Giáo trình Giáo dục quốc phòng - Trần Văn Dũng

TRƯƠNG ĐAI HỌC AN GIANG  
GV :TRẦN VĂN DŨNG  
MỤC LỤC  
TT  
Tªn bµi  
Trang  
Bài  
Việt Nam đánh giặc, giữ nước  
Bài  
Lịch sử, truyền thống Quân đội nhân dân và công  
an nhân dân Việt Nam  
Bài  
Luật nghĩa vụ quân sự, quyền lợi và trách nhiệm của 14  
học sinh  
Bài  
Bài  
Bài  
Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia  
X©y dùng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân  
Tổ chức quân đội và công an nhân dân Việt Nam  
Bài  
Bài  
Nhà trường quân đội, công an và tuyển sinh đào tạo  
Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam và luật Công  
an nhân dân  
Bài  
Bài  
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân  
Phòng chống chiến lược "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật  
đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam  
Bài  
Phòng chống địch tiến công hoả lực bằng vũ khí công  
nghệ cao  
Bài  
Xây dựng lực lượng dân quân, tự vệ, lực lượng dự bị  
GT GDQP -AN  
3
TRƯƠNG ĐAI HỌC AN GIANG  
GV :TRẦN VĂN DŨNG  
động viên và động viên c«ng nghiÖp quốc phòng  
Bài  
Bài  
Xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc  
gia  
Một số vấn đề cơ bản về dân tộc, tôn giáo và đấu tranh  
phòng chống địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống  
phá cách mạng Việt Nam  
Bài  
Bài  
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí  
Minh về chiến tranh quân đội và bảo vệ Tổ quốc  
Chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội  
chủ nghĩa  
Bài  
Bài  
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam  
Kết hợp xây dựng kinh tế với tăng cường củng cố quốc  
phòng, an ninh và đối ngoại  
Bài  
Nghthut qu©n sù Vit Nam  
TRUYỀN THỐNG ĐÁNH GIẶC  
GIỮ NƯỚC CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM  
Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, ông cha ta luôn phải chống lại kẻ thù  
xâm lược mạnh hơn nhiều lần về quân sự, kinh tế. Song, với tinh thần yêu nước, ý chí kiên  
cường, với cách đánh mưu trí, sáng tạo, cha ông ta đã đánh thắng tất cả kẻ thù xâm lược,  
GT GDQP -AN  
4
TRƯƠNG ĐAI HỌC AN GIANG  
GV :TRẦN VĂN DŨNG  
viết nên những trang sử hào hùng của dân tộc như chiến thắng Bạch Đằng, Như Nguyệt,  
Chương Dương, Hàm Tử… Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tinh thần yêu nước và  
truyền thống đánh giặc của quân dân ta lại được phát huy lên một tầm cao mới và đã đánh  
thắng hai kẻ thù xâm lược có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.  
Từ trong thực tiễn chống giặc ngoại xâm của dân tộc, c¸c thÕ hÖ cha «ng ®· viÕt  
nªn truyền thống vẻ vang rất đáng tự hào và những bài học quí báu đối với các thế hệ mai  
sau. Bài học truyền thống, một di sản vô giá cho các thế hệ con cháu học tập và vận dụng  
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.  
1. Truyền thống dựng nước đi đôi với giữ nước  
Lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc ta cho thấy tổ tiên ta bảo  
vệ quyền độc lập,tự chủ, giữ gìn bờ cõi núi sông ngàn lần yêu quí của đất nước vừa bằng  
các cuộc chiến tranh yêu nước chống xâm lược với những võ công hiển hách, vừa bằng  
những cuộc đấu tranh kiên quyết và khéo léo để cùng tồn tại hoà bình để xây dựng đất  
nước.  
Do ở vị trí chiến lược trọng yếu trong vùng Đông Nam Á và có nhiều tài nguyên  
phong phú, nên nước ta trở thành mục tiêu xâm lược của nhiều nước lớn trong khu vực và  
trên thế giới từ trước đến nay. Bởi vậy, ngay từ buổi đầu dựng nước, chống giặc ngoại  
xâm đã trở thành một nhiệm vụ cấp thiết. Dựng nước đi đôi với giữ nước là một quy luật  
tồn tại và phát triển của dân tộc ta. Thực tế cho thấy, nạn giặc ngoại xâm là mối đe doạ  
thường xuyên và nguy hiểm nhất đối với sự sống còn của đất nước ta.  
Kể từ cuối thế kỷ thứ III trước công nguyên đến nay, dân tộc ta đã tiến hành gần 20  
cuộc chiến tranh chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc, cùng với hàng trăm cuộc khởi nghĩa và  
chiến tranh giải phóng. Tổng thời gian chống giặc ngoại xâm chiếm khoảng hơn 12 thế kỷ.  
Có những thế kỷ nhân dân ta phải nhiều lần đứng lên đánh giặc, cứu nước.  
Từ những cuộc chiến tranh giữ nước đầu tiên (Cuộc chiến tranh giữ nước đầu tiên  
mà sử sách ghi lại là cuộc kháng chiến chống quân Tần), đến những cuộc khởi nghĩa và  
chiến tranh chống xâm lược giành và giữ độc lập từ thế kỷ II TCN đến đầu thế kỷ X và  
cuộc khởi nghĩa của hai bà Trưng vào mùa xuân năm 40 đã giành được độc lập; Các cuộc  
kháng chiến chống quân xâm lược từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII, hai lần kháng chiến  
chống quân Tống, ba lần kháng chiến chống quân Nguyên của nhà Trần ở thế kỷ XIII, rồi  
GT GDQP -AN  
5
TRƯƠNG ĐAI HỌC AN GIANG  
GV :TRẦN VĂN DŨNG  
đếnc cuộc kháng chiến chống Minh do Hồ Quý Ly lãnh đạo (1400 - 1007), khởi nghĩa  
Lam Sơn và chiến tranh giải phóng dân tộc do Lê Lợi, Nguyễn Trãi lãnh đạo.  
Nhân dân ta thời nào cũng vậy, luôn nêu cao cảnh giác, chuẩn bị lực lượng đề phòng  
giặc ngay từ thời bình; trong chiến tranh, vừa chiến đấu, vừa sản xuất, xây dựng đất nước  
và sẵn sàng đối phó với âm mưu của kẻ thù. Vì vậy, nhiệm vụ đánh giặc, giữ nước hầu  
như thường xuyên, cấp thiết và luôn gắn liền với nhiệm vụ xây dựng đất nước.  
2. Vận dụng tư tưởng quân sự “Lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu  
chống mạnh”  
Đây là nét đặc sắc và tất yếu trong nghệ thuật quân sự của ông cha ta, khi dân tộc ta  
luôn phải chống lại các đội quân xâm lược có quân số, vũ khí, trang bị lớn hơn nhiều lần.  
Nghệ thuật lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh chính là sản phẩm của  
lấy “thế” thắng “lực”. Quy luật của chiến tranh là mạnh được, yếu thua, nhưng từ trong  
thực tiễn chống giặc ngoại xâm, cha ông ta đã sớm xác định đúng về sức mạnh trong chiến  
tranh, đó là: sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố, chứ không thuần tuý là sự so sánh, hơn  
kém về quân số, vũ khí của mỗi bên tham chiến.  
Để chống lại 30 vạn quân xâm lược Tống (1077), nhà Lý trong khi chỉ có khoảng 10  
van quân, Lý Thường Kiệt đã tận dụng được ưu thế để tạo ra sức mạnh hơn địch và đánh  
thắng địch.  
Thời nhà Trần có khoảng 15 vạn quân, chống lại giặc Nguyên - Mông, lần thứ 2 là 60  
vạn, lần 3 là khoảng 50 vạn. Nhà Trần đã “lấy đoản binh để chế trường trận”, hạn chế sức  
mạnh của giặc, để đánh thắng giặc.  
Cuộc khởi nghĩa của Lam Sơn, quân số lúc cao nhất có khoảng 10 vạn, nhưng đã  
đánh thắng 80 vạn quân Minh xâm lược. Vì Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã vận dụng “tránh thế  
ban mai, đánh lúc chiều tà” và vận dụng cách đánh “vây thành để diệt viện”.  
Trong cuộc kháng chiến chống quân Mãn Thanh xâm lược, nhà Tây Sơn có khoảng 10  
vạn quân, nhưng đã đánh thắng 29 vạn quân xâm lược và quân bán nước Lê Chiêu Thống vì  
Nguyễn Huệ đã dùng lối đánh táo bạo, thần tốc, bất ngờ.  
Vì thế, lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh, tạo sức mạnh tổng  
hợp của toàn dân tộc để giành thắng lợi là một tất yếu, một quy luật xuyên suốt trong lịch  
sử đấu tranh, giữ nước của dân tộc ta.  
GT GDQP -AN  
6
TRƯƠNG ĐAI HỌC AN GIANG  
GV :TRẦN VĂN DŨNG  
3. Phát huy tinh thần yêu nước chiến đấu hi sinh vì độc lập dân tộc tiến hành  
chiến tranh toàn dân, toàn diện.  
Để chiến thắng giặc ngoại xâm có tiềm lực kinh tế, quân sự hơn ta nhiều lần, nhân dân  
Việt Nam phải đoàn kết cả dân tộc, đoàn kết toàn dân sẽ tạo thành nguồn sức mạnh to lớn của  
cả dân tộc, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.  
Thời Trần có vua tôi đồng lòng, anh em hoà thuận, cả nước góp sức chiến đấu, nên ba  
lần đại thắng quân Mông – Nguyên. Thời chống Minh, nghĩa quân Lam Sơn, tướng sĩ một  
lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào. Trong những cuộc chiến tranh giữ nước  
từ thế kỷ X đến XIX, nhân dân ta dưới sự chỉ huy của các vị tướng tài giỏi đã thực hiện  
toàn dân đánh giặc; biết dựa vào địa hình, địa thế có lợi cho ta, bất lợi cho địch; vận dụng  
“vườn không nhà trống” và mọi cách đánh phù hợp làm cho địch đi đến đâu cũng bị đánh,  
bị tiêu hao, tiêu diệt. Nét đặc sắc nghệ thuật quân sự của ông cha ta trong các cuộc chiến  
tranh giữ nước kể trên là tích cực, chủ động tiến công địch. Điển hình như Lý Thường Kiệt  
(1075) đã dùng biện pháp “tiên phát chế nhân” (không ngồi chờ giặc đến mà chủ động  
đánh trước vào hậu phương địch rồi rút lui để phá vỡ kế hoạch của chúng); lấy đoản binh  
thắng trường trận; yếu chống mạnh hay đánh bất ngờ, ít địch nhiều thường dùng mai  
phục”1. Đến thời vua Quang Trung năm 1788 - 1789, đã thực hiện lúc địch mạnh ta có thể  
lui quân để bảo toàn lực lượng, lúc địch suy yếu ta bất ngờ chuyển sang đánh đòn quyết  
định tiêu diệt địch trong một thời gian ngắn.  
Chiến tranh là sự thử thách toàn diện đối với mỗi quốc gia trong tham chiến. Trong  
chống giặc ngoại xâm, ông cha ta đã biết kết hợp chặt chẽ các mặt trận nhằm tạo ra sức  
mạnh tổng hợp để đánh thắng kẻ thù. Mỗi mặt trận có vị trí, tác dụng khác nhau, nhưng  
cùng thống nhất ở mục đích tạo ra sức mạnh để giành thắng lợi trong chiến tranh.  
Mặt trận chính trị nhằm cổ vũ tinh thần yêu nước của nhân dân, quy tụ sức mạnh đại  
đoàn kết dân tộc, là cơ sở để tạo ra sức mạnh quân sự.  
Mặt trận quân sự là mặt trận quyết liệt nhất, thực hiện tiêu diệt sinh lực, phá huỷ  
phương tiện chiến tranh của địch, quyết định thắng lợi trực tiếp của chiến tranh, tạo đà, tạo  
thế cho các mặt trận khác phát triển.  
Mặt trận ngoại giao có vị trí rất quan trọng, đề cao tính chính nghĩa của nhân dân ta,  
phân hoá, cô lập kẻ thù, tạo thế có lợi cho cuộc chiến. Mặt khác, mặt trận ngoại giao kết  
1
Nguyễn Trãi, Toàn tập, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, 1969, tr. 65.  
GT GDQP -AN  
7
 
TRƯƠNG ĐAI HỌC AN GIANG  
GV :TRẦN VĂN DŨNG  
hợp với mặt trận quân sự, chính trị tạo ra thế có lợi để kết thúc chiến tranh càng sớm càng  
tốt. Điển hình: Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã mở “Hội thề Đông Quan”, cấp ngựa, thuyền, lương  
thảo cho hàng binh nhà Minh về nước trong danh dự, để muôn đời dập tắc chiến tranh.  
Mặt trận binh vận để vận động làm tan dã hàng ngũ của giặc, góp phần quan trọng để  
hạn chế thấp nhất tổn thất của nhân dân ta trong chiến tranh.  
Thời chống Pháp, chống Mĩ, quân và dân một ý chí, mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi  
làng xã là một pháo đài, cả nước là một chiến trường diệt giặc.  
Trong kháng chiến chống Pháp, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “bất kỳ  
đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ ai  
là người Việt Nam thì đứng lên đánh Pháp cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có  
gươm dùng gươm, ai không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức  
chống thực dân cứu nước”1, nhân dân cả nước đã sát cánh cùng bộ đội chiến đấu, ra sức  
xây dựng quân đội, sản xuất ở hậu phương, chăm lo tiếp tế hậu cần, thực hiện “toàn dân  
kháng chiến, toàn diện kháng chiến”, giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc kháng chiến chống  
thực dân Pháp. Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, Đảng ta đã đưa cuộc chiến tranh nhân  
dân lên tầm cao mới. Đẩy mạnh chiến tranh toàn dân, toàn diện, kết hợp đấu tranh của nhân  
dân trên các mặt trận chính trị, kinh tế với đấu tranh quân sự của lực lượng vũ trang lên một  
quy mô chưa từng có trong lịch sử. Vì thế, quân và dân Việt Nam đã giành thắng lợi vĩ đại  
trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước.  
Hồ Chí Minh, đã chỉ rõ: Dân ta có một lòng yêu nước nồng nàn. Đó là một truyền  
thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi  
nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm,  
nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước.  
Nhân dân ta đã sớm nhận thức, non sông đất nước ta là do bàn tay lao động của biết  
bao thế hệ xây đắp nên, là tài sản chung của mọi người, ai cũng hiểu nước mất, thì nhà tan.  
Vì thế, lớp lớp các thế hệ người dân đã không sợ hy sinh gian khổ, liên tục đứng lên đánh  
giặc, giữ nước.  
Trong lịch sử đánh giặc, giữ nước của dân tộc ta đã có nhiều tấm gương anh dũng  
chiến đấu, hy sinh vì độc lập dân tộc. Hình ảnh Bà Trưng với lời thề sông Hát, Bà Triệu  
cưỡi voi chỉ huy đánh giặc, “Muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở  
1.Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 480  
GT GDQP -AN  
8
 
TRƯƠNG ĐAI HỌC AN GIANG  
GV :TRẦN VĂN DŨNG  
Biển Đông đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang san, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom  
lưng làm tỳ thiếp người ta”. Trần Quốc Toản bóp nát quả cam vì hận mình còn nhỏ tuổi  
không được dự bàn kế đánh giặc ở Bình Than; Trần Bình Trọng “Thà làm ma nước Nam  
chứ không thèm làm vương đất Bắc”; Nguyễn Trung Trực đã hiên ngang tuyên bố trước  
mặt quân thù: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh  
Tây”; hình ảnh Bế Văn Đàn, Tô Vĩnh Diện, Phan Đình Giót đã xả thân mình vì nước,  
Nguyễn Viết Xuân “Nhằm thẳng quân thù mà bắn”… là những biểu tượng sáng ngời về  
lòng yêu nước, tinh thần chiến đấu hy sinh vì độc lập dân tộc.  
Với tinh thần “Thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô  
lệ”, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã sớm trở thành tư tưởng và tình cảm lớn nhất, là  
lẽ sống thiêng liêng của mỗi người dân Việt Nam.  
4. Thắng giặc bằng trí thông minh, sáng tạo, bằng nghệ thuật quân sự độc đáo  
Dân tộc ta chiến đấu và chiến thắng giặc ngoại xâm không chỉ bằng tinh thần chiến  
đấu dũng cảm, hy sinh vì Tổ quốc, mà còn bằng trí thông minh sáng tạo, bằng nghệ thuật  
quân sự độc đáo.  
Mưu trí sáng tạo được thể hiện trong kho tàng kinh nghiệm phong phú của cuộc đấu  
tranh giữ nước, trong tài thao lược kiệt xuất của dân tộc ta. Chúng ta biết lấy nhỏ đánh lớn,  
lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh, lấy chất lượng cao thắng số lượng đông, tự tạo vũ  
khí, cướp súng giặc để giết giặc, phát huy uy lực của mọi thứ vũ khí có trong tay, biết kết  
hợp nhiều cách đánh thích hợp. Nghệ thuật quân sự Việt Nam là nghệ thuật quân sự của  
chiến tranh nhân dân, nghệ thuật quân sự toàn dân đánh giặc.  
Lịch sử cha ông ta đã có nhiều cách đánh địch độc đáo, Lý Thường Kiệt biết “tiên  
phát chế nhân”, rồi lui về phòng ngự vững chắc và phản công đúng lúc, Trần Quốc Tuấn  
biết “dĩ đoản chế trường”, biết chế ngự sức mạnh của kẻ địch và phản công khi chúng suy  
yếu, mệt mỏi. Thời Lê Lợi, biết “lấy yếu chống mạnh”, đánh lâu dài, từng bước tạo thế và  
lực, tạo thời cơ giành thắng lợi. Thời Quang Trung biết đánh thần tốc, tiến công mãnh liệt  
bằng nhiều mũi, nhiều hướng, khiến hơn 20 vạn quân Thanh không kịp trở tay.  
Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các lực lượng  
vũ trang ba thứ quân đã cùng toàn dân đứng lên đánh giặc bằng mọi phương tiện và hình  
thức. Kết hợp đánh địch trên các mặt trận quân sự, kinh tế, chính trị và binh vận. Kết hợp  
GT GDQP -AN  
9
TRƯƠNG ĐAI HỌC AN GIANG  
GV :TRẦN VĂN DŨNG  
đánh du kích và đánh chính quy. Đánh địch trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi, đồng  
bằng và đô thị. Nghệ thuật quân sự của ta tạo ra một hình thái chiến tranh cài răng lược,  
xen kẽ triệt để giữa ta và địch; buộc quân địch phải phân tán, đông mà hoá ít, mạnh hoá  
yếu, luôn bị động đối phó theo cách đánh của ta.  
Với trí thông minh, sáng tạo, với nghệ thuật quân sự độc đáo, dù kẻ thù từ phương  
Bắc hay từ Âu, Mĩ sang, dù chúng có tiềm lực kinh tế, đông quân, có trang thiết bị hiện  
đại, lắm mưu mô xảo quyệt đến mấy cũng không thể phát huy được sở trường và sức  
mạnh vốn có của chúng trên chiến trường của ta; buộc chúng phải đánh theo cách của ta  
và cuối cùng đều chịu thất bại thảm hại.  
Dám đánh, biết đánh và biết thắng giặc bằng mưu trí và nghệ thuật độc đáo là một  
đặc điểm nổi bật của truyền thống đánh giặc của dân tộc ta  
5. Phát huy tinh thần đoàn kết quốc tế  
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc ta luôn có sự đoàn kết giữa các nước  
trên bán đảo Đông Dương và các nước khác trên thế giới, vì độc lập dân tộc của mỗi quốc  
gia, chống lại sự thống trị của các nước lớn.  
Cuộc kháng chiến chống Pháp, Nhật, nhất là cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước  
của nhân dân ta, đã tạo được sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ quốc tế lớn lao. Thắng lợi của  
cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ cũng là thắng lợi của tình đoàn kết chiến đấu của  
nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia. Tinh thần đoàn kết đó là chỗ dựa vững  
chắc cho mỗi dân tộc trong cuộc đấu tranh giành và củng cố nền độc lập của mình.  
Nhờ thực hiện đường lối đoàn kết quốc tế đúng đắn, nên cuộc kháng chiến của nhân dân  
ta đã giành được sự ủng hộ và giúp đỡ nhiệt tình của nhân dân các nước anh em và trước hết là  
nhân dân Liên Xô (trước đây) và Trung Quốc, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,  
của phong trào độc lập dân tộc và nhân dân yêu chuộng hoà bình, công lý trên toàn thế giới, kể  
cả nhân dân tiến bộ Pháp, Mĩ.  
Đoàn kết quốc tế trong sáng, thuỷ chung đã trở thành truyền thống, là một nhân tố  
thành công trong sự nghiệp đánh giặc, giữ nước cũng như trong công cuộc xây dựng và  
bảo vệ Tổ quốc hiện nay.  
6. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của  
cách mạng Việt Nam  
GT GDQP -AN  
10  
TRƯƠNG ĐAI HỌC AN GIANG  
GV :TRẦN VĂN DŨNG  
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiền phong của giai cấp công nhân do lãnh  
tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại của lịch sử cách mạng Việt Nam.  
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng nước ta trải qua các cao trào Xô Viết – Nghệ Tĩnh  
1930-1931, phong trào Dân chủ đòi tự do, cơm áo và hoà bình 1936-1939, phong trào  
Phản đế và phát động toàn dân tổng khởi nghĩa 1939-1945, đỉnh cao là thắng lợi rực rỡ của  
Cách mạng tháng Tám 1945, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà - Nhà nước dân chủ  
đầu tiên ở Đông Nam Á.  
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời đến nay, đã lãnh đạo nhân dân ta đứng lên lật  
đổ ách thống trị của thực dân Pháp, tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công; đánh  
thắng hai cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, giành độc lập dân  
tộc, thống nhất toàn quốc và đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.  
Trong giai đoạn mới của cách mạng, để giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,  
xây dựng đất nước giàu về kinh tế, mạnh về quốc phòng, ổn định về chính trị xã hội, đòi  
hỏi phải nâng cao hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng đối với mọi vấn đề của xã hội.  
Thực tế cho thấy, sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975, đất  
nước ta đứng trước bao thử thách hiểm nghèo như chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới,  
nền kinh tế còn có nhiều khó khăn, các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp  
đổ. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta từng bước vượt  
qua khó khăn, thử thách, vững bước đi lên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phấn  
đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.  
7. Vận dụng một số bài học kinh nghiệm truyền thống đánh giặc giữ nước  
vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới  
Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, những bài học kinh nghiệm của cha  
ông ta trước đây luôn nhấn mạnh tư tưởng tích cực, chủ động tiến công địch. Ngày nay,  
với sức mạnh của cả nước đánh giặc dưới sự lãnh đạo của Đảng, những bài học truyền  
thống cho phép chúng ta càng có điều kiện phát huy mặt mạnh của mình, khoét sâu chỗ  
yếu của địch để “kiên quyết không ngừng thế tiến công”, tiến công địch vào đúng thời cơ,  
địa điểm thích hợp.  
Ngày nay, kẻ thù của đất nước ta là chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, có ưu  
thế về tiềm lực kinh tế, quân sự, khoa học công nghệ mạnh, nhưng do tiến hành chiến  
GT GDQP -AN  
11  
TRƯƠNG ĐAI HỌC AN GIANG  
GV :TRẦN VĂN DŨNG  
tranh xâm lược, phi nghĩa, nên chúng sẽ bộc lộ nhiều sơ hở. Trên cơ sở đánh giá đúng  
mạnh, yếu của địch và ta, chúng ta phải biết phát huy sức mạnh của mọi lực lượng, vận  
dụng linh hoạt mọi hình thức và quy mô tác chiến, mọi cách đánh, mới có thể tiến công  
địch một cách liên tục mọi lúc, mọi nơi. Không chỉ tiến công trên mặt trận quân sự, mà  
phải tiến công toàn diện trên mọi mặt trận, đặc biệt là mặt trận chính trị, binh vận, thực  
hiện “mưu phạt công tâm”, đánh vào lòng người, góp phần thay đổi cục diện chiến tranh.  
Như vậy, trên cơ sở không ngừng nâng cao cảnh giác cách mạng, phát huy lòng dũng  
cảm, trí thông minh sáng tạo giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa con người và vũ khí,  
nắm vững tư tưởng tích cực tiến công, chúng ta hoàn toàn có thể giành quyền chủ động  
trên chiến trường và kết thúc chiến tranh trong điều kiện có lợi nhất.  
Đây là sự kế thừa và phát huy lên một trình độ mới từ bài học kinh nghiệm truyền  
thống của dân tộc. Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, những  
bài học đó là cở thực tiễn cho sự chỉ đạo mọi hoạt động tác chiến của lực lượng vũ trang  
và nhân dân. Đó là một nguyên tắc trong đề ra quyết sách trong đường lối chỉ đạo chiến  
tranh giành thắng lợi trong điều kiện mới. Nguyên tắc đó phải được thể hiện cụ thể trong  
việc xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, cho từng đối tượng, cũng như từng trận  
đánh cụ thể.  
Trong hoạt động tác chiến của các lực lượng vũ trang, kết hợp đánh phân tán với  
đánh tập trung, kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa và đánh lớn. Mỗi lực lượng, mỗi thứ quân đều  
có vị trí tác dụng và có những quy luật hoạt động riêng. Vì vậy, cần phải phối hợp tác  
chiến của các lực lượng, các thứ quân cả về chiến lược cũng như trong chiến dịch và chiến  
đấu. Có kết hợp đánh phân tán, rộng khắp của lực lượng vũ trang địa phương với đánh tập  
trung của lực lượng cơ động, kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn mới phát huy được uy  
lực của mọi vũ khí từ thô sơ đến hiện đại, làm cho binh lực của địch bị phân tán, dàn  
mỏng, khiến cho chúng đông mà hoá ít, mạnh mà hoá yếu và luôn bị động đối phó; trên cơ  
sở đó, thực hiện những đòn đánh quyết định, tạo sự thay đổi trên chiến trường có lợi cho  
ta.  
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, ông cha ta luôn phải chống lại kẻ  
thù xâm lược lớn hơn nhiều lần. Đứng trước thực tế đó, ông cha ta đã sáng tạo ra nghệ  
thuật “lấy ít địch nhiều”, nhưng biết tập trung ưu thế lực lượng trong những thời điểm  
GT GDQP -AN  
12  
TRƯƠNG ĐAI HỌC AN GIANG  
GV :TRẦN VĂN DŨNG  
quan trọng để đánh thắng quân xâm lược. Ngày nay, vận dụng tư tưởng lấy ít đánh nhiều,  
ta phải phải phát huy được khả năng đánh giặc của toàn dân, của cả ba thứ quân, tạo ra sức  
mạnh tổng hợp hơn địch để đánh thắng địch trong mọi tình thế. Mặt khác, phải tận dụng  
địa hình, tận dụng được yếu tố bí mật, bất ngờ, tiết kiệm được lực lượng để đánh lâu dài,  
càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng.  
Lịch sử Việt Nam trải qua hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước gian  
khổ nhưng vinh quang, tự hào. Truyền thống đánh giặc, giữ nước của dân tộc ta ngày càng  
được các thế hệ tiếp theo kế thừa và vận dụng sáng tạo. Thế hệ trẻ Việt Nam đã và đang  
thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác  
cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.  
CÂU HỎI ÔN TẬP  
1. Hãy nêu truyền thống đánh giặc, giữ nước của dân tộc Việt Nam?  
2.Trách nhiệm của học sinh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện  
nay ?  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Giáo trình Giáo dục quốc phòng, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2001.  
2. Bộ Quốc phòng, Nghệ thuật đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam, Hà  
Nội, 1990.  
3. Giáo trình Lịch sử quân sự, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1997.  
LUẬT NGHĨA VỤ QUÂN SỰ, QUYỀN LỢI  
VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA HỌC SINH  
1. Những nội dung cơ bản của Luật Nghĩa vụ quân sự  
1.1. Nghĩa vụ quân sự của công dân  
GT GDQP -AN  
13  
TRƯƠNG ĐAI HỌC AN GIANG  
GV :TRẦN VĂN DŨNG  
Thực hiện nghĩa vụ quân sự là nghĩa vụ vẻ vang của công dân phục vụ trong Quân  
đội nhân dân Việt Nam, bao gồm phục vụ tại ngũ và phục vụ trong ngạch dự bị của quân  
đội.  
a) Phục vụ tại ngũ của hạ sĩ quan, binh sĩ trong quân đội  
Công dân nam, không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng tôn giáo,  
trình độ văn hoá, nghề nghiệp, nơi cư trú, có nghĩa vụ phục vụ tại ngũ trong Quân đội  
nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, Luật Nghĩa vụ quân sự cũng quy định: công dân nữ có  
chuyên môn cần cho quân đội, trong thời bình phải đăng ký nghĩa vụ quân sự và được  
huấn luyện; nếu tình nguyện thì có thể được phục vụ tại ngũ.  
Độ tuổi gọi nhập ngũ trong thời bình từ đủ 18 đến hết 25 tuổi. Thời hạn phục vụ tại  
ngũ của hạ sĩ quan, binh sĩ thời bình là 18 tháng; với hạ sĩ quan chỉ huy, hạ sĩ quan binh sĩ  
chuyên môn kỹ thuật do quân đội đào tạo, hạ sĩ quan, binh sĩ trên tàu hải quân là 24 tháng.  
Khi cần thiết, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng được quyền kéo thêm thời gian phục vụ không  
quá 6 tháng so với thời gian quy định. Thời gian đào ngũ (nếu có) không được tính vào  
thời gian phục vụ tại ngũ.  
Thực hiện nghĩa vụ quân sự không chỉ là nghĩa vụ thiêng liêng mà còn là quyền cao  
quý của công dân. Công dân đang trong thời kỳ bị tước quyền phục vụ trong các lực lượng  
vũ trang nhân dân hoặc đang bị giam giữ, cấm cư trú, quản chế đều không được làm nghĩa  
vụ quân sự.  
GT GDQP -AN  
14  
TRƯƠNG ĐAI HỌC AN GIANG  
GV :TRẦN VĂN DŨNG  
b) Phục vụ của hạ sĩ quan và binh sĩ dự bị  
Hạ sĩ quan và binh sĩ dự bị chia thành quân nhân dự bị hạng một và quân nhân dự bị  
hạng hai.  
Quân nhân dự bị hạng một gồm hạ sĩ quan, binh sĩ đã phục vụ tại ngũ đủ thời gian  
hoặc trên hạn định; hạ sĩ quan, binh sĩ xuất ngũ trước thời hạn, nhưng đã phục vụ tại ngũ  
trên 6 tháng; hạ sĩ quan, binh sĩ đã qua chiến đấu; nam quân nhân dự bị hạng hai đã qua  
huấn luyện tập trung đủ 6 tháng.  
Quân nhân dự bị hạng hai gồm hạ sĩ quan, binh sĩ xuất ngũ, trước thời hạn nhưng  
đã phục vụ tại ngũ dưới 6 tháng; công dân nam chưa phục vụ tại ngũ từ 26 tuổi trở lên  
được chuyển sang ngạch dự bị; công dân nữ đã đăng ký nghĩa vụ quân sự.  
Quân nhân dự bị ở mỗi hạng được chia làm 2 nhóm. Nhóm A, nam đến hết 35 tuổi;  
nữ đến hết 30 tuổi. Nhóm B, nam từ 36 tuổi đến hết 45 tuổi; nữ từ 31 đến hết 40 tuổi. Quân  
nhân dự bị hạng một phải tham gia huấn luyện tổng thời gian nhiều nhất là 12 tháng.  
Quân nhân chuyên nghiệp và hạ sĩ quan, binh sĩ dự bị trong thời gian tập trung huấn  
luyện, diễn tập và kiểm tra sẵn sàng chiến đấu, bản thân và gia đình được hưởng chế độ  
chính sách do Chính phủ quy định.  
1.2. Đăng ký nghĩa vụ quân sự và chuẩn bị cho thanh niên phục vụ quân đội  
a) Đăng ký nghĩa vụ quân sự  
Đăng ký nghĩa vụ quân sự được tiến hành tại nơi cư trú theo hai cấp: xã, phường, thị  
trấn và huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, do ban chỉ huy quân sự của các cấp đó  
phụ trách.  
Tháng tư hàng năm, theo lệnh gọi của chỉ huy trưởng quân sự huyện (quận, thị xã,  
thành phố thuộc tỉnh), công dân nam đủ 17 tuổi trong năm đó phải đến cơ quan quân sự để  
đăng ký nghĩa vụ quân sự. Công dân đã đăng ký nghĩa vụ quân sự gọi là công dân sẵn  
sàng nhập ngũ.  
Quân nhân dự bị và công dân sẵn sàng nhập ngũ, khi chuyển chỗ ở đến ở địa phương  
khác phải đến ban chỉ huy quân sự xã, phường, thị trấn và ban chỉ huy quân sự huyện  
(quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh) để xóa tên trong sổ đăng ký; khi đến nơi ở mới, trong  
thời hạn 7 ngày, phải đến ban chỉ huy quân sự xã (phường, thị trấn) và trong thời hạn 10  
ngày phải đến ban chỉ huy quân sự huyện (quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh) để ghi tên  
vào sổ đăng ký. Khi quân nhân dự bị và công dân sẵn sàng nhập ngũ có thay đổi về địa  
GT GDQP -AN  
15  
TRƯƠNG ĐAI HỌC AN GIANG  
GV :TRẦN VĂN DŨNG  
chỉ, nơi làm việc hoặc nơi học tập, chức vụ công tác, trình độ văn hoá, thì trong thời hạn  
10 ngày, phải đến cơ quan quân sự để đăng ký bổ sung.  
b) Chuẩn bị cho thanh niên phục vụ quân đội  
Công dân nam trước khi đến tuổi nhập ngũ và trước khi nhập ngũ, phải được huấn  
luyện theo chương trình quân sự phổ thông, bao gồm giáo dục chính trị, huấn luyện quân  
sự, rèn luyện ý thức tổ chức, kỷ luật và rèn luyện thể lực.  
Nội dung huấn luyện quân sự phổ thông cho học sinh ở các trường thuộc chương  
trình chính khóa do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng phối hợp với Bộ trưởng Bộ Giáo dục và  
Đào tạo quy định. Việc huấn luyện quân sự phổ thông cho thanh niên không học ở các  
trường do chủ tịch uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn, thủ trưởng cơ quan nhà nước tổ  
chức; nội dung huấn luyện do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định.  
1.3. Nhập ngũ, xuất ngũ  
a) Gọi nhập ngũ  
Hàng năm, việc gọi công dân nhập ngũ được tiến hành từ một đến hai lần. Tuy  
nhiên, do đặc điểm về tính mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp, trong học tập của học sinh,  
đặc điểm về khí hậu, thời tiết nước ta nên việc gọi công dân nhập ngũ thường được tiến  
hành vào khoảng tháng 2 - tháng 3 và tháng 8 - tháng 9. Lệnh gọi nhập ngũ phải được đưa  
trước 15 ngày. Công dân được gọi nhập ngũ phải có mặt đúng thời gian và địa điểm ghi  
trong lệnh gọi nhập ngũ; nếu có lý do chính đáng, không thể đến đúng thời gian và địa  
điểm phải có giấy xác nhận của uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú.  
b) Xuất ngũ  
Hạ sĩ quan và binh sĩ đã phục vụ tại ngũ đủ thời hạn quy định thì được xuất ngũ.  
Thời gian xuất ngũ của hạ sỹ quan, binh sỹ phải được thông báo trước một tháng cho quân  
nhân. Người chỉ huy đơn vị cấp trung đoàn và tương đương trở lên phải tổ chức tiễn và  
đưa quân nhân được xuất ngũ về bàn giao cho uỷ ban nhân dân địa phương đã giao quân.  
Uỷ ban nhân dân cấp huyện ở địa phương có trách nhiệm tiếp nhận hạ sĩ quan, binh sĩ về  
địa phương chu đáo, tạo điều kiện cho họ nhanh chóng ổn định đời sống.  
Hạ sĩ quan, binh sĩ có thể được xuất ngũ trước thời hạn, nếu hội đồng giám định y  
khoa kết luận không đủ sức khoẻ tiếp tục phục vụ tại ngũ hoặc hoàn cảnh gia đình quá khó  
khăn.  
GT GDQP -AN  
16  
TRƯƠNG ĐAI HỌC AN GIANG  
GV :TRẦN VĂN DŨNG  
Hạ sỹ quan, binh sĩ xuất ngũ về địa phương, trong thời hạn 15 ngày phải đến ban  
chỉ huy quân sự xã (phường, thị trấn) và ban chỉ huy quân sự huyện (quận, thị xã, thành  
phố trực thuộc tỉnh) để đăng ký vào ngạch dự bị.  
c) Hoãn gọi nhập ngũ trong thời bình  
Công dân nam được hoãn gọi nhập ngũ trong các trường hợp: chưa đủ sức khoẻ phục  
vụ tại ngũ theo kết luận của hội đồng khám sức khoẻ; là lao động duy nhất phải trực tiếp nuôi  
người khác trong gia đình không còn sức lao động hoặc chưa đến tuổi lao động; có anh,  
chị hoặc em ruột là hạ sỹ quan, binh sỹ đang phục vụ tại ngũ; giáo viên, nhân viên y tế,  
thanh niên xung phong đang làm việc ở vùng vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng  
đặc biệt khó khăn; cán bộ, công chức, viên chức được điều động đến làm việc ở những  
vùng này; đang nghiên cứu công trình khoa học cấp Nhà nước được bộ trưởng, thủ trưởng  
cơ quan ngang bộ hoặc người có chức vụ tương đương chứng nhận; đang học ở các trường  
phổ thông, dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học do Chính phủ quy định;  
đi xây dựng vùng kinh tế mới trong 3 năm đầu.  
Hàng năm, những trường hợp nói trên đều được kiểm tra, nếu không còn lý do tạm  
hoãn thì được gọi nhập ngũ. Tuy nhiên, Luật Nghĩa vụ quân sự cũng quy định công dân  
thuộc diện được tạm hoãn gọi nhập ngũ, nếu tình nguyện thì có thể được tuyển chọn gọi  
nhập ngũ.  
d) Miễn gọi nhập ngũ trong thời bình  
Công dân được miễn gọi nhập ngũ trong thời bình gồm các trường hợp: con liệt sỹ,  
con thương binh hạng một, con bệnh binh hạng một; là anh hoặc em trai của liệt sĩ; là con  
trai của thương binh hạng hai; thanh niên xung phong, cán bộ, công chức, viên chức đã  
phục vụ trên 24 tháng ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn.  
Người tàn tật, người mắc bệnh tâm thần và mãn tính khác theo danh mục bệnh tật do  
Bộ trưởng Bộ Y tế và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định được miễn làm nghĩa vụ quân  
sự.  
1.4. Nghĩa vụ và quyền lợi của hạ sĩ quan, binh sĩ  
a) Nghĩa vụ  
Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân và Nhà nước, nêu cao tinh thần cảnh  
giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu hy sinh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,  
hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao; tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, kiên quyết  
bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tính mạng, tài sản nhân dân; gương mẫu chấp hành  
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, điều lệnh, điều lệ của quân đội; ra  
GT GDQP -AN  
17  
TRƯƠNG ĐAI HỌC AN GIANG  
GV :TRẦN VĂN DŨNG  
sức học tập chính trị, quân sự, văn hoá, kỹ thuật, nghiệp vụ, rèn luyện tính tổ chức, kỷ luật  
và thể lực, không ngừng nâng cao bản lĩnh chiến đấu.  
b) Quyền lợi  
Được cung cấp kịp thời, đủ số lượng, đúng chất lượng về lương thực, thực phẩm,  
quân trang, thuốc chữa bệnh, được đảm bảo chỗ ở, phụ cấp hàng tháng và nhu cầu văn  
hóa, tinh thần phù hợp với tính chất, nhiệm vụ của quân đội theo chế độ, tiêu chuẩn, định  
lượng được quy định. Từ năm thứ 2 trở đi được nghỉ phép theo quy định; từ tháng thứ 19  
trở đi được hưởng thêm 200% phụ cấp quân hàm hiện hưởng hàng tháng, từ tháng thứ 25  
trở đi được hưởng thêm 250% phụ cấp quân hàm hiện hưởng hàng tháng; được tính nhân  
khẩu ở gia đình khi gia đình được cấp hoặc điều chỉnh diện tích nhà ở, đất xây dựng hoặc  
canh tác; được tính thời gian phục vụ tại ngũ vào thời gian công tác. Khi xuất ngũ được  
cấp tiền tàu xe, phụ cấp đi đường, được hưởng trợ cấp xuất ngũ, trợ cấp tạo việc làm do  
Chính phủ quy định. Từ khi đăng ký vào ngạch dự bị thì được miễn làm nghĩa vụ lao động  
công ích.  
Quân nhân hoàn thành nghĩa vụ quân sự khi xuất ngũ trở về địa phương được chính  
quyền các cấp giải quyết ưu tiên trong tuyển sinh, tuyển dụng hoặc sắp xếp việc làm;  
được vào học tại các trường đã trúng tuyển trước khi nhập ngũ.  
c) Quyền lợi đối với gia đình hạ sĩ quan và binh sĩ tại ngũ  
Bố, mẹ hoặc vợ được tạm miễn tham gia lao động công ích khi gặp khó khăn và  
được uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng nhận. Bố, mẹ, vợ và con được hưởng chế  
độ trợ cấp khó khăn đột xuất theo chính sách chung của Nhà nước; được miễn viện phí khi  
khám bệnh và chữa bệnh tại các bệnh viện của Nhà nước. Con gửi trẻ hoặc học các trường  
của Nhà nước, được miễn tiền học phí và tiền đóng góp xây dựng trường.  
1.5. Xử lý các vi phạm  
Người nào vi phạm các quy định về đăng ký nghĩa vụ quân sự, tuyển chọn và gọi  
công dân nhập ngũ, gọi quân nhân dự bị tập trung huấn luyện; lợi dụng chức vụ, quyền  
hạn làm trái hoặc cản trở việc thực hiện Luật Nghĩa vụ quân sự, thì tuỳ theo mức độ nhẹ  
hoặc nặng mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.  
Quân nhân nào vi phạm các quy định về việc tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ,  
xuất ngũ của hạ sĩ quan, binh sĩ, về chế độ, quyền lợi của quân nhân hoặc vi phạm các quy  
định khác của Luật Nghĩa vụ quân sự thì tuỳ theo mức độ nhẹ hoặc nặng mà bị xử lý theo  
điều lệnh kỷ luật của quân đội hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.  
2. Trách nhiệm của học sinh trong việc chấp hành Luật Nghĩa vụ quân sự  
GT GDQP -AN  
18  
TRƯƠNG ĐAI HỌC AN GIANG  
GV :TRẦN VĂN DŨNG  
2.1. Tích cực học tập chính trị, quân sự, rèn luyện thể lực theo quy định  
Trong thời gian học tập tại trường, học sinh phải học xong chương trình giáo dục  
quốc phòng - an ninh, nhằm xây dựng tinh thần yêu nước, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa,  
rèn luyện tác phong, nếp sống tập thể, có kỷ luật, nắm được những kiến thức phổ thông  
về quân sự để khi nhập ngũ có điều kiện thuận lợi tiếp tục học tập, rèn luyện trở thành  
người chiến sĩ tốt của Quân đội nhân dân Việt Nam.  
Học sinh phải có thái độ nghiêm túc, trách nhiệm đầy đủ trong học tập, rèn luyện,  
phấn đấu đạt kết quả cao trong môn học giáo dục quốc phòng; biết vận dụng kết quả học  
tập vào xây dựng nền nếp sinh hoạt tập thể có kỷ luật, văn minh trong nhà trường và ngoài  
xã hội.  
2.2. Chấp hành đúng quy định về đăng kí nghĩa vụ quân sự, kiểm tra và khám sức  
khoẻ  
Học sinh phải chấp hành đúng quy định về đăng kí nghĩa vụ quân sự của ban chỉ huy  
quân sự huyện (quận, thành phố thuộc tỉnh) nơi cư trú và hướng dẫn của nhà trường.  
Tháng tư hàng năm, theo lệnh gọi của chỉ huy trưởng quân sự huyện (quận, thành  
phố thuộc tỉnh), công dân nam đủ 17 tuổi phải đăng kí nghĩa vụ quân sự lần đầu và kiểm  
tra sức khoẻ.  
Kiểm tra sức khoẻ để kiểm tra thể lực, phát hiện những bệnh tật và hướng dẫn công  
dân phòng bệnh, chữa bệnh để giữ vững và nâng cao sức khoẻ chuẩn bị cho việc nhập ngũ.  
Khám sức khoẻ nhằm tuyển chọn những công dân đủ tiêu chuẩn vào phục vụ tại  
ngũ. Học sinh phải có mặt đúng thời gian, địa điểm theo quy định trong giấy báo gọi khám  
sức khoẻ.  
Trong khi kiểm tra hoặc khám sức khoẻ phải thực hiện đầy đủ các quy định ở phòng  
khám.  
2.3. Chấp hành nghiêm lệnh gọi nhập ngũ  
Công dân được gọi nhập ngũ phải có mặt đúng thời gian và địa điểm ghi trong lệnh  
gọi nhập ngũ, nếu không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ thì sẽ bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành  
chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.  
GT GDQP -AN  
19  
TRƯƠNG ĐAI HỌC AN GIANG  
GV :TRẦN VĂN DŨNG  
CÂU HỎI ÔN TẬP  
1. Trình bày nội dung cơ bản của Luật Nghĩa vụ quân sự hiện hành?  
2. Trách nhiệm của học sinh trong việc chấp hành Luật Nghĩa vụ quân sự như thế  
nào?  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Luật Nghĩa vụ quân sự năm 1981 (sửa đổi, bổ sung năm 1990, 1994, 2005).  
2. Luật Quốc phòng năm 2005.  
GT GDQP -AN  
20  
TRƯƠNG ĐAI HỌC AN GIANG  
GV :TRẦN VĂN DŨNG  
BẢO VỆ CHỦ QUYỀN LÃNH THỔ, BIÊN GIỚI QUỐC GIA  
Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là một nội dung quan trọng của nhiệm  
vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác  
định: “Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện; bảo  
vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng,  
Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế,  
an ninh tư tưởng văn hoá và an ninh xã hội; duy trì trật tự kỷ cương, an toàn xã hội; giữ  
vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt  
động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ”1.  
1. Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia  
1.1. Chủ quyền lãnh thổ quốc gia  
Quốc gia là thực thể pháp lý bao gồm ba yếu tố cấu thành: lãnh thổ, dân cư và quyền  
lực công cộng. Quốc gia là chủ thể căn bản nhất của luật quốc tế. Chủ quyền quốc gia là  
đặc trưng cơ bản, quan trọng nhất của quốc gia.  
Lãnh thổ quốc gia là phạm vi không gian được giới hạn bởi biên giới quốc gia, thuộc  
chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ của một quốc gia. Lãnh thổ quốc gia Việt Nam bao gồm:  
vùng đất quốc gia, vùng biển quốc gia (nội thuỷ và lãnh hải), vùng trời quốc gia, ngoài ra  
còn gồm lãnh thổ quốc gia đặc biệt.  
Vùng đất quốc gia (bao gồm các đảo và quần đảo) là phần mặt đất và lòng đất của đất  
liền (lục địa), của đảo, quần đảo thuộc chủ quyền quốc gia; bộ phận quan trọng nhất cấu  
thành lãnh thổ quốc gia, làm cơ sở để xác định vùng trời quốc gia, nội thuỷ, lãnh hải.  
Vùng đất quốc gia có thể gồm những lục địa ở những điểm khác nhau (tách rời nhau),  
nhưng các vùng đất đó đều thuộc lãnh thổ thống nhất của quốc gia hoặc cũng có thể chỉ  
bao gồm các đảo, quần đảo ở ngoài biển hợp thành quốc gia quần đảo. Việt Nam là một  
quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, ven biển Thái Bình Dương, có vùng đất quốc gia  
vừa là đất liền, vừa là đảo, vừa là quần đảo, bao gồm từ đỉnh Lũng Cú, Hà Giang đến mũi  
Cà Mau; các đảo như Phú Quốc, Cái Lân... và quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; riêng diện  
tích đất liền (lục địa) là 331.689 km2.  
Phần Biển Đông thuộc chủ quyền Việt Nam mở rộng về phía Đông và Đông Nam, có  
1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.108-109.  
GT GDQP -AN  
21  
 
TRƯƠNG ĐAI HỌC AN GIANG  
GV :TRẦN VĂN DŨNG  
thềm lục địa, các đảo và quần đảo lớn nhỏ bao bọc. Riêng Vịnh Bắc Bộ đã tập trung một  
quần thể gần 3.000 hòn đảo trong khu vực Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long; các đảo Cát Hải,  
Cát Bà, Bạch Long Vĩ…; xa hơn là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; phía Tây Nam và  
Nam có các nhóm đảo Côn Sơn, Phú Quốc và Thổ Chu.  
Nội thuỷ là vùng biển nằm ở phía trong của đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải  
Việt Nam. Đường cơ sở là đường gãy khúc nối liền các điểm được lựa chọn tại ngấn nước  
thuỷ triều thấp nhất dọc theo bờ biển và các đảo gần bờ do Chính phủ nước Cộng hòa xã  
hội chủ nghĩa Việt Nam xác định và công bố1.  
Lãnh hải là vùng biển có chiều rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở, có chế độ pháp lý  
như lãnh thổ đất liền. Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới quốc gia trên biển. Lãnh  
hải của Việt Nam bao gồm lãnh hải của đất liền, lãnh hải của các đảo, lãnh hải của quần  
đảo.  
Lãnh thổ quốc gia đặc biệt là loại lãnh thổ đặc thù của một quốc gia tồn tại hợp pháp  
trong lãnh thổ một quốc gia khác hoặc trên vùng biển, vùng trời quốc tế. Ví dụ như trụ sở  
làm việc và nơi ở của cơ quan đại diện ngoại giao.  
Vùng trời quốc gia là khoảng không gian phía trên lãnh thổ đất, đảo, nội thuỷ, lãnh  
hải của một quốc gia; là bộ phận cấu thành lãnh thổ quốc gia và thuộc chủ quyền hoàn  
toàn của quốc gia. Việc làm chủ vùng trời quốc gia trên vùng lãnh thổ quốc gia đặc biệt  
được thực hiện theo quy định chung của công ước quốc tế.  
1
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Biên giới quốc gia, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.9.  
GT GDQP -AN  
22  
 
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 260 trang baolam 06/05/2022 6660
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Giáo dục quốc phòng - Trần Văn Dũng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_giao_duc_quoc_phong_tran_van_dung.pdf