Từ lí luận của M. Bakhtin đi tìm kết cấu đặc trưng của tiểu thuyết

TỪ LÍ LUẬN CỦA M. BAKHTIN  
ĐI TÌM KẾT CẤU ĐẶC TRƯNG CỦA TIỂU THUYẾT  
Nguyễn Thị Ninh  
Khoa Ngữ văn – Khoa học xã hội  
Email: ninhnt@dhhp.edu.vn  
Ngày nhận bài: 07/10/2019  
Ngày PB đánh giá:21/10/2019  
Ngày duyệt đăng: 25/10/2019  
TÓM TẮT: Trên cơ sở khảo cứu, đúc rút có bổ sung những thành tựu lí luận về thể loại, đặc biệt là lí  
luận lỗi lạc của M. Bakhtin và thực tiễn sáng tác, bài viết bước đầu chỉ ra những đặc trưng kết cấu cơ  
bản của tiểu thuyết so với các thể loại tự sự ra đời trước nó và thể loại cùng thời với nó là truyện ngắn.  
Sự đúc rút này phần nào có giá trị hữu ích đối với việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập về thể loại nói  
chung, tiểu thuyết nói riêng.  
Từ khóa: M. Bakhtin, kết cấu, kết cấu đặc trưng, tiểu thuyết, thể loại.  
FINDING THE TYPICAL STRUCTURE OF NOVELS ACCORDING  
TO M. BAKHTIN’S THEORY  
ABSTRACT: On the basis of research and inference, supplemented with theoretical achievements of  
genres, especially the outstanding theory of M. Bakhtin and composing practice, the article initially  
points out the basic structural characteristics. of novels compared to the genre of narratives that  
preceded them and their contemporary genre as short stories. This finding is somewhat useful for  
research, teaching and learning about genres in general and novels in particular.  
Key words: M. Bakhtin, structure, typical structure, novels, genres.  
1. ĐẶT VẤN ĐỀ  
trên cấp độ tổng thể, vừa thẩm thấu vào  
từng yếu tố cụ thể. Tìm ra khuôn dạng có  
tính công thức bao quát cho kết cấu đặc  
trưng của tiểu thuyết lại càng là một việc  
làm bất khả dĩ vì “tiểu thuyết là thể loại  
văn chương duy nhất đang biến chuyển  
và còn chưa định hình. Nòng cốt thể loại  
của tiểu thuyết chưa hề rắn lại và chúng  
ta chưa thể dự đoán hết khả năng uyển  
chuyển của nó” [1; 21]. Điều này gây  
không ít khó khăn cho nghiên cứu, giảng  
dạy và học tập chuyên sâu về thể loại. Với  
Đến nay, đã có rất nhiều công trình  
khoa học luận giải về đặc trưng nội dung  
cũng như hình thức của các thể loại văn  
học như thơ, kịch, tiểu thuyết, truyện  
ngắn… nhưng chưa có công trình nào  
xây dựng hệ thống lý thuyết về đặc trưng  
kết cấu của các thể loại này. Đây là việc  
hết sức khó khăn vì kết cấu có nội hàm  
vô cùng rộng lớn. Nó vừa hữu hình, vừa  
vô hình trừu tượng, vừa có thể hình dung,  
vừa rất khó hình dung. Nó vừa tồn tại  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG  
120  
mong muốn phần nào tháo gỡ những khó  
khăn, bài viết bước đầu chỉ ra một cách  
có hệ thống những đặc trưng kết cấu cơ  
bản của tiểu thuyết trên cơ sở khái quát  
có bổ sung thành quả lí luận của những  
người đi trước kết hợp với thực tiễn sáng  
tác xưa nay.  
M. Bakhtin minh giải cụ thể. Hơn nữa,  
những đặc trưng cấu trúc của tiểu thuyết  
mà ông đúc kết, ở mức độ nhất định, cũng  
có ở truyện ngắn. Truyện vừa hiện đại  
cũng rất gần với tiểu thuyết nhưng ranh  
giới giữa hai thể loại này nhiều khi không  
rõ ràng. Đặc trưng kết cấu của tiểu thuyết  
còn được chỉ ra qua những nhận định khái  
quát hoặc được gián tiếp làm rõ qua các  
hình thức luận giải phong phú, sinh động  
từ thực tiễn sáng tác những đặc trưng về tổ  
chức cốt truyện, xây dựng nhân vật, sáng  
tạo hình tượng, tổ chức điểm nhìn, giọng  
điệu, không - thời gian… trong nhiều công  
trình khoa học. Tuy nhiên, qua đó, những  
đặc trưng kết cấu có tính khu biệt về thể  
loại vẫn còn là vấn đề mơ hồ, chưa được  
làm sáng tỏ.  
2. NỘI DUNG  
Cùng với sự ra đời và thay thế lẫn nhau  
của nhiều dạng thức tiểu thuyết khác nhau  
trong lịch sử là sự xuất hiện của một khối  
lượng công trình khổng lồ về lí luận thể  
loại. Một trong những chủ nhân của nhiều  
công trình lí luận xuất sắc, có ảnh hưởng  
lớn trong giới học thuật và sáng tác là M.  
Bakhtin (1895 - 1975). Đến nay, hầu như  
chưa có công trình khoa học nào vượt xa  
hơn những thành tựu mà ông đã đúc kết  
về thể loại tiểu thuyết. Ông nhận thấy, với  
các thể loại văn học khác, lí luận văn học  
“hoạt động một cách tự tin và chính xác”,  
còn đối với tiểu thuyết, lí luận ấy “bộc lộ  
một sự bất lực hoàn toàn” [1; 28]. Tuy  
nhiên, trong khi xây dựng lí luận về thi  
pháp tiểu thuyết, ông vẫn “cố gắng tìm ra  
những đặc điểm cấu trúc cơ bản nhất của  
cái thể loại mềm mại nhất này, những quy  
định cả phương hướng biến đổi của chính  
bản thân nó đến toàn bộ văn học” [1; 32].  
Trong khi đưa ra những đặc trưng cấu trúc  
của tiểu thuyết, M. Bakhtin đã có ý phân  
biệt tiểu thuyết với tất cả các thể loại văn  
học khác (trong đó có truyện ngắn). Tuy  
nhiên, trong các công trình của mình, ông  
chủ yếu đối sánh, nhấn mạnh sự khác biệt  
về cấu trúc của tiểu thuyết so với sử thi và  
các thể loại cao thượng khác - nói chung  
là các thể loại tự sự ra đời trước nó. Sự  
khác nhau giữa đặc trưng cấu trúc của tiểu  
thuyết so với truyện ngắn - thể loại tự sự  
gần gần gũi nhất với tiểu thuyết chưa được  
Để bước đầu chỉ ra những đặc trưng  
kết cấu cơ bản nhất của tiểu thuyết, chúng  
tôi tiến hành hai việc:  
- Căn cứ chủ yếu vào lí luận của M.  
Bakhtin trong công trình Lý luận và thi  
pháp tiểu thuyết do Phạm Vĩnh Cư chọn  
dịch và giới thiệu, kết hợp thêm lí luận của  
một số học giả khác và thực tiễn sáng tác  
để chỉ ra những đặc trưng kết cấu cơ bản  
nhất của tiểu thuyết so với các thể loại tự  
sự ra đời trước nó.  
- Kết hợp thành tựu lí luận văn học và  
thực tiễn sáng tác xưa nay để làm rõ hơn  
đặc trưng kết cấu của tiểu thuyết so với  
truyện ngắn.  
2.1. Kết cấu đặc trưng của tiểu thuyết so  
với các thể loại tự sự ra đời trước nó  
Theo M. Bakhtin, mọi đặc trưng kết  
cấu của tiểu thuyết đều có chung điểm  
xuất phát: Tiểu thuyết là thể loại còn non  
trẻ và chưa hoàn thành, vẫn đang biến  
chuyển trong khi sử thi và một số thể loại  
khác trong văn học thành văn thời cổ đại  
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020  
121  
và trung đại có hình thức đã hoàn bị, thậm  
chí đã già nua từ lâu. Chúng có nòng cốt  
rắn chắc với những công thức, luật lệ mang  
tính quy phạm. Chúng cao tuổi hơn chữ  
viết và đến nay vẫn ít nhiều giữ được bản  
chất “truyền khẩu”. So với các thể loại này,  
tiểu thuyết là “một sinh linh thuộc giống  
nòi khác”. Nó trẻ hơn chữ viết và được  
nảy sinh, nuôi dưỡng bởi thời đại mới  
của lịch sử loài người. Tiểu thuyết thích  
ứng với hình thức tiếp thụ im lặng. Muốn  
hiểu tiểu thuyết, người ta phải đọc và suy  
ngẫm, phải giải mã kết cấu của nó cả trong  
tổng thể lẫn từng mắt xích. Cũng không có  
tiểu thuyết nói chung với công thức luật  
lệ cố định mà chỉ có những dạng thức tiểu  
thuyết khác nhau trong quá trình lịch sử. Vì  
vậy, “Nghiên cứu các thể loại khác tựa hồ  
nghiên cứu những từ ngữ, nghiên cứu tiểu  
thuyết giống như nghiên cứu những sinh  
ngữ, mà lại sinh ngữ trẻ” [1; 22].  
là quá khứ dân tộc anh hùng - quá khứ  
của cha ông - những người “thứ nhất” và  
“ưu tú nhất”. Quá khứ ấy thuộc đẳng cấp  
giá trị cao nhất và hoàn hảo nhất. Đó là  
quá khứ đã hoàn kết, xong xuôi và mang  
tính khép kín. Trong khi đó, cả tác giả  
lẫn độc giả của sử thi lại thuộc một thời  
đại khác, một đẳng cấp giá trị khác. Đó  
là thế giới của con cháu, của “hậu bối”,  
đang dở dang, thế giới “hạ đẳng”, đầy  
rẫy những chuyện nhem nhuốc, phù vân.  
Người kể sử thi bao giờ cũng đứng từ xa  
mà chiêm bái, thành kính hoặc tôn sùng  
đối với quá khứ anh hùng. Điểm nhìn duy  
nhất trong sử thi là điểm nhìn của cả cộng  
đồng thế hệ sau ngưỡng vọng về thế hệ  
trước. Năng lực và sức mạnh sáng tạo của  
sử thi là kí ức chứ không phải nhận thức,  
phân tích, giải thích; là kinh nghiệm của  
cộng đồng chứ không phải kinh nghiệm  
cá nhân. Người đọc không chỉ có thể tìm  
thấy những đặc trưng này ở các thể loại  
cao thượng khác của thời cổ đại và trung  
đại mà còn có thể tìm thấy ngay cả trong  
những tác phẩm hiện đại mang khuynh  
hướng sử thi. Đó cũng là nguyên nhân  
khiến kết cấu của sử thi trở nên xơ cứng,  
khép kín với khuôn hình nòng cốt rắn  
chắc, đơn điệu, khiên cưỡng, ước lệ và ít  
uyển chuyển.  
2.1.1. Tiểu thuyết xây dựng hình tượng ở  
tọa độ không gian, thời gian đang tiếp diễn  
Trong khi cố gắng đưa ra những đặc  
trưng cấu trúc của tiểu thuyết, Bakhtin đã  
phân biệt tiểu thuyết với sử thi cổ đại ở  
nét tiêu biểu: sử thi thể hiện quá khứ anh  
hùng dân tộc mà cơ sở là kí ức của cộng  
đồng truyền thống, còn tiểu thuyết miêu  
tả cuộc sống “hiện tại” không ngừng biến  
đổi, sinh thành trên cơ sở kinh nghiệm  
cá nhân. Đặc điểm cấu trúc của sử thi là  
tạo ra một một khoảng cách không thể  
vượt qua giữa người kể sử thi với nhân  
vật trong sử thi gọi là “khoảng cách sử  
thi”. Đó trước hết là khoảng cách thời  
gian xa vời vợi giữa thế giới của sử thi  
và thế giới của người kể, người nghe sử  
thi. Đó còn là khoảng cách giá trị, khoảng  
cách tôn ti, trật tự. Đối tượng, nội dung  
và tọa độ xây dựng hình tượng của sử thi  
Tiểu thuyết trái lại, đã xoá bỏ “khoảng  
cách sử thi” để xây dựng hình tượng ở  
tọa độ không - thời gian đang diễn biến.  
Điều này kéo theo sự thay đổi toàn diện  
trong cấu trúc của tiểu thuyết so với sử  
thi và các thể loại cao thượng khác thời  
cổ đại, trung đại, cả những tác phẩm hiện  
đại mang khuynh hướng sử thi: Thứ nhất,  
hình tượng trong tiểu thuyết mất đi tính  
hoàn tất, bất biến trong sử thi và luôn đổi  
mới, bổ sung cùng quá trình đổi mới ngữ  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG  
122  
cảnh. Thứ hai, khác với sử thi, truyện kể  
cổ đại và trung đại chủ yếu sử dụng người  
kể toàn tri, một giọng với thái độ thành  
kính, tiểu thuyết cho phép người trần  
thuật dùng kinh nghiệm cá nhân để đánh  
giá hiện tượng từ nhiều chiều, nhiều điểm  
nhìn, đa chủ thể, đa giọng điệu với thái độ  
thân mật, thậm chí bỗ bã, suồng sã. Bởi lẽ,  
tiểu thuyết hấp thu và miêu tả mọi sự việc  
của cái thực tại cùng thời đang sinh thành  
và phát triển trên cùng một cấp độ giá trị  
- thời gian với bản thân mình. Đối tượng  
của tiểu thuyết là con người của hiện tại,  
con người ngang hàng, bình đẳng như  
bạn bè, hàng xóm hoặc cùng sống trong  
một thành phố, làng quê. Truyện kí cũng  
sử dụng kinh nghiệm nhưng đó là kinh  
nghiệm, cách nhìn duy nhất của người viết  
truyện ký. Thứ ba, vấn đề mở đầu và kết  
thúc, vấn đề tính trọn vẹn của tiểu thuyết  
cũng được đặt ra theo cách mới. Quá khứ  
trong sử thi hoàn tất và khép kín cả trong  
tổng thể cũng như ở từng bộ phận nên sử  
thi có thể bắt đầu hay kết thúc câu chuyện  
ở bất cứ điểm nào. Ngược lại, tiểu thuyết  
tiếp xúc gần gũi với cuộc sống đương đại  
đang tiếp diễn nên đặc biệt quan tâm đến  
kết cục sẽ ra sao? cái gì xảy ra sau đó? Nó  
có thể dẫn dắt người đọc vào thế giới kỳ  
thú của những điều chưa biết do cốt truyện  
gây ra. Bố cục của tiểu thuyết cũng vì thế  
mà đa dạng, bất tuân theo quy tắc.  
kết cấu nào của nó cũng chỉ là những thể  
nghiệm còn dang dở.  
2.1.2. Sự không trùng khít giữa các mặt  
khác nhau của hình tượng con người  
trong tiểu thuyết  
M. Bakhtin cho rằng, “sự thay đổi định  
hướng trong thời gian và thay đổi khu vực  
xây dựng hình tượng không bộc lộ ở đâu  
sâu sắc và cơ bản bằng ở việc xây dựng  
lại hình tượng con người trong văn học”  
[1; 67]. Trong sử thi và các thể loại cao  
thượng khác, nhân vật được khắc họa theo  
nguyên tắc nguyên phiến, nhất tuyến và  
kì vĩ. Con người ấy có sự trùng khít tuyệt  
đối giữa phẩm chất và địa vị, bên trong  
và bên ngoài, lời nói và hành động. Hơn  
nữa, mọi khả năng và tiềm năng của nó  
đều được thể hiện đến cùng ở địa vị xã hội  
bề ngoài, ở số phận, thậm chí ngay ngoại  
hình của nó. Con người có địa vị như thế  
nào thì hành động như thế ấy, phù hợp với  
cương vị của mình. Suy nghĩ của nhân vật  
rất thuận chiều, đơn giản, không hề bị rơi  
vào trạng thái dằn vặt hay đấu tranh nội  
tâm. Nhân vật cũng không có quyền chủ  
động về tư tưởng và ngôn ngữ. Nó chỉ biết  
đến một thế giới quan và một thứ ngôn  
ngữ thống nhất, có sẵn, bắt buộc và không  
thể hồ nghi. Cả thế giới quan lẫn ngôn  
ngữ đều không thể trở thành những nhân  
tố cá thể hóa, phân biệt và cấu thành hình  
tượng con người. Quan niệm của nhân  
vật về mình hoàn toàn trùng hợp với quan  
niệm của những người khác về nó. Những  
đặc điểm này tạo ra vẻ đẹp vô song, tính  
thuần toàn, nguyên khối, trong suốt như  
pha lê và tính hoàn chỉnh nghệ thuật ở  
chính hình tượng con người ấy. Nhưng  
đồng thời, chúng cũng đẻ ra tính hạn hẹp,  
đơn điệu, thiếu sức trong những điều kiện  
sinh tồn mới của loài người. Đây cũng là  
Đó là nguyên nhân, cũng là sức mạnh  
khiến kết cấu tiểu thuyết có độ mở, độ  
lỏng lớn, hết sức tự do và thường xuyên  
biến đổi. Nó mềm mại, uyển chuyển với  
khả năng biến thiên khó đoán định, khác  
với khuôn hình nòng cốt rắn chắc của sử  
thi và các thể loại cao thượng khác. Tiểu  
thuyết không để cho bất cứ dạng thức nào  
của nó được ổn định nên bất cứ hình thức  
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020  
123  
Nhân vật tiểu thuyết có khả năng thích  
nghi nhanh với tiến trình cuộc sống luôn  
luôn biến đổi và thường xuyên xuất hiện  
trong những hình hài mới. Cốt truyện tiểu  
thuyết cũng vì thế không khai thác đến cạn  
kiệt con người như sử thi mà được cấu tạo  
hết sức tự do, là những cốt truyện - thử  
nghiệm đầy khiêu khích.  
những đặc điểm cấu trúc hình tượng phổ  
biến trong thần thoại và bi kịch.  
Trái lại, hình tượng trong tiểu thuyết  
được xây dựng dựa trên sự vênh lệch  
giữa số phận với địa vị và tính người, bên  
ngoài và bên trong, lời nói và hành động,  
khả năng và thực tế thực hiện khả năng,  
cảm xúc và suy nghĩ. Nhân vật tiểu thuyết  
thống nhất trong bản thân nó những đối  
cực: nhân tính và phi nhân, đạo lí và thất  
đức, bản ngã và phi ngã, ý thức và vô thức,  
cao cả và tầm thường… Một người có địa  
vị cao nhưng có thể hành vi lại hèn hạ,  
một người có địa vị thấp lại có thể hành  
động rất cao thượng. Chẳng hạn, Phó giáo  
chủ Nhà thờ Claude Frollo là một trí thức  
Thiên Chúa giáo có địa vị đáng kính với  
vẻ bề ngoài hào hoa phong nhã nhưng tâm  
hồn xấu xa với dục vọng đê hèn, hành  
động đáng khinh bỉ. Quasimodo có thân  
phận thấp kém với vẻ bề ngoài xấu xí, dị  
dạng nhưng đầy lòng tự trọng, tâm hồn  
cao thượng, hành động phi thường (Nhà  
thờ Đức Bà Pari - V. Huygô). Sự tự nhận  
thức của nhân vật về mình và của người  
khác về nó cũng thường không đồng nhất.  
Đây là “chất văn xuôi” tiêu biểu làm cho  
tiểu thuyết khác với truyện thơ, thơ trường  
thiên và sử thi. Nghĩa là, tiểu thuyết tái  
hiện cuộc sống với những chi tiết giống  
như thật, không thi vị hoá, lí tưởng hoá.  
Nhân vật của sử thi, bi kịch chỉ có một  
bộ mặt duy nhất gắn với số phận, địa vị  
của mình và chủ đề do số phận ấy quyết  
định. Nhân vật tiểu thuyết có thể hành  
động trong mọi thân phận, có mặt trong  
mọi tình huống mà không bao giờ có thể  
hóa thân đến cùng vào cái thân xác xã  
hội - lịch sử hiện hữu. Ở nó, bao giờ cũng  
tiềm tàng những khả năng chưa thành hiện  
thực và những đòi hỏi chưa được đáp ứng.  
Nhân vật trong sử thi, bi kịch, truyện  
trung đại thường là nhân vật hành động, nêu  
gương đạo đức. Nhân vật trong tiểu thuyết  
cũng hành động nhưng không theo chuẩn  
mực chung của xã hội mà theo kinh nghiệm  
riêng của cá nhân mình nên thường xuyên  
va vấp, suy tư, “nếm trải”. Trong kịch cũng  
có những “nhân vật nếm trải” như Prômêtê  
trong Prômêtê bị xiềng, Hămlet trong  
Hămlet, Rôđrigơ trong Lơxit… nhưng vì  
hạn chế của thời gian sân khấu, lại thiếu  
lời người trần thuật nên kịch không tái hiện  
trọn vẹn quá trình nếm trải nhiều mặt của  
nhân vật. Chính vì vậy, miêu tả thế giới  
bên trong, phân tích tâm lí là phương diện  
rất đặc trưng cho tiểu thuyết, mặc dù nói  
chung, loại văn học nào cũng không thể bỏ  
qua được khía cạnh tâm lí. Nhân vật tiểu  
thuyết liên tục nằm trong sự giao thoa giữa  
các luồng dư luận và trong trạng thái đấu  
tranh nội tâm căng thẳng. Nó có thể bị đánh  
lừa và mắc sai lầm bất cứ lúc nào. Giang  
Minh Sài (Thời xa vắng - Lê Lựu) là nhân  
vật điển hình cho “một đời lầm lẫn, một  
đời thất bại”. Sự “nếm trải” hay bi kịch của  
cuộc đời anh có mầm mống từ chính tính  
cách rụt rè, yếu đuối, nhu nhược của anh.  
Sài không đủ can đảm giẫm lên dư luận để  
được là mình, để đến với tình yêu đích thực.  
Kết quả là Sài tự chuốc lấy một bài học đau  
đớn: nửa đời đầu phải yêu cái người khác  
yêu, nửa đời sau ê chề vì chạy theo cái  
mình không có. Bởi đặc điểm này mà tiểu  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG  
124  
thuyết thường có cốt truyện phức tạp và kết  
cấu phức tạp. Nó chứa đựng bao nhiêu cái  
“thừa” so với truyện ngắn, truyện vừa trung  
đại. Trong các truyện ngắn, truyện vừa, tiểu  
thuyết đoản thiên, cốt truyện đóng vai trò  
chủ yếu cùng với nhân vật. Mọi yếu tố của  
tác phẩm đều được tổ chức sít sao với sự vận  
động của cốt truyện và tính cách, hầu như  
không có gì “thừa”, tất cả nằm trọn trong  
các liên hệ nhân quả. Ngược lại, trong tiểu  
thuyết, cái “thừa” ấy lại là cái chính yếu thể  
hiện thái độ của nhân vật và nhà văn về thế  
giới, về đời người (như sự phân tích cặn kẽ  
diễn biến tình cảm, trình bày cặn kẽ tiểu sử  
của nhân vật, những chi tiết về liên hệ giữa  
người với người, môi trường và toàn bộ tồn  
tại của cuộc sống…). Sự phá vỡ tính toàn  
vẹn sử thi (và cả bi kịch) cũng khiến con  
người trong tiểu thuyết có nhân tính phát  
triển phức tạp, được quyền chủ động về tư  
tưởng, ngôn ngữ và có tính cá thể hóa cao.  
Những lí do đó khiến kết cấu của tiểu  
thuyết vô cùng linh hoạt, uyển chuyển,  
vượt khỏi mọi khuôn khổ cứng nhắc. Khả  
năng khám phá của tiểu thuyết là không  
cùng, nó có thể đạt đến những sáng tạo bất  
ngờ, gây ngạc nhiên không chỉ với người  
đọc mà với chính nó và tác giả của nó  
giống như hiện tượng “nhân vật nổi loạn”  
trong chủ nghĩa hiện thực phê phán thế  
kỷ XIX. Nghĩa là nhà văn không thể chắc  
chắn sự phát triển về sau của tính cách  
nhân vật, cũng không chắc chắn về kết cục  
của nó và không thể xây dựng cho nó một  
kết cấu bằng bê tông, cốt thép ngay từ đầu.  
chế của tư duy phong cách học truyền  
thống. Ở đó, mỗi lời phát ngôn trực tiếp  
chỉ thể hiện một ý thức, một giọng điệu  
của người phát ngôn. Lời nói chỉ biết có  
mình, đối tượng của mình, sắc thái của  
mình và ngôn ngữ thống nhất, duy nhất  
của mình. Trên đường đến với đối tượng,  
lời nói trực tiếp chỉ vấp phải lực cản của  
bản thân đối tượng mà không vấp phải  
sự kháng cự của vô vàn những lời nói  
khác. Ngược lại, tiểu thuyết thâu tóm đối  
tượng trong trạng thái đa ngữ, trạng thái  
đã “được nói đến”, “được luận bàn” bởi  
những ý kiến trái ngược nhau. Vì thế, lời  
văn của tiểu thuyết được tổ chức theo  
nguyên tắc đối thoại. Nghĩa là, giọng điệu  
của người phát ngôn trong tiểu thuyết  
được tạo lập ở khu vực hoạt động phức tạp  
của những tiếng nói khác nhau theo những  
phong cách khác nhau về cùng một đối  
tượng. Giọng của người này có thể trung  
lập, đồng tình, phản đối, cật vấn hay lắng  
nghe giọng của người khác, thậm chí giễu  
nhại lại chính mình. Ngôn ngữ tiểu thuyết  
là cả một hệ thống ngôn ngữ có quan hệ  
đối thoại với nhau, hòa âm hoặc nghịch  
âm với nhau. Lời văn trong tiểu thuyết là  
lời được đối thoại hóa từ bên trong. Ngôn  
ngữ trong tiểu thuyết không chỉ được sử  
dụng như phương tiện miêu tả mà còn là  
đối tượng miêu tả. Nó tham gia vào môi  
trường đối thoại phức tạp nơi đối tượng  
những khía cạnh, những nội dung đã được  
ngôn từ xã hội ý thức và luận bàn, từ đó,  
mài dũa những đường nét, hàm nghĩa và  
phong cách của mình.  
2.1.3. Nguyên tắc đối thoại trong tổ chức  
ngôn ngữ tiểu thuyết và khả năng tổng  
hợp sức mạnh nghệ thuật của các thể loại  
văn học khác  
Thực tế, đối thoại là thuộc tính bản  
chất phổ biến của tư duy và ngôn ngữ.  
Nhưng chỉ ở tiểu thuyết, đặc tính đối thoại  
mới được tổ chức lại một cách nghệ thuật  
nhất tạo nên tính nhiều bè, nhiều giọng và  
Để xây dựng lý thuyết về ngôn ngữ  
tiểu thuyết, Bakhtin đã chỉ ra những hạn  
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020  
125  
đa thanh, phức điệu (tiểu thuyết của F.M.  
Dostoevski là một minh chứng điển hình).  
So sánh đặc điểm này với thơ ca, Bakhtin  
nhận định: ở các thể loại thi ca hiểu theo  
nghĩa hẹp, chất đối thoại tự nhiên của lời  
nói không được sử dụng với mục đích nghệ  
thuật, lời nói có tính độc lập tự thân. Trong  
các thể loại thơ thuần túy, những tiếng nói  
khác nhau nếu được đưa vào cũng chủ yếu  
qua lời của các nhân vật, chỉ với tư cách  
một vật được miêu tả chứ không phải với  
tư cách một ngôn ngữ khác mang theo  
những quan điểm riêng của nó. Ngược lại,  
trong tiểu thuyết, tính đối thoại trở thành  
một nhân tố hết sức cơ bản của phong  
cách văn xuôi và được gia công nghệ thuật  
một cách đặc thù. Nhà tiểu thuyết không  
chỉ tách mình khỏi ngôn ngữ của tác phẩm  
mình mà còn luôn có xu hướng lưỡng hóa  
bản thân để trao đổi, đối thoại. Các ngôn  
ngữ khác nhau bao gồm những ngôn ngữ  
xã hội khác nhau hoặc những tiếng nói cá  
nhân khác nhau được du nhập và tổ chức  
lại một cách nghệ thuật bằng những hình  
thức phong phú khác nhau trong những  
dạng thức tiểu thuyết khác nhau.  
Tiểu thuyết cũng là thể loại có khả  
năng tổng hợp nhiều nhất khả năng nghệ  
thuật của các thể loại văn học và du nhập  
vào kết cấu của mình cả các thể loại ngoài  
văn học. Sự định hướng mới về thời gian,  
khu vực tiếp xúc với đời sống đương đại  
và ngôn ngữ có tính đa thanh, phức điệu  
không chỉ tạo cho nội dung của tiểu thuyết  
một chiều sâu không đáy mà còn tạo ra  
một quan hệ đặc biệt giữa tiểu thuyết với  
các thể loại nghệ thuật hoặc phi nghệ  
thuật. Hơn nữa, những thể loại được du  
nhập vào tiểu thuyết vẫn thường giữ được  
tính co giãn về kết cấu và đem vào tiểu  
thuyết ngôn ngữ của mình làm phân hóa  
sự thống nhất ngôn ngữ tiểu thuyết và  
tạo chiều sâu mới cho tính phức âm trong  
ngôn ngữ tiểu thuyết. Ngay ở giai đoạn  
phát sinh, hình thành, tiểu thuyết đã dựa  
vào nhiều hình thái phi nghệ thuật trong  
sinh hoạt cá nhân và xã hội, đặc biệt là các  
thể văn chính luận, hùng biện. Ở các thời  
đại phát triển sau này, tiểu thuyết sử dụng  
rộng rãi và lắp ghép vào trong nó các hình  
thức thư từ, nhật kí, lời tự thú… Nhóm  
thể loại này đóng vai trò kết cấu tối quan  
trọng trong tiểu thuyết và đôi khi trực tiếp  
quyết định cả cấu trúc chỉnh thể của tiểu  
thuyết, tạo ra những dạng thức tiểu thuyết  
đặc biệt. Chúng không chỉ có thể được  
đưa vào tiểu thuyết như một bộ phận cấu  
trúc quan trọng, mà còn có thể quy định  
cả hình thức tiểu thuyết như một chỉnh thể  
(tiểu thuyết tự bạch, tiểu thuyết nhật ký,  
tiểu thuyết bằng thư, thậm chí đưa thơ vào  
tiểu thuyết như một dấu hiệu cấu thành  
thể loại). Chẳng hạn tiểu thuyết sử thi -  
tâm lí của L. Tolstoi (Chiến tranh và Hòa  
bình), tiểu thuyết - kịch của M. Proust (Đi  
tìm thời gian đã mất), tiểu thuyết thế sự -  
trữ tình của M. Gorki (Thời thơ ấu, Kiếm  
sống…), tiểu thuyết huyền thoại của G.  
Márquez… Mới đây ở Việt Nam là các tác  
phẩm Chuyện của thiên tài (Nguyễn Thế  
Hoàng Linh), Pari 11/8 (Thuận)…  
Trên đây là những đặc trưng kết cấu  
cơ bản khiến cho hình thức của tiểu thuyết  
khác biệt hoàn toàn về nguyên tắc không  
chỉ so với các thể loại thơ ca, sử thi, bi  
kịch … - nói chung là các thể loại tự sự  
ra đời trước nó trong quá trình dần dần  
chuyển hóa thành tiểu thuyết, mà cả các  
thể loại đang tồn tại cùng thời với nó.  
Điểm nổi bật nhất của kết cấu tiểu thuyết  
so với các thể loại này là tính năng động,  
mềm mại và uyển chuyển. Về mặt nào đó,  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG  
126  
ngoại trừ sử thi, bi kịch là hai thể loại đã  
“cốt hóa” từ lâu với bộ khung kết cấu bất  
di bất dịch, còn các thể loại khác ở thời  
hiện đại vẫn đang hình thành và chưa  
xong xuôi, tuy nhiên, ở tiểu thuyết, các  
khả năng tổng hợp và năng động lớn hơn.  
Những đặc điểm kết cấu này là hệ quả của  
tư duy tiểu thuyết xem thế giới như những  
gì đang trôi chảy không ngừng, phức tạp  
và đầy rẫy những điều phi lí, đối lập với tư  
duy một chiều của sử thi cố gắng sắp xếp  
những cái bề bộn, phức tạp của cuộc sống  
thành những cái tất yếu, gọn gàng, ổn  
định, dễ hiểu và hợp quy luật. Tất nhiên,  
những đặc điểm này được biểu hiện một  
cách khác nhau trong từng biến tướng thể  
loại khác nhau.  
Việt Nam, đến đầu thế kỉ XX người ta mới  
sử dụng thuật ngữ “tiểu thuyết” như Trung  
Quốc nhưng đồng thời vẫn sử dụng thuật  
ngữ truyện. Truyện dài, truyện vừa, truyện  
ngắn hoàn toàn đồng nghĩa với các thuật  
ngữ trường thiên tiểu thuyết, trung thiên  
tiểu thuyết, đoản thiên tiểu thuyết. Tuy  
vậy, thuật ngữ “truyện” có cội nguồn sử  
học và phát triển từ thời trung đại. Thuật  
ngữ “tiểu thuyết” tuy mượn từ Trung Quốc  
nhưng mang nội hàm hiện đại của thể loại  
văn học châu Âu. Trong tiếng Việt hiện  
đại, người ta dùng thuật ngữ “tiểu thuyết”  
để chỉ tác phẩm truyện có qui mô lớn,  
còn quy mô nhỏ và vừa vẫn gọi là truyện.  
Truyện ngắn được hiểu “là hình thức tự sự  
cỡ nhỏ, chủ yếu phát triển trong khoảng  
150 năm gần đây” [4; 315]. Lịch sử của  
truyện ngắn cũng trải qua nhiều giai đoạn.  
Truyện ngắn trung đại rất gần với truyện  
vừa, khác hẳn truyện ngắn hiện đại.  
2.2. Kết cấu đặc trưng của tiểu thuyết so  
với truyện ngắn  
Xét về nguồn cội, cả tiểu thuyết và  
truyện ngắn đều thuộc cùng một loại hình  
văn học là truyện. Trải qua nhiều giai đoạn  
lịch sử khác nhau với những tên gọi khác  
nhau và phạm vi nội hàm khác nhau, khái  
niệm tiểu thuyết hiện đại được sử dụng  
như ngày nay mới ra đời. Ở Trung Quốc,  
đến cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX mới có  
khái niệm tiểu thuyết hiện đại, gọi là tiểu  
thuyết trường thiên, tiểu thuyết trung thiên,  
tiểu thuyết đoản thiên. Sau đó chúng được  
truyền vào Việt Nam và được dịch: đoản  
thiên tiểu thuyết là truyện ngắn, trường  
thiên tiểu thuyết là truyện dài, trung thiên  
tiểu thuyết là truyện vừa. Ở phương Tây,  
người Anh dùng từ “story” chỉ truyện  
ngắn, “novel” chỉ các tiểu thuyết mới lạ,  
tân kì, tiểu thuyết trường thiên. Người  
Pháp gọi tiểu thuyết là “roman”, nhấn  
mạnh tính chất li kì. Người Mĩ gọi tiểu  
thuyết là “fiction”, nhấn mạnh tới tính chất  
tưởng tượng, hư cấu của câu chuyện. Ở  
Ở đây, chúng tôi đối sánh đặc trưng  
kết cấu của tiểu thuyết so với truyện ngắn  
hiểu theo khái niệm hiện đại về chúng.  
Như trên đã phân tích, mọi đặc trưng  
kết cấu của tiểu thuyết đều bắt nguồn từ  
khu vực tiếp xúc tối đa của nó với đời sống  
đương đại đang tiếp diễn. Nhưng truyện  
ngắn gần với tiểu thuyết hơn cả cũng bởi  
nội dung phản ánh cuộc sống đương đại.  
Truyện ngắn cũng là một thể loại năng  
động và có tính thời sự. Gắn với cái “hôm  
nay” thường xuyên biến đổi, truyện ngắn  
cũng ít bị ràng buộc bởi những quy tắc,  
luật lệ đã định hình. Khuôn khổ của truyện  
ngắn vẫn thường xuyên vỡ ra để xác lập  
sự tồn tại mới. Nội dung của truyện ngắn  
có thể rất khác nhau: đời tư, thế sự, hay  
sử thi nhưng cái độc đáo của nó là ngắn.  
Tuy vậy, truyện ngắn không phải là tiểu  
thuyết ngắn hay một “truyện dài” thu nhỏ.  
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020  
127  
được mở ra qua chiều rộng của không gian  
cũng như chiều dài của thời gian. Một tác  
phẩm tiểu thuyết có thể bao quát hiện thực  
trong nhiều khoảng không gian và thời gian  
khác nhau (như Tây du ký của Ngô Thừa  
Ân) nên kết cấu của nó thường phức tạp.  
Ngược lại, truyện ngắn chỉ thể hiện cuộc  
đời và số phận con người qua những lát cắt  
ngắn ngủi. Không gian trong truyện ngắn  
thường chỉ thu hẹp trong một quán rượu,  
mộtlàngquê, mộtkhuvườn, mộtgiađình…  
nào đó (như không gian phố huyện nghèo  
trong Hai đứa trẻ của Thạch Lam). Thời  
gian trong truyện ngắn thường là khoảng  
thời gian tiêu biểu nhất được nhà văn lựa  
chọn, kéo căng và thể hiện (như năm ngày  
cuối cùng trong cuộc đời Chí Phèo trong  
tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao). Trong  
không gian và thời gian rộng lớn, một tác  
phẩm tiểu thuyết có thể cùng lúc giải quyết  
trọn vẹn nhiều vấn đề, nhưng với giới hạn  
về dung lượng, truyện ngắn không thể đặt ra  
và giải quyết cùng lúc nhiều vấn đề. Người  
viết truyện ngắn thường chỉ chọn một vấn  
đề và tổ chức kết cấu làm sao để vấn đề ấy  
được hiện lên một cách nổi bật nhất, sâu  
sắc nhất (như bi kịch của người trí thức có  
ước mơ cao xa nhưng bị cuộc sống áo cơm  
ghì sát đất trong Đời thừa của Nam Cao).  
Vì vậy, kết cấu của truyện ngắn thường có  
độ nén và độ tinh xảo cao, nhỏ gọn mà có  
sức chứa lớn. Xét riêng từng trường hợp thì  
không phải lúc nào cũng có sự khác biệt  
này. Nhất là trong sáng tác hiện đại, hậu  
hiện đại, nhiều tiểu thuyết đã đi xa khỏi  
điểm nhận dạng này như một minh chứng  
cho khả năng biến thiên không ngừng của  
thể loại. Chẳng hạn trong tác phẩm Lâu đài  
của F. Kafka, không gian chỉ bó hẹp từ mấy  
quán rượu trong làng đến tòa lâu đài, thời  
gian cũng chỉ có mấy ngày. Trong tác phẩm  
Thoạt kỳ thủy của Nguyễn Bình Phương,  
Truyện ngắn có hình thức và cách cấu tạo  
đặc biệt riêng khác hẳn với tiểu thuyết.  
Chúng là hai thể loại khác nhau, có kết cấu  
khác nhau. Tuy nhiên, để giải quyết triệt để  
vấn đề này phải có một công trình dài hơi  
chuyên biệt. Chúng tôi chỉ nhấn mạnh đến  
vài điểm khái quát nhất nhằm làm rõ hơn  
đặc trưng kết cấu của tiểu thuyết. Hơn nữa,  
đó chỉ là những điểm cơ bản, thường thấy  
trong tiểu thuyết và truyện ngắn nói chung  
trên cái nhìn đại cục, chưa tính đến những  
trường hợp ngoại lệ. Cũng có thể nói, đó là  
những điểm thường thấy trong mô thức tự  
sự truyền thống và các sáng tác thời kỳ tiền  
hiện đại. Ngày nay, sự phát triển của hai  
thể loại này đã và đang tiến đến sự xâm lấn  
lãnh thổ của nhau, sự phân biệt chúng trở  
nên khó khăn hơn, nhất là về phương diện  
kết cấu. Sau đây là những điểm cơ bản:  
1) Cùng hướng đến phản ánh cuộc sống  
đương đại nhưng với khuôn khổ rộng lớn,  
tiểu thuyết có thể tổ chức kết cấu đơn tuyến  
hay đa tuyến (như Chiến tranh và Hòa bình  
của L. Tolstoi), đơn giản hay phức tạp,  
nhiều nhân vật, nhiều sự kiện (như Giông  
tố của Vũ Trọng Phụng)… Trong vòng  
mấy chục trang hay vài nghìn từ trở xuống,  
truyện ngắn chủ yếu xây dựng kết cấu xoay  
quanh một sự kiện, một tình huống được  
coi là cơ bản nhất (như sự kiện anh phu xe  
- ngựa người bắt được món khách “hời” là  
ả gái điếm - người ngựa vào đêm 30 Tết  
trong Ngựa người, người ngựa của Nguyễn  
Công Hoan). Nhiệm vụ cốt yếu của người  
viết truyện ngắn là phải tính toán, tổ chức  
các yếu tố làm sao để sức gợi từ kết cấu  
tác phẩm toát lên một cách độc đáo nhất, đi  
vào lòng người nhất.  
2) Cùng có khả năng chuyển tải các vấn  
đề của thời đại một cách nhanh nhạy, tinh  
tế, nhưng ở tiểu thuyết, hiện thực thường  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG  
128  
không gian chỉ quanh quẩn trong một xóm  
Soi với bãi Nghiền Sàng gần bờ sông Linh  
Nham, thời gian chỉ dồn trong 12 tiếng…  
Ngược lại, một số truyện ngắn như Số phận  
một con người của M. Cholokhov, Phiên  
chợ Giát của Nguyễn Minh Châu, Bước  
qua lời nguyền của Tạ Duy Anh… không  
tái hiện cuộc sống qua những khoảnh khắc  
mà suốt cả chiều dài của đời người, kiếp  
người, “không nấp “trong khe hẹp nhìn ra”  
mà là những cái nhìn trực diện và toàn cục”  
[3; 27]. Dù vậy, xét trên tổng thể thì độ  
“rộng” của tiểu thuyết vẫn lớn hơn.  
3) Điểm nữa là kết cấu của tiểu thuyết  
và truyện ngắn đều có tính linh hoạt. Đây  
cùng là hai thể loại rất năng động, tự do  
trong xây dựng hình tượng, trong bố cục,  
trong lựa chọn cách mở đầu và kết thúc  
tác phẩm, cả hai cùng có tính đa thanh  
trong giọng điệu và ngôn ngữ. Tuy nhiên,  
những đặc điểm này ở tiểu thuyết được thể  
hiện một cách ưu trội hơn, nổi bật hơn.  
Mặt khác, trong mô thức tự sự truyền  
thống, tính đa phức, đa tầng trong tiểu  
thuyết thường được thể hiện qua những  
mối quan hệ phong phú, phức tạp giữa  
nhiều nhân vật, nhiều biến cố. Còn truyện  
ngắn thường chỉ thể hiện cuộc sống qua  
một nhân vật chính và tổ chức kết cấu tác  
phẩm từ các mối quan hệ qui tụ vào nhân  
vật này. Tiểu thuyết thường tập trung khai  
thác những kiểu loại nhân vật có thể cho  
phép nhà văn tái hiện khá toàn diện số  
phận một cá nhân với những thăng trầm,  
hạnh phúc, khổ đau. Còn truyện ngắn  
thường hướng chú ý đến những vấn đề  
nhạy cảm của cuộc sống qua những kiểu  
nhân vật chỉ xuất hiện với tư cách là nhân  
vật phụ trong tiểu thuyết như anh kéo xe,  
ả gái điếm, kẻ lang thang… Những nhân  
vật ấy thường là hiện thân cho một trạng  
thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc  
trạng thái tồn tại của con người. Chúng  
cũng ít khi được khắc họa nhiều mặt, đầy  
đặn như trong tiểu thuyết. Vì vậy, nếu  
nhân vật của tiểu thuyết thường là một thế  
giới thì nhân vật truyện ngắn là một mảnh  
nhỏ của thế giới. Cũng vì vậy, cốt truyện  
của truyện ngắn thường đơn giản hơn tiểu  
thuyết. Tuy vậy, đây không chỉ là giới hạn  
mà còn là ưu thế của truyện ngắn. Nếu  
xét trên phương diện thể loại (bao gồm  
nhiều tác phẩm) thì truyện ngắn không  
hề thua kém tiểu thuyết trong khả năng  
phản ánh hiện thực, trong xây dựng hình  
tượng con người đa bình diện, trong kết  
cấu năng động và uyển chuyển… nhưng  
so sánh từng tác phẩm thì những khả năng  
ấy ở tiểu thuyết lớn hơn, tiểu thuyết biến  
thiên mạnh hơn. Theo tác giả Trần Đình  
Sử, “kết cấu trong tiểu thuyết chủ yếu là  
tổ chức điểm nhìn và trật tự sự kiện để đưa  
người đọc đi vào thế giới nghệ thuật của  
nhà văn, là xác lập quan hệ giữa người kể  
chuyện với nhân vật và với người đọc…  
Khác với truyện kể cổ đại và trung đại chủ  
yếu sử dụng người kể toàn tri, một giọng,  
tiểu thuyết hiện đại đã sử dụng điểm nhìn  
đa dạng và linh hoạt…” [4; 309]. Còn  
kết cấu của truyện ngắn “thường là một  
sự tương phản, liên tưởng. Bút pháp trần  
thuật thường là chấm phá. Yếu tố có ý  
nghĩa quan trọng bậc nhất của truyện ngắn  
là chi tiết có dung lượng lớn và hành văn  
mang ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều  
sâu chưa nói hết” [4; 317].  
Ngoài ra, do khuôn khổ của mình,  
truyện ngắn cũng ít có khả năng đưa vào  
trong kết cấu tác phẩm những yếu tố ngoài  
cốt truyện như lời nói đầu và cuối của tác  
giả, các đoạn trữ tình ngoại đề, những  
đoạn phụ đề, những bức tranh phong  
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020  
129  
cảnh… Còn ở tiểu thuyết, những yếu tố  
đó là vô cùng phong phú.  
từ nhiều công trình khoa học và thực tiễn  
sáng tác. Thiết nghĩ, việc làm này cũng  
chỉ là một hạt cát nhỏ góp thêm vào chặng  
đường dài dặc chưa từng có dấu hiệu hứa  
hẹn về điểm dừng. Nó vẫn đòi hỏi nhiều  
công phu, tâm lực, trí lực và bút lực từ các  
nhà khoa học.  
Những đặc trưng kết cấu trên làm cho  
hình thức của tiểu thuyết đạt đến trình độ  
phát triển cao nhất trong các thể loại văn  
học tự sự.  
3. KẾT LUẬN  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
Là thể loại văn chương duy nhất đang  
biến chuyển và còn chưa định hình, tiểu  
thuyết không bao giờ dừng lại ở những  
khuôn khổ có sẵn. Đến nay, tiểu thuyết vẫn  
“đương là một hiện tượng động, khó nắm  
bắt và hiện đại mới mẻ” [2]. Nó luôn phát  
triển, kiếm tìm và gắn liền với sự phá vỡ  
chính mình để vươn tới khả năng tự biểu  
hiện, phản ánh dường như vô tận. Tìm ra  
bộ khung kết cấu bất di bất dịch cho tiểu  
thuyết là điều không thể. Hiểu được lí  
luận uyên bác của M. Bakhtin cũng không  
mấy dễ dàng. Những đặc trưng kết cấu mà  
bài viết chỉ ra được đúc rút có bổ sung từ  
những thành quả lí luận về thể loại, chủ  
yếu và trước hết là lí luận của M. Bakhtin,  
kết hợp thêm những kiến giải sinh động  
1. M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi  
pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư dịch và  
giới thiệu, Bộ Văn hóa thông tin và Thể  
thao trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.  
2. Đặng Anh Đào (1995), Đổi mới  
nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện  
đại, NXB Giáo dục, Hà Nội.  
3. Nhiều tác giả (1999), Nghệ thuật  
truyện ngắn và ký, Tạ Duy Anh chủ biên,  
NXB Thanh niên, Hà Nội.  
4. Trần Đình Sử (chủ biên) (2008),  
Lí luận văn học, Tập 2, NXB Đại học Sư  
phạm, Hà Nội.  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG  
130  
pdf 11 trang Hứa Trọng Đạt 09/01/2024 320
Bạn đang xem tài liệu "Từ lí luận của M. Bakhtin đi tìm kết cấu đặc trưng của tiểu thuyết", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdftu_li_luan_cua_m_bakhtin_di_tim_ket_cau_dac_trung_cua_tieu_t.pdf