm, cả tình yêu, niềm tự hào của mình về con  
người, về cảnh quan... của điểm đến. Đây cũng  
là một trong những lý giải việc các công ty lữ  
hành thường sử dụng hướng dẫn viên tại điểm  
đến như: quê Bác; thành cổ Quảng Trị; ngã ba  
Đồng Lộc hay cố đô Huế…  
2.1. Yếu tố cận ngôn ngữ trong giao tiếp  
với khách du lịch  
Trong hoạt động giao tiếp du lịch, yếu tố  
cận ngôn ngữ được diễn giải hay được thể hiện  
thông qua “cách đàm thoạicủa nhân viên với  
khách hàng trực tiếp hoặc gián tiếp. Điều đó  
có nghĩa là ngoài nội dung của thông điệp  
thì cách chuyển tải thông điệp đóng một vai  
trò đặc biệt quan trọng. Chính vì thế, để giao  
tiếp thành công, ngoài việc “nói cái gì, người  
nhân viên còn phải chú ý đến việcnói như thế  
nào. Giao tiếp với khách hàng trong du lịch  
không chỉ đơn thuần là sự truyền đi và tiếp  
nhận thông điệp giữa các đối tượng tham gia  
giao tiếp mà là sự giao tiếp giữa người được  
phục vụ (khách hàng) và người phục vụ (nhân  
viên). Do đó một giọng nói vừa đủ nghe, âm  
điệu nhẹ nhàng, lịch sự, ngôn từ được chuyển  
tải một cách rõ ràng mạch lạc, sẽ có sức thuyết  
phục cao hơn.  
Trong khách sạn du lịch, các yếu tố cận  
ngôn ngữ không rõ nét như trong hoạt động  
hướng dẫn du lịch nhưng cũng góp phần  
không nhỏ trong việc tạo ra những hiệu ứng  
tích cực cho quá trình giao tiếp. Một nhân  
viên có kinh nghiệm sẽ biết “lựa lời” khi đàm  
thoại với khách, sẽ biết cách điểu chỉnh giọng  
Giáo sư Nguyễn Văn Lê đã đưa ra những  
nhận định về tầm quan trọng của yếu tố cận  
ngôn ngữ trong giao tiếp với khách du lịch  
như sau:  
74 Số 4 - Tháng 6 - 2013  
TRAO ĐỔI  
nói sao cho trầm ấm nhẹ nhàng, êm dịu ngọt  
ngào mà không ấp úng nhát gừng, sao cho  
phù hợp với đối tượng giao tiếp. Ví dụ cùng  
là lời chào mừng sự trở lại khách sạn của một  
khách hàng quen.  
dụ Người Việt, Trung Quốc, Nhật, Hàn Quốc…  
thường có thói quen dùng hai tay để trao và  
nhận một vật gì đó (quà, thư) từ một người lạ,  
một người già hơn hoặc có địa vị xã hội cao  
hơn mình. Cử chỉ này được hiểu là biểu thị sự  
tôn trọng đối tác giao tiếp. Họ chỉ sử dụng một  
tay để trao nhận khi đối tác là đồng niên, đồng  
quyền, hoặc trẻ hơn hay có địa vị xã hội thấp  
hơn hoặc thậm chí để biểu thị sự coi thường.  
Trong khi đó, với văn hóa Âu - Mỹ, cùng một  
chức năng trao nhận với mọi đối tác giao tiếp,  
người ta thường chỉ sử dụng một tay và các  
hàm ý tôn trọng hay coi thường không phụ  
thuộc vào cử chỉ này. Tương tự như vậy, trong  
văn hóa phương tây (đặc biệt là Anh, Mỹ, Úc)  
việc nhìn thẳng vào đối tác giao tiếp được coi  
là hành vi tích cực nhằm tỏ ra cởi mở, thẳng  
thắn và thích thú; việc tránh tiếp xúc qua ánh  
mắt thường bị qui xét là hành vi tiêu cực, được  
diễn giải là sự chán chường, không trung thực  
và không hợp tác. Trong khi đó, ở các nền văn  
hóa Đông Á như Việt, Nhật, Hàn, Trung, Thái…  
việc nhìn thẳng vào mắt ai đó một lúc lâu, bị  
coi là bất lịch sự và mang tính thách thức….  
“Kính chào ông Michel. Kính chào bà quí  
mến. Thật là niềm vui lớn cho chúng tôi, lại  
được đón tiếp ông bà lần nữa.  
Nếu nhân viên sử dụng tốc độ nói hơi  
nhanh, cao độ âm thanh ở mức cao, chất giọng  
tự nhiên, không có yếu tố xen ngôn thanh... sẽ  
thể hiện một cách rõ nét sự vui mừng của nhân  
viên khi đón khách, ngược lại khi nhân viên nói  
câu chào mừng trên với giọng nói chậm, cao  
độ âm thanh ở mức thấp, sẽ khiến khách hàng  
cảm thấy nhân viên như đang đọc lời chào  
mừng. Đặc biệt nhân viên tuyệt đối không  
chào mừng khách hàng theo kiểu: “Dạ…kính  
chào ông Michel, dạ... kính chào bà quí mến,...  
ờ…thật là niềm vui lớn cho chúng tôi lại được  
đón tiếp ông bà lần nữa”  
Xét một cách tổng thể, yếu tố cận ngôn  
ngữ là một thành tố tuy không tham gia vào  
hệ thống ngôn từ được sử dụng trong giao  
tiếp nhưng không thể phủ nhận vai trò của nó  
trong việc diễn tả các trạng thái tình cảm, cảm  
xúc của người nói đến người nghe. Trong hoạt  
động du lịch, yếu tố cận ngôn ngữ góp phần  
tạo ra isắc vẻcủa thông điệp mà ngưòi làm  
du lịch muốn chuyển tải đến khách hàng.  
Trong hoạt động du lịch, việc tìm hiểu và  
nắm bắt được những hành vi, cử chỉ, điệu bộ  
mang tính “dấu hiệu” của du khách sẽ giúp ta  
hiểu và dễ tiếp cận với khách hàng hơn, đồng  
thời cũng hạn chế tối đa những hành vi, cử  
chỉ… có thể dẫn đến sự hiểu lầm của khách  
hàng hoặc áp dụng một cách cứng nhắc những  
nguyên tắc mang tính lý thuyết trong quá trình  
giao tiếp với khách hàng. Chẳng hạn khi giúp  
đoàn khách Nhật chụp bức ảnh kỷ niệm sau khi  
vào viếng lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, hướng  
dẫn viên cứ cố gắng động viên để khách cười  
mà không biết rằng người Nhật thường không  
mỉm cười khi chụp ảnh trong các dịp trang trọng  
vì họ e ngại rằng người xem ảnh sẽ cho mình là  
người lông bông phù phiếm. Hay khi khách du  
lịch đến từ nhiều quốc gia coi “gật đầu” là thể  
hiện của sự đồng ý, đồng tình, cho phép thì du  
khách đến từ các quốc gia như Thổ Nhĩ Kỳ, Iran,  
Bungari và một số vùng thuộc Hi Lạp lại gắn  
cho động tác này ý nghĩa ngược lại. Kiểu chào  
chắp hai tay vào nhau, hai lòng bàn tay ép vào  
2.2. Các yếu tố ngoại ngôn ngữ trong giao  
tiếp với khách du lịch  
2.2.1. Ngôn ngữ thân thể  
Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng,  
cơ thể con người có thể tạo ra hơn 700.000  
chuyển động khác nhau để diễn tả các sắc thái  
cực kỳ tinh tế của trạng thái, thái độ, xúc cảm  
và tình cảm của con người (4, tr. 111). Mỗi một  
cử động của thân thể có thể giúp cho từng  
cá nhân khi tham gia vào quá trình giao tiếp  
“đọc” ra nhiều điều từ người đối diện. Ngôn  
ngữ thân thể, nếu nghìn từ góc độ văn hoá, lại  
nói lên nhiều điều về thói quen, tập quán, về  
những kiêng kỵ của mỗi quốc gia dân tộc. Ví  
NGHIÊN CỨU  
Số 4 - Tháng 6 - 2013  
75  
VĂN H ÓA  
NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H ÓA  
nhau, các ngón tay để thẳng khá phổ biến ở  
các quốc gia như: Ấn Độ, Lào, Thái Lan, nhưng  
đối với người Thái Lan khi chào (hay còn gọi là  
wai) hai ngón tay cái sẽ chạm vào (hoặc gần  
chạm) vào bốn vị trí trên cơ thể người thực hiện  
chào (wai) để biểu hiện vị trí xã hội của người ấy  
trong mối quan hệ với người tiếp nhận wai. Bốn  
vị trí đó là : Ngực, cằm mũi và trán. Wai ngực  
dành cho bạn bè con trẻ, đồng nghiệp…; wai  
cằm dành cho người hơn tuổi, người lạ; wai mũi  
dành cho cha mẹ thầy cô…; wai trán dành cho  
đức vua, các bậc cao tăng và hình ảnh Phật.  
có đồng phục riêng cho từng bộ phận). Ngoài  
ra còn có những qui định mang tính chất bắt  
buộc đối với nhân viên về trang phục, kiểu  
tóc, cách trang điểm, sử dụng nước hoa, mỹ  
phẩm... Ví dụ, các khách sạn năm sao đều qui  
định rõ về vệ sinh cá nhân: Nhân viên phải  
thường xuyên tắm rửa, dùng chất khử mùi,  
chống mùi hôi khi cần thiết; thường xuyên  
gội đầu, tránh để tóc bị gàu, móng tay phải  
giữ sạch sẽ và không để dài. Về hình thức tác  
phong: Nhân viên phải mặc đồng phục chỉnh  
tề, gọn gàng và sạch sẽ, đeo biển tên trong  
giờ làm việc; nhân viên nam phải cạo râu hàng  
ngày, tóc được chải, cắt, gọn gàng; nhân viên  
nữ trang điểm nhẹ nhàng, không dùng các loại  
mỹ phẩm có hương thơm đậm, nếu tóc dài (ở  
mức dưới cổ áo) nên buộc hoặc cặp tóc có màu  
sắc, kiểu cách giản dị, không đeo đồ trang sức  
quá mức cần thiết.  
Ngoài việc sưu tầm tìm hiểu những dấu  
hiệu của ngôn ngữ thân thể ở một số thị  
trường khách chính, người hoạt động trong  
lĩnh vực du lịch nhất thiết phải tuân thủ  
những dấu hiệu mang tính chuẩn mực của  
ngôn ngữ cơ thể khi tác nghiệp như: tư thế  
khi nói chuyện hoặc khi chỉ dẫn thuyết minh  
về điểm du lịch; động tác tay khi hướng dẫn;  
dáng người, phong thái khi di chuyển; thái độ  
khi tiếp nhận những yêu cầu, góp ý của khách  
hàng về sản phẩm dịch vụ....Hạn chế tối đa các  
động tác thừa trong giao tiếp với khách như  
vừa nói vừa gãi đầu, bấm bút bi hoặc nhai kẹo  
cao su; vừa chào khách vừa xoa xoa hai bàn  
tay vào nhau….  
Đối với các hướng dẫn viên du lịch, do  
đặc thù công việc (phải di chuyển, vận động  
nhiều, tác nghiệp ở nhiều dạng địa hình khác  
nhau) nên trang phục, đầu tóc phải gọn gàng,  
phù hợp với thuần phong mỹ tục, đảm bảo  
tính tiện lợi, thoải mái, không nên quá cầu kỳ,  
sang trọng.  
2.2.2. Ngôn ngữ vật thể  
Việc ăn mặc, trang điểm, sử dụng nước  
hoa hoặc các phụ kiện đi kèm của du khách,  
ở mỗi quốc gia cũng có những điểm khác biệt.  
Đôi khi ở một số quốc gia còn có những cách  
phục sức tương đối đặc biệt. Ví dụ, phụ nữ Hồi  
giáo với bộ trang phục đen tuyền che kín từ  
đầu đến chân, chỉ để hở đôi mắt; phụ nữ Ấn  
Độ rất thích đồ trang sức, họ không chỉ đeo đồ  
trang sức ở cổ, tay, tai mà còn đeo ở mũi, thậm  
trí cả ở rốn…; hay nam giới người Scotland có  
thể mặc váy vào các dịp lễ trọng thể ….Người  
làm du lịch cần nắm bắt những nét văn hóa,  
tập quán riêng của du khách được biểu hiện  
qua các yếu tố thuộc ngôn ngữ vật thể để có  
những hành vi giao tiếp phù hợp, tránh gây  
hiểu lầm hoặc tác động tiêu cực đến khách.  
Người Anh có câu thành ngữ “Vẻ bề ngoài  
dễ đánh lừa”nhưng họ cũng nhận ra rằng“Ông  
thợ may tạo ra con người. Người Việt lại có câu  
“Người đẹp về lụa. Điều đó cho thấy vẻ bên  
ngoài của con người đóng vai trò không thể  
bỏ qua trong các tương tác xã hội. Cách thức  
mà mỗi cá nhân xuất hiện trước người khác  
cũng ảnh hưởng không nhỏ đến phản ứng trở  
lại của người khác, đặc biệt là trong lần gặp gỡ  
đầu tiên, ấn tượng ban đầu thường rất sâu sắc  
và lâu bền.  
Ý thức được tầm quan trọng của vẻ bên  
ngoài khi tiếp xúc với khách, các doanh nghiệp  
du lịch tiến hành thiết kế đồng phục cho nhân  
viên (trong các doanh nghiệp khách sạn còn  
76 Số 4 - Tháng 6 - 2013  
TRAO ĐỔI  
2.2.3. Ngôn ngữ môi trường  
3. Kết luận  
Giao tiếp là một hình thái quan hệ giữa  
người với người, một nhu cầu diễn ra hàng  
ngày và dường như chiếm một tỷ lệ thời gian  
khá nhiều trong cuộc đời của mỗi người. Hoạt  
động giao tiếp xuất hiện trong mọi lĩnh vực  
của đời sống xã hội, có thể dưới dạng ngôn từ  
hoặc phi ngôn từ song dù với hình thức nào đi  
nữa, giao tiếp cũng nhằm truyền đi một lượng  
thông tin nhất định, chính điều đó giúp con  
ngưòi hiểu nhau hơn, gắn kết với nhau hơn.  
Trong hoạt động du lịch nếu giao tiếp ngôn từ  
làm nhiệm vụ truyền đến du khách một lượng  
từ vựng mang hàm nghĩa nhất định thì giao  
tiếp phi ngôn từ có nhiệm vụ chuyển tải sự  
trân trọng, sự nhiệt huyết, tình cảm và sự hiểu  
biết… của mỗi nhân viên đến với du khách.  
Giao tiếp phi ngôn từ còn thể hiện những nét  
đặc trưng văn hóa của các quốc gia, dân tộc,  
vì thế cũng góp phần không nhỏ trong giao  
lưu văn hóa.Từ việc xem xét các khía cạnh trên,  
không thể phủ nhận tầm quan trọng của giao  
tiếp phi ngôn từ trong hoạt động du lịch.  
Ngôn ngữ môi trường được hiểu là tất cả  
các yếu tố trong môi trường giao tiếp và bao  
quanh các đối tác giao tiếp có khả năng truyền  
tải những thông điệp nhất định và có tác động  
đến sự giao tiếp. Ngôn ngữ môi trường bao  
gồm: địa điểm, khoảng cách, thời gian, hệ  
thống ánh sáng, mầu sắc, nhiệt độ....  
Trong du lịch yếu tố thời gian thường là  
vấn đề mà các hướng dẫn viên cần lưu ý nhất,  
cũng cần hiểu yếu tố thời gian ở đây theo hai  
cách: thứ nhất là thời gian mà ở đó tình huống  
giao tiếp xảy ra và cách thứ hai là sử dụng thời  
gian trong những tình huống nhất định. Cách  
hiểu thứ nhất thường liên quan đến sự chậm  
trễ, sai giờ hẹn, thường khiến du khách không  
hài lòng và ảnh hưởng không tốt đến quan hệ  
giao tiếp giữa khách và hướng dẫn viên. Trên  
thực tế, khách du lịch ở một số quốc gia như  
gian nhưÝ Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Mêhicô và  
các nước Nam Mỹ... có thói quen không cụ thể,  
chínhxácmtcáchtuyệtđivthờigiannhưng  
khi phục vụ những khách hàng này, hướng dẫn  
viên cần phải hiểu là mình đang làm nhiệm vụ  
và thời gian đối với du khách đồng nghĩa với  
việc sử dụng hiệu quả đồng tiền mà họ đã đầu  
tư cho chuyến đi. Mặt khác, người hướng dẫn  
viên linh hoạt, lấy được thiện cảm từ khách là  
người biết sử dụng thời gian một cách hợp lý.  
Khách hàng sẽ không khen khi hướng dẫn viên  
cứ say sưa với bài thuyết minh của mình mà  
không biết rằng du khách đã quá mệt mỏi vì  
phải đứng lâu dưới trời nắng...  
N.M.T  
(Ths, GV Khoa Văn hóa du lịch)  
Tài liệu tham khảo  
1. Đinh Vân Chi (2004), Nhu cầu của du khách  
trong quá trình du lịch, Nxb Văn hoá thông tin,  
Hà Nội.  
2. Nguyễn Văn Đính, Nguyễn Văn Mạnh  
(2009), Giáo trình tâm lý và nghệ thuật giao tiếp  
ứng xử trong kinh doanh du lịch, Nxb Đại học Kinh  
tế Quốc dân, Hà Nội  
3. Nguyễn Văn Lê (1997), Tâm lý học du lịch,  
Nxb Trẻ TP Hồ Chí Minh.  
Ngôn ngữ môi trường còn được biểu hiện  
ở việc trang trí, sắp xếp phòng ngủ khách sạn  
phù hợp với nhu cầu, thói quen của du khách.  
Điều này nói nên sự tận tình chu đáo của khách  
sạn dành cho khách hàng. Việc bài trí phòng  
ăn, sắp xếp bàn ăn theo đúng phong cách của  
quốc gia, dân tộc cũng“nói”nên rằng nhà hàng  
luôn mong muốn đem lại cho du khách sự hài  
lòng tuyệt đối, sự phục vụ trên cả mong đợi.  
4. Nguyễn Quang (2008), Giao tiếp phi ngôn từ  
qua các nền văn hóa, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội  
5. Bùi Thanh Thuỷ (2009), Mười kỹ năng tạo  
nên sự thành công của người hướng dẫn du lịch,  
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.  
Ngày nhận bài: 12/4/2013  
Ngày phản biện, đánh giá: 10/5/2013  
Ngày chấp nhận đăng: 12/6/2013  
NGHIÊN CỨU  
Số 4 - Tháng 6 - 2013  
77  
VĂN H ÓA  
pdf 7 trang Hứa Trọng Đạt 08/01/2024 460
Bạn đang xem tài liệu "Giao tiếp phi ngôn từ trong hoạt động du lịch", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfgiao_tiep_phi_ngon_tu_trong_hoat_dong_du_lich.pdf