Những thành tựu giáo dục của Việt Nam thời Lý - Trần: Nhìn từ góc độ lấy Phật giáo làm quốc giáo trên nền tảng giáo dục Tam giáo đồng nguyên

DOI: 10.31276/VJST.63(10).61-64  
Khoa học xã hội và nhân văn  
Những thành tựu giáo dục của Việt Nam thời Lý - Trần:  
Nhìn từ góc độ lấy Phật giáo làm quốc giáo trên nền tảng giáo dục Tam giáo đồng nguyên  
Đặng Thị Đông*  
Viện Trần Nhân Tông, Đại học Quốc gia Hà Nội  
Ngày nhận bài 18/8/2021; ngày chuyển phản biện 23/8/2021; ngày nhận phản biện 20/9/2021; ngày chấp nhận đăng 28/9/2021  
Tóm tắt:  
Phật giáo thời Lý - Trần có vai trò là quốc giáo trong mối quan hệ Tam giáo (Nho - Phật - Đạo), góp phần phát triển  
nền giáo dục Đại Việt. Các thiền sư, cư sỹ, phật tử có công rất lớn trong việc giúp các nhà lãnh đạo quản lý đất nước,  
định hướng những chính sách tích cực cho quốc gia. Thông qua nghiên cứu của mình, tác giả khẳng định, lấy giáo  
dục Phật giáo làm quốc giáo là một chủ trương đúng đꢀn của giáo dục Việt Nam thời Lý - Trần; đồng thời phân tích  
những thành tựu của giáo dục thời kỳ này trên phương diện xây dựng hệ thống giáo dục, chính sách khoa cử trong  
việc tuyển chọn, sử dụng nhân tài và các thành tựu nổi bật khác trong đời sống xã hội.  
Từ khóa: giáo dục Phật giáo, giáo dục thời Lý - Trần, khoa cử thời Lý - Trần, Tam giáo đồng nguyên, thành tựu giáo  
dục Việt Nam.  
Chỉ số phân loại: 5.11  
Phật giáo là quốc giáo đã góp phần quan trọng đưa đất nước đi lên.  
Mở đầu  
Đây là một chủ trương đúng đắn và tạo ra nhiều thành tựu rực rỡ trên  
Thời Lý - Trần là giai đoạn lịch sử nước Đại Việt trở nên hùng  
cường, phát triển rực rỡ nhất thời trung đại. Triều Lý (1009-1225)  
nhiều mặt của đời sống xã hội.  
Giáo dục Việt Nam bắt đầu từ thời Ngô Quyền (898-944) và  
tinh thần chủ đạo là chống đồng hóa. Đạo Phật được truyền vào Việt  
Nam bằng con đường hòa bình, các giáo lý từ bi, bình đẳng, trí tuệ,  
bất hại được đông đảo quần chúng nhân dân tiếp nhận; nhưng bản  
chất của Phật giáo không phải là làm chính trị cho nên nhà Lý - Trần  
đã khéo léo kết hợp Nho - Phật - Đạo để trị nước, an dân. Tăng sỹ,  
phật tử đều thông rành Tam giáo.  
và Trần (1225-1400) đều coi Phật giáo là quốc giáo. Với chính sách  
phát triển giáo dục Phật giáo, định hướng theo nền giáo dục mở rộng  
có hệ thống, dung hợp Tam giáo đồng nguyên đã giúp cả hai triều đại  
củng cố và phát triển chế độ quân chủ tập quyền. Tinh thần của Phật  
giáo thời Lý - Trần là thiền tông, cư trần lạc đạo, hòa quang đồng  
trần, kiến tánh, nhập thế tích cực, an dân hộ quốc, đồng hành cùng  
dân tộc đã phù hợp với quảng đại căn cơ, tạo nên sức mạnh đoàn kết  
toàn dân, thống nhất trong ý chí và hành động từ Vua đến dân. Giáo  
dục Phật giáo hai thời này có chế độ khoa cử phát triển, đào tạo có hệ  
thống quy củ, thu hút và sử dụng được nhiều người tài, nền Tam giáo  
đồng nguyên được vận dụng hài hòa. Những chính sách giáo dục  
đúng đắn vừa kế thừa truyền thống vừa sáng tạo tùy theo bối cảnh  
lúc bấy giờ đã giúp thời Lý - Trần phát triển cả về kinh tế, chính trị,  
văn hóa, kiến trúc, nghệ thuật...  
Triều Lý trải qua 216 năm với 9 đời vua, trọng Phật nhưng dùng  
Nho. Lý Công Uẩn xây dựng nhiều chùa và đúc chuông. Trên văn  
bia chùa Linh Xứng dựng năm 1126 có ghi: Thái úy (Lý Thường  
Kiệt) tuy thân vướng việc đời mà lòng vẫn hướng về đạo Phật [1].  
Nhà Trần 3 lần đánh thắng quân Nguyên Mông với sự hỗ trợ đắc lực  
của Phật giáo. Đây là thời đại phục hưng thống nhất đất nước, thống  
nhất cộng đồng, thời đại phục hưng những giá trị văn hóa truyền  
thống của dân tộc để phát triển đất nước và là thời đại khoan giải, an  
lạc, nhân thứ, rộng mở và dân chủ [2]. Thiền Trúc Lâm Yên Tử ra  
đời đã thành lập nên một giáo hội phật giáo thống nhất được gọi là  
Phật giáo Nhất tông [3]. Các sư vừa chuyên tu thiền vừa tham gia lao  
động sản xuất, cúng lễ, giảng kinh, dạy học. Nguyên nhân Phật giáo  
thời Trần mở ra kỷ nguyên mới, thống nhất được các thiền phái để  
hình thành một thiền phái hoàn toàn Việt Nam bởi vào cuối thời Lý,  
cả 3 thiền phái có ảnh hưởng qua lại lẫn nhau [4], chính sáchTam giáo  
đồng nguyên luôn được thời Lý - Trần vận dụng. Từ thời Trần Dụ Tông,  
nhà Trần bắt đầu suy, khoảng giữa thế kỷ XIV thì mất dần vị trí trên  
vũ đài chính trị dẫn đến Phật giáo cũng không được thịnh như trước.  
Từ góc độ lấy Phật giáo làm quốc giáo trên nền tảng giáo dục  
Tam giáo đồng nguyên, bài viết phân tích chủ trương đúng đắn của  
giáo dục thời Lý - Trần cùng những thành tựu của giáo dục thời này  
trên phương diện xây dựng hệ thống giáo dục, chính sách khoa cử  
trong việc tuyển chọn, sử dụng nhân tài...  
Những thành tựu trong giáo dục của thời Lý - Trần  
Lấy giáo dục Phật giáo là quốc giáo - Chủ trương đúng đắn  
của giáo dục thời Lý - Trần  
Ở mỗi quốc gia, dân tộc trong từng giai đoạn lịch sử đều có  
những chính sách riêng cho việc xây dựng nền văn hóa nói chung  
và nền giáo dục nói riêng. Giáo dục Việt Nam thời Lý - Trần đã có  
những bước phát triển vượt bậc so với các thời kỳ trước đó và có ảnh  
hưởng sâu sắc tới nhiều giai đoạn lịch sử nước ta sau này. Dưới chế  
độ quân chủ tập quyền ở thời Lý - Trần, bên cạnh nhiều chính sách  
tích cực nhằm phát triển quốc gia hùng cường, việc chủ trương xây  
dựng giáo dục trên nền tảng “Tam giáo đồng nguyên”, lấy giáo dục  
Có thể thấy, sau triều đại nhà Ngô qua loạn “Thập nhị xứ quân”  
đến nhà Đinh, Tiền Lê, Lý và Trần đều ứng dụng Phật giáo vào đời  
sống xã hội như một lẽ tự nhiên trong tính nhân bản và hướng thiện.  
Thiền học Lý - Trần thể hiện tư tưởng quân bình tuyệt đối và độc đáo  
của dân tộc đang muốn dung hòa các mâu thuẫn lúc bấy giờ [5]. Sự  
ra đời của Thiền phái Trúc Lâm có tính cách dân tộc Việt Nam, vừa  
biểu lộ được sinh hoạt tâm linh của Phật giáo vừa biểu lộ được đời  
*Email: hanhnguyenthichnu87@gmail.com  
61  
63(10) 10.2021  
Khoa học xã hội và nhân văn  
tộc, năm 1075 mở khoa thi đầu tiên chọn quan lại; năm 1076 mở  
Quốc Tử Giám dạy các Hoàng Thái tử, về sau được mở rộng tới con  
em quan lại, quý tộc. Nhà Lý là triều đại phong kiến đầu tiên ở Việt  
Nam xác lập hệ thống giáo dục khoa cử có hệ thống [7]. Năm 1076  
niên hiệu Anh Vũ Chiêu Thắng triều Lý Nhân Tông mở kỳ thi viết,  
toán và luật. Lê Văn Thịnh người làng Báo Tháp, xã Đông Cứu (nay  
thuộc huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh) đỗ đầu cùng hơn 10 người  
trúng tuyển. Ông trở thành thủ khoa đầu tiên trong lịch sử Việt Nam  
[9]. Khoa thi năm 1086 (thi Văn học) chọn người vào Viện Hàn lâm,  
Mạc Hiển Tích đỗ đầu. Khoa thi năm 1152, Lý Anh Tông tổ chức thi  
Đình; năm 1165, thi Học sinh (giống như thi tiến sỹ thời Hậu Lê).  
Năm 1185, Lý Cao Tông tổ chức thi Học sinh, khoảng 30 người hiền  
tài được chọn. Năm 1193, chọn người vào phụ việc triều đình; năm  
1195 thi Tam giáo. Năm 1213, Lý Huệ Tông tổ chức thi Học sinh  
(chia làm Tam giáp), Phạm Công Bình đỗ đầu. Triều Lý đã tổ chức  
7 khoa thi, hơn 30 năm một khoa, nhưng không được thường xuyên;  
bước đầu đã sắp xếp, phân loại một số bậc học và các chuyên môn,  
khá cơ bản và hệ thống [10]. Nhà Lý dù tổ chức các khoa cử không  
đều theo định kỳ và các kỳ thi cũng chưa có cách thức nhất định [11]  
nhưng bước đầu đã tập hợp được một số nhân tài.  
The educational achievements of  
Vietnam under the Ly - Tran dynasties:  
Perspective from Buddhism as the state  
religion on basis of education of three  
teachings harmonious  
Thi Dong Dang*  
Tran Nhan Tong Institute, Vietnam National University, Hanoi  
Received 18 August 2021; accepted 28 September 2021  
Abstract:  
Buddhism in the Ly - Tran dynasties played the role of the  
national religion in the relationship of the three religions  
(Buddhism, Confucianism, and Taoism), contributing  
to the development of Dai Viet education. Zen masters,  
laypeople, and Buddhists have made great contributions  
in helping leaders manage and orient appropriate  
policies for the country. This research affirmed that  
taking Buddhist education as the national religion is  
an exact policy of Vietnam’s education in the Ly - Tran  
dynasties. At the same time, the author analysed the  
achievements of education in the Ly - Tran dynasties  
in terms of building the education system, the policy on  
the selection and use of talents, and other outstanding  
achievements in social life.  
Ban đầu, dưới thời Trần chỉ có nhà chùa là nơi dạy chữ Nho và  
sách sử, sau đó mở thêm các trường ở địa phương. Ngoài Quốc Tử  
Giám ở kinh thành, tại các Lộ, Phủ còn cho mở các trường công và  
các kỳ thi. Năm 1232 mở lại khoa thi Thái học sinh lấy tiến sỹ, 7 năm  
tổ chức một lần. Trong 175 năm tồn tại, nhà Trần đã tổ chức 14 khoa  
thi (10 khoa chính thức và 4 khoa phụ) với 283 người đỗ [9]. Khoa  
thi Thái học sinh giống khoa thi tiến sỹ xét tuyển chia thành hai loại  
Trạng nguyên. Năm 1256 và 1266, nhà Trần lấy được Kinh trạng và  
Trại trạng. Khoa thi Thái học sinh từ năm 1247 chia làm Tam giáp  
(nhất giáp, nhị giáp, tam giáp), xếp Tam khôi (Trạng nguyên, Bảng  
nhãn, Thám hoa), thực thi vào năm 1255, sau lấy Hoàng giáp bắt  
đầu từ năm 1304. Năm 1304, Triều đình quy định rõ nội dung thi  
4 trường gồm: ám tả cổ văn; kinh nghi, kinh nghĩa, thơ phú; chế,  
chiếu, biểu; đối sách. Năm 1236, nhà Trần mở rộng Quốc học viện  
tại kinh đô; năm 1281 lập thêm Quốc học ở phủ Thiên Trường, từ  
năm 1337 đặt thêm học quan. Năm 1397, Hồ Quý Ly cải cách, bỏ  
ám tả cổ văn và được sắp xếp lại: kinh nghĩa, thơ phú, chiếu, chế,  
biếu và văn sách, thêm mới tổ chức thi Hương ở địa phương. Sau đó  
triều đình mở kỳ thi Đình để phân hạng cao thấp cho Thái học sinh  
[11]. Có tất cả 12 người đỗ đầu trong các kỳ thi của nhà Trần, từ năm  
1227 đến 1396 đã tổ chức được 11 khoa thi, gồm một khoa thi Tam  
giáo và 10 khoa thi Thái học sinh. Giáo dục Phật giáo giữ vai trò chủ  
đạo với hai cơ sở chính là Tổ đường Vĩnh Nghiêm và Trúc Lâm Yên  
Tử. Hệ thống giáo dục mở rộng với những trường tư nổi tiếng như:  
Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc, Huỳnh Cung của Chu Văn An, từ  
đây nhiều vị trở thành những đại quan trong triều đình. Ngoài ra còn  
có các trường, lớp học tại gia như: lớp học của Trần Nguyên Đán có  
Nguyễn Phi Khanh đến dạy, trường phủ Thiên Trường, Lạn Kha ở  
chùa Phật Tích. Nhà Trần cho khắc bản Đại tạng kinh vào cuối thế  
kỷ XIII, chú trọng giáo dục khoa cử, theo sách Đại Việt sử ký toàn  
thư, có tới 24 cuộc thi sát hạch bằng những hình thức khác nhau như:  
Tam giáo, Thái học sinh, Lại viên (Bạ đầu cách), thi chọn Kẻ sỹ, học  
trò (Thủ sỹ), trong đó có 4 cuộc thi gắn với Tam giáo và liên quan  
đến giáo dục Phật giáo. Tuy dưới thời Lý, thi cử chưa đi hẳn vào nền  
nếp, quy củ nhưng đã tạo tiền đề cho nền giáo dục Đại Việt hoàn  
chỉnh hơn. Người giỏi thời Lý - Trần xuất hiện nhiều, giáo dục Phật  
giáo thích nghi với hoàn cảnh đất nước, thiền tông được chú trọng.  
Keywords: Buddhist education, education in the Ly -  
Tran dynasties, examinations in the Ly - Tran dynasties,  
three teachings harmonious, Vietnamese educational  
achievements.  
Classification number: 5.11  
sống thực tế [6]. Tư tưởng thiền học Trúc Lâm có sự dung hợp giữa  
Phật giáo Nguyên thủy và Đại thừa, Thiền - Tịnh - Mật, Nho - Phật -  
Lão và giáo - thiền; kế thừa những thành quả trước đó và đề ra nhiều  
điểm mới tích cực, mở đường cho phái thiền ở Việt Nam phát triển  
mang tính dân tộc.  
Những thành tựu của giáo dục thời Lý - Trần trên phương  
diện xây dựng hệ thống giáo dục  
Trên nền tảng nhận thức “Tam giáo đồng nguyên”, coi trọng giáo  
dục Phật giáo, nền giáo dục thời Lý - Trần đã đạt được nhiều kết quả  
trong xây dựng hệ thống giáo dục.  
Đầu thời Lý, các trường tư thục đã rải rác xuất hiện. Nhiều ý  
kiến cho rằng, trường học tư đã được mở tại kinh thành Thăng Long  
trước khi Quốc Tử Giám hình thành [7]. Có hai dạng trường lớp thời  
Lý. Thứ nhất, những người thi không đỗ và tầng lớp quan lại hoặc  
những người đã đỗ đạt nhưng không làm quan mở lớp dạy học. Thứ  
hai là trường ở các chùa. Các trường lớp còn dạy nhiều kiến thức  
về Phật giáo và Đạo giáo [8] với chữ viết chủ yếu là chữ Hán. Năm  
1070, lập Văn Miếu ở Thăng Long dạy con vua và các tầng lớp quý  
Những thành tựu của chính sách khoa cử thời Lý - Trần trong  
việc tuyển chọn và sử dụng nhân tài  
Hoạt động giáo dục Phật giáo thời Lý - Trần không đối lập với  
Nho giáo và Đạo giáo. Việc tổ chức thi Tam giáo chính thức được  
63(10) 10.2021  
62  
Khoa học xã hội và nhân văn  
thực hiện từ năm 1195 dưới triều Vua Lý Cao Tông. Thi cử bằng cả  
Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo phản ánh Tam giáo đồng nguyên  
khá phổ biến vào thời Lý [7]. Năm 1070, Lý Thánh Tông cho xây  
dựng Văn Miếu ở kinh thành Thăng Long, đắp tượng Khổng Tử,  
Chu Công, tứ phối 72 người hiền của đạo Nho. Năm 1076 Vua Lý  
Nhân Tông lập ra Quốc Tử Giám [7]. Điều này đã góp phần an dân,  
đề cao trí tuệ đức tâm, lấy tinh thần bình đẳng, dung hợp thu phục  
lòng người đã giúp không gây ra tranh chấp phân biệt. Lý Cao Tông  
mở khoa thi Tam giáo vào năm 1195, sách Đại Việt sử ký toàn thư và  
Việt sử lược đều đề cập. Để duy trì tinh thần giáo dục Tam giáo, năm  
1253 nhà Trần tiếp tục sửa sang Quốc học viện, đắp tượng Khổng  
Tử, Chu Công, Mạnh Tử, vẽ tranh Thất Thập Nhị Hiền thờ. Nho sỹ,  
Tu sỹ, Đạo sỹ đã nhìn thấy giáo lý nền tảng tương tác của Tam giáo.  
Bát Nhã, Hoa Nghiêm của Phật gia; Tứ thư, Ngũ kinh của Nho gia;  
Đạo đức kinh, Nam Hoa kinh của Đạo gia đã được vận dụng hài hòa  
trong đời sống văn hóa và sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân [12].  
Các khoa thi không hỏi riêng về Nho giáo mà hỏi cả về Phật giáo và  
Đạo giáo. Vì vậy, đòi hỏi người ứng thí các khoa thi phải thông hiểu  
kiến thức cả ba đạo này mới có thể đỗ đạt [9]. Nhà Lý quan tâm tới  
việc tổ chức thi cử để lựa chọn nhân tài, điều mà các triều đại trước  
đó chưa thực hiện. Thời Lý, khoa thi Minh kinh bác học đầu tiên mở  
năm 1075, lấy đỗ 10 người, chọn thầy cho Quốc Tử Giám. Khoa  
thi Văn học tổ chức năm 1086, Vua Lý Nhân Tông chọn người vào  
Viện Hàn lâm, Mạc Hiển Tích đã đỗ đầu. Khoa thi Đình tổ chức năm  
1152. Khoa thi Thiên hạ sỹ nhân, thi Kẻ sỹ được tổ chức vào năm  
1165 và 1185. Khoa thi Tam giáo tổ chức vào năm 1195 và kéo dài  
sang đến thời Trần.  
bố các quy định tổ chức và bổ nhiệm nhân sự; Ngài còn phụng mệnh  
truyền giới xuất gia cho Tuyên Từ Hoàng Thái Hậu và Thiên trình  
tường Công Chúa [15]. Ngài thông thạo các sách kinh nội điển và  
ngoại điển, biên soạn, viết lời niêm tụng, bình luận, giải thích và  
khắc in tác phẩm của các vị thầy khác như: Thượng sỹ ngữ lục của  
Trần Tung, Thạch thất mị ngữ, Thiền lâm thiết chủy ngữ lục của Trần  
Nhân Tông… Người hiền tài phần đa là giới tăng sỹ, cư sỹ, tầng lớp  
trí thức có học, họ được Triều đình cung kính và tin dùng.  
Giáo dục thời Lý - Trần với các thành tựu nổi bật khác trong  
đời sống xꢀ hội  
Giáo dục Phật giáo thời Lý - Trần được quan tâm đã kéo theo  
nhiều hoạt động văn hóa, kiến trúc, nghệ thuật… đều phát triển. Kiến  
trúc thể hiện sự đa dạng, độc đáo như: chùa Một Cột, tượng Phật  
A-di-đà, hình rồng tinh xảo thời Lý, tháp Báo Thiên..., đánh dấu sự  
ra đời nền văn hoá riêng của dân tộc dần mang tính tự chủ, đóng góp  
vào nền văn minh chung của toàn khu vực.  
Nền giáo dục Lý - Trần còn ảnh hưởng lớn trên lĩnh vực văn  
học, các sư sáng tác rất phong phú, có đủ cơ sở để lý giải sự phát  
triển không ngừng của nền văn học Phật giáo thời kỳ này, nhất là  
góp phần tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc [3]. Sách Thiền uyển tập  
anh thống kê đời Lý có hơn 40 nhà sư có công lớn đối với nền văn  
học Việt Nam như: Mãn Giác, Viên Chiếu, Viên Thông, Không Lộ,  
Quảng Nghiêm… Tác phẩm của Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng  
Sĩ, Trần Nhân Tông, Huyền Quang cũng thể hiện ý thức về tính cách  
vô thường của cuộc sống và thao thức sự giải thoát tự tại [16]. Đặc  
biệt, thời Trần chữ Nôm ra đời đã mang tính dân tộc sâu sắc, Việt  
hóa chữ Hán thành chữ Quốc ngữ. Nguyễn Tài Cẩn - chuyên gia  
ngôn ngữ học Việt Nam nhận xét, sự xuất hiện của chữ Nôm đáng  
được coi như một mốc lớn trên con đường tiến lên của lịch sử [17].  
Tác phẩm Thiền uyển tập anh năm 1337 có nhiều ảnh hưởng đến cả  
văn học, sử học và thiền học sau này, vì tập hợp các tư liệu liên hệ  
tới giai đoạn Phật giáo từ khi Sáu lá thư ra đời cho đến lúc Vua Trần  
Thái Tông lên ngôi [18]. Cư trần lạc đạo được coi là một bản tuyên  
ngôn của con đường sống đạo mà Phật giáo Việt Nam đã đề ra và chi  
phối cuộc sống của hàng triệu phật tử Việt Nam thời Vua Trần Nhân  
Tông và những thế kỷ sau [19]. Văn học Phật giáo Lý - Trần là tinh  
hoa, đỉnh cao của văn học Phật giáo Việt Nam [3], góp phần làm cho  
nội dung văn học Việt Nam thêm đa dạng, phong phú [5]; có một  
tiếng nói riêng, góp phần to lớn thúc đẩy sự phát triển của nền văn  
học trung đại, văn học Việt Nam.  
Thời Trần, nhiều người đỗ cao trong các khoa thi khi tuổi còn  
trẻ (13-16) như: Nguyễn Hiền, Lê Văn Hưu, Đặng Ma La, Nguyễn  
Trung Ngạn. Năm 1236, nhà Trần đặt chức Thượng Thư Tri Quốc  
Tử Viện, đưa con em các quan và quý tộc vào học. Đối với Quốc Tử  
Giám và Quốc Tử Viện, Triều đình quan tâm lựa chọn người tài giỏi  
dạy học. Năm 1272 Vua Trần Khâm xuống chiếu tìm người thông  
hiểu kinh sách làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám, tìm người thông Tam  
giáo vào hầu Vua đọc sách. Năm 1247, nhà Trần tổ chức thi các khoa  
Tam giáo, Ngô Tần đỗ giáp khoa; Đào Diễn, Hoàng Hoan, Vũ Vị  
Phủ đỗ ất khoa. Năm 1384, cho thi Thái học sinh ở chùa Vạn Phúc  
núi Tiên Du có 30 người cùng đỗ. Năm 1396, nhà Trần sa thải các  
tăng đạo chưa đến 50 tuổi trở xuống hoàn tục, những người thông  
hiểu kinh giáo thi đỗ được phân bổ làm Đường đầu thủ, tri cung, tri  
quan, tri tự. Văn Miếu - Quốc Tử Giám ghi tên những người đỗ đạt  
qua các kỳ thi Hội, thi Đình [13].  
Với chính sách giáo dục khoa cử đúng đắn, dung hợp Tam giáo,  
trọng người hiền tài, giáo dục Lý - Trần đã đóng góp lớn cho chính  
trị. Lý Công Uẩn từng học ở chùa Lục Tổ, các chư Tăng cũng là  
những trí thức, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông đều là những ông  
Vua - thiền sư. Dưới ảnh hưởng của giáo dục Phật giáo, các vua quan  
thời Lý - Trần có những tư tưởng dân chủ, nhân đạo. Lịch sử Việt  
Nam chứng minh, khi đất nước phát triển thì Phật giáo cũng được  
thịnh hành và ngược lại. Các tư tưởng Phật giáo được vận dụng tùy  
thuộc vào chính sách lãnh đạo. Mối quan hệ giữa Phật giáo và chính  
quyền phong kiến qua các triều đại bao giờ cũng có sự gắn kết [3],  
vua tôi chung tay phát triển mọi mặt đất nước trong những hoàn  
cảnh cụ thể; các vua đầu thời Trần đã lấy ý muốn của nhân dân làm  
ý muốn của mình [20]. Các thiền sư trên cơ sở bình đẳng vô sai biệt  
đối với vạn pháp của nhà Phật dễ dàng cởi bỏ những vướng mắc câu  
chấp, nhị nguyên và sống trọn vẹn với chân lý [9], mỗi người luôn  
trọn vẹn trong pháp vận hành của mình, hoàn thành trách nhiệm cá  
nhân đối với tự thân và xã hội.  
Cả hai thời đại Lý - Trần đều coi trọng thi Tam giáo, trong đó  
nhiều nhà sư đỗ đạt cao như: Trạng nguyên Lý Đạo Tái (pháp hiệu  
Huyền Quang), Hoàng giáp Nguyễn Bá Tĩnh (pháp hiệu Tuệ Tĩnh).  
Các thiền sư hiểu rõ thể - tướng - dụng của các pháp thế gian nên tùy  
duyên hiện tướng như từ một đống hoa, nhiều tràng hoa được làm,  
cũng vậy thân sanh tử, làm được nhiều việc lành [14]. Cho nên, thiền  
sư Đa Bảo đã cùng sư Lý Khánh Văn và Nguyễn Vạn Hạnh (đại diện  
cho phái thần quyền) cùng quan Chi hậu Đào Cam Mộc (đại diện cho  
phái vương quyền) phò Lý Công Uẩn lên ngôi. Vua Trần Nhân Tông  
tiếp thu tư tưởng Phật giáo từ Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông,  
Tuệ Trung Thượng sỹ; Ngài còn chuyên tu, viết sách, giảng kinh ở  
Yên Tử, vân du các nơi; sang Chiêm Thành năm 1301 để phát triển  
Phật giáo. Pháp Loa năm 1305 được truyền giới Thanh văn và Bồ  
tát, làm Tổ thứ hai Thiền phái Trúc Lâm, được nhận 100 hộp kinh  
sử ngoại điển cùng 20 hộp Đại tạng cỡ nhỏ, đảm nhận trách nhiệm  
lớn trong việc nghiên cứu Kinh Phật và hoằng đạo. Năm 1311, Pháp  
Loa đã phụng chiếu khắc Đại tạng kinh, giảng Truyền đăng lục ở  
chùa Siêu Loại, được Vua Anh Tông mời vào chùa Tư Phúc trong  
đại nội giảng đạo; Vua còn mời Ngài đến chùa Vĩnh Nghiêm để ban  
Các thiền sư được vua mời tham gia vào chính sự như: Ngô Chân  
Lưu được Vua Đinh Tiên Hoàng phong là Khuông Việt Đại Sư, được  
Vua Lê Đại Hành cử cùng với thiền sư Pháp Thuận đón tiếp sứ giả  
63  
63(10) 10.2021  
Khoa học xã hội và nhân văn  
Trung Quốc Lý Giác. Những tác phẩm mang âm hưởng chính trị rõ  
nét như bài Quốc tộ của thiền sư Pháp Thuận nói về vận nước, đến  
bài Thị đệ tử của thiền sư Vạn Hạnh diễn dịch triết lý hành động,  
suy nghĩ về đạo đức con người trước sự thịnh suy cuộc đời; đến lời  
khuyên của Quốc sư Phù Vân đối với Trần Thái Tông khiến Vua trở  
thành bậc minh quân[3]. Phật giáo thời Trần là nền Phật giáo thế sự,  
kêu gọi mọi người cùng đóng góp tùy theo khả năng của mình để xây  
dựng một thế giới an lạc cho bản thân, gia đình và cộng đồng [21].  
Vua quan và nhân dân thời Lý - Trần đã giành lại sự sống cho dân  
tộc, bảo vệ sự tồn vong của đất nước [22], thành công này có được  
nhờ đã biết vận dụng đúng đắn tinh thần Phật giáo, mối tương quan  
với nền giáo dục mở có hệ thống mang tính Tam giáo.  
dục Việt Nam hiện nay, đặc biệt là trên phương diện đạo đức Phật  
giáo gắn với các chuẩn mực đạo đức xã hội đương đại. Trên tinh thần  
dung hợp các pháp tu Thiền - Tịnh - Mật, kết hợp Nho - Phật - Đạo,  
kết hợp giáo - thiền, đem Phật giáo ứng dụng hài hòa với các điều  
kiện hoàn cảnh của đất nước; định hướng phát triển bi - trí - dũng  
viên mãn; khuyến khích phát huy nội lực, tinh thần tự học; chú trọng  
đào tạo và sử dụng nhân tài; phát huy vai trò cá nhân đối với cộng  
đồng trong ý thức trách nhiệm với cuộc đời chung…, giáo dục thời  
Lý - Trần nói chung và giáo dục Phật giáo hai thời này nói riêng đã  
đem lại những thành tựu vô cùng tốt đẹp về mọi mặt, giải quyết các  
vấn đề của đất nước, ảnh hưởng tích cực đến tận ngày nay, nhằm  
đưa quốc gia, dân tộc Việt Nam hưng thịnh, hùng cường, tiến bộ và  
bền vững.  
Với chủ trương lấy Phật giáo làm quốc giáo, giáo dục thời Lý  
- Trần đã khiến cho Phật giáo hai thời này rất hưng thịnh. Các Vua  
Lý - Trần sùng đạo Phật nên khắp nơi đều dựng chùa, tô tượng, đúc  
chuông. Năm 1313, lần đầu tiên trong lịch sử, chư tăng có hồ sơ tại  
Giáo hội Trung ương. Đến năm 1329, số lượng tăng sỹ xuất gia trong  
những giới đàn do Giáo hội Trúc Lâm tổ chức là trên 15.000 vị (vào  
thời điểm Nhị Tổ Pháp Loa lãnh đạo). Về tự viện, năm 1313 có tới  
trên 100 ngôi chùa. Sách Tam tổ hành trạng của Ngô Thì Nhậm nói  
có hơn 800 ngôi chùa [23]. Giáo dục Phật giáo thời Lý - Trần đã góp  
phần đem lại niềm tin và sự yên bình cho dân chúng.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
[1] Viện Văn học (1982), Thơ văn Lý Trần, tập 2, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.  
[2] Thích Thông Phương (2004), Kinh Kim Cương giảng lục, Nhà xuất bản Tôn giáo.  
[3] Thích Phước Đạt (2013), Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc  
Lâm, Nhà xuất bản Hồng Đức.  
[4] Thích Minh Tuệ (1993), Lược sử Phật giáo Việt Nam, Thành hội Phật giáo TP Hồ Chí  
Minh.  
[5] Nguyễn Công Lý (2017), Văn học Phật giáo thời Lý - Trần: diện mạo và đặc  
điểm, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh.  
Trong nhiều thành tựu nổi bật về mọi mặt của Đại Việt thời Lý  
- Trần, trong giáo dục nước ta thời Lý - Trần đáng chú ý là sự ra đời  
của chữ Nôm, đánh dấu sự độc lập trong văn hóa của dân tộc thời  
bấy giờ, mở đường và góp phần khích lệ tinh thần tự chủ, tự tôn của  
dân tộc trong các giai đoạn tiếp theo. Theo các nhà nghiên cứu, chữ  
Nôm xuất hiện ở Việt Nam dựa trên cơ sở chữ Hán của người Trung  
quốc và âm Hán - Việt đã hình thành một cách có hệ thống ở Việt  
Nam. Dần dần, có những chữ Hán không ghi được âm Hán - Việt  
nên các chữ Nôm được sáng tạo ra để ghi âm tiếng Việt, tạo thành  
các văn tự Nôm. Chữ Nôm hình thành và phát triển trong khoảng từ  
thế kỷ X đến đầu thế kỷ XX (về thời điểm chữ Nôm ra đời vẫn còn  
nhiều tranh luận). Cứ liệu sớm nhất về chữ Nôm là bài văn khắc trên  
quả chuông Vân Bản năm 1076, thời nhà Lý, thế kỷ XI. Ban đầu, chữ  
Nôm thường dùng để ghi tên người, tên đất, nhưng càng về sau, chữ  
Nôm càng trở nên phổ biến và tìm thấy ý nghĩa trong đời sống văn  
hóa của người Việt [24].  
[6] Nguyễn Lang (1994), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 1, Nhà xuất bản Văn học.  
[7] Nhiều tác giả (2009), Kỷ yếu Hội thảo khoa học về 1000 năm Vương triều Lý và  
kinh đô Thăng Long, Nhà xuất bản Thế giới.  
[8] Phan Ngọc Liên (2006), Giáo dục và thi cử ở Việt Nam, Nhà xuất bản Từ điển  
Bách khoa.  
[9] Mai Hồng (1989), Các Trạng nguyên nước ta, Nhà xuất bản Giáo dục.  
nam--903B270BB56B5DDD92AA4BBA34348702.html.  
[11] Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin.  
[12] Thích Minh Châu (2016), Kinh Pháp Cú (Dhammapada), Nhà xuất bản Hồng  
Đức.  
P4-Nguyn-Cng-L-tr1198-1206.pdf.  
[14] Thích Thanh Quyết, Trịnh Khắc Mạnh (2018), Trúc Lâm Yên Tử - Phật giáo tùng  
thư, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.  
Kết luận  
Có thể thấy, do yêu cầu của nhiệm vụ ổn định và xây dựng đất  
nước, cần nâng cao dân trí, xây dựng quốc gia hưng thịnh, đã thúc  
đẩy nhà Lý - Trần quan tâm nhiều đến chính sách giáo dục. Hệ tư  
tưởng Phật giáo và tăng sỹ có một vị trí đặc biệt trong đời sống văn  
hoá, xã hội Đại Việt. Giáo dục Phật giáo đã giúp cho triều đình chọn  
đúng và bồi dưỡng hiền tài, đặt nền móng cho các triều đại kế tiếp tổ  
chức tuyển chọn và thi cử một cách công bằng, quy củ, có hệ thống,  
phát huy sức mạnh của toàn dân.  
[15] Vân Thanh (1974), Lược khảo Phật giáo sử Việt Nam và phát nguồn các giáo  
phái Phật giáo hiện đại, Phật học Viện và các chùa.  
[16] Thích Thanh Từ (1997), Tam tổ Trúc Lâm giảng giải, Thiền Viện Thường Chiếu.  
[17] Nhiều tác giả (1981), Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý - Trần, Nhà xuất bản  
Khoa học Xã hội.  
[18] Lê Mạnh Thát (2002a), Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam, tập 3, Nhà xuất  
bản TP Hồ Chí Minh.  
[19] Lê Mạnh Thát (2010), Toàn tập Trần Nhân Tông (in lần 3 có sửa chữa và bổ  
Phật giáo thời Lý - Trần với tinh thần thiền học, Tam giáo đồng  
nguyên, dung hợp, vô chấp, biện tâm, tự giác, nhập thế tích cực đã  
hoà mình cùng dân tộc, đưa đất nước, con người Đại Việt phát triển  
lên đến đỉnh cao cả về văn hoá, kinh tế, chính trị, ngoại giao... Đạo  
Phật giữ vị trí quan trọng trong vai trò hộ quốc an dân, tập hợp sức  
mạnh đoàn kết, tạo năng lượng sống tích cực, lạc quan. Với việc vận  
dụng giáo dục Phật giáo đúng đắn thời Lý - Trần đã mang đến những  
chính sách tốt đẹp cho đất nước, đào tạo ra đội ngũ quan lại - thiền  
sư - người hiền trí trợ giúp hiến kế đắc lực cho vua, xây dựng quốc  
gia hùng cường về mọi mặt.  
sung), Nhà xuất bản Phương Đông.  
[20] Ban Phật giáo Việt Nam - Ban Phật học chuyên môn (1992), Thiền học đời Trần,  
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam.  
[21] Lê Mạnh Thát (2002b), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, từ Lý Thánh Tông (1054)  
đến Trần Thánh Tông (1278), Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh.  
[22] Quảng Thảo (2007), Chân dung con người trong thơ thiền Lý - Trần, Nhà xuất  
bản Tôn giáo.  
dong-gop-cho-dao-phap-va-dan-toc.html.  
Những thành tựu to lớn của giáo dục Phật giáo thời Lý - Trần vẫn  
còn vẹn nguyên giá trị trong công cuộc đổi mới toàn diện nền giáo  
Nam-1000-tuoi-1011.  
63(10) 10.2021  
64  
pdf 4 trang baolam 16/05/2022 4900
Bạn đang xem tài liệu "Những thành tựu giáo dục của Việt Nam thời Lý - Trần: Nhìn từ góc độ lấy Phật giáo làm quốc giáo trên nền tảng giáo dục Tam giáo đồng nguyên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfnhung_thanh_tuu_giao_duc_cua_viet_nam_thoi_ly_tran_nhin_tu_g.pdf