Ứng dụng lý thuyết liên văn bản trong việc dạy học ngữ văn
DHTH & DHPH ở trường trung học đáp ứng yêu cầu đổi mới CT và SGK sau năm 2015
Ứng dụng lý thuyết liên văn bản
trong việc dạy học ngữ văn
ThS. Nguyễn Nhật Huy *
Tóm tắt
Liên văn bản là một trong những lý thuyết trọng tâm của thế kỉ XX. Nó đã mở ra
một quan niệm mới về văn bản và cách tiếp cận văn bản. Văn bản giờ đây không còn là
một thể độc lập, bó hẹp nữa mà mở rộng ra vô tận với trường liên tưởng của người đọc.
Phần 1: sơ lược về khái niệm Liên văn bản
Phần 2: hạn chế và giải pháp trong việc ứng dụng Liên văn bản
Bài viết muốn thông qua việc tìm hiểu các quan niệm về Liên văn bản để chỉ ra
những hạn chế và giải pháp trong việc dạy học ngữ văn trong nhà trường:
Phần 3: ứng dụng lý thuyết vào dạy học tác phẩm “Đời thừa” của nhà văn Nam Cao.
Văn học và nghệ thuật luôn vận động phát triển không ngừng theo dòng chảy của
lịch sử. Ở mỗi thời đại, người đọc, người học lại có những con đường riêng để khám phá
giá trị của tác phẩm văn học. Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu lý thuyết văn
học phương Tây ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Các vấn đề lý luận mà
trước thời kì Đổi mới bị lãng quên nay được các nhà nghiên cứu xem xét lại một cách
khách quan và khoa học. Tuy nhiên, những thành tựu đó lại chưa thật sự được vận dụng
phổ biến vào dạy học ngữ văn trong nhà trường. Với bài viết này, tôi muốn thử mạnh dạn
áp dụng lý thuyết văn học phương Tây mà cụ thể là Liên văn bản vào việc giảng dạy trong
các cấp học. Bài viết này thử nghiên cứu việc áp dụng một trong những lý thuyết mới của
văn học phương Tây vào việc dạy học Ngữ văn trong nhà trường phổ thông ở Việt Nam.
Đó là lý thuyết về Liên văn bản.
1. Vài nét về lý thuyết Liên văn bản
Liên văn bản là một khái niệm được sử dụng rộng rãi nhất trong giới phê bình văn
học thế giới nửa cuối thể kỉ XX và những năm đầu thế kỉ XXI. Có thể nói việc phát hiện
ra liên văn bản đã tạo nên một cuộc “cách mạng” trong tư duy văn học, thay đổi một cách
mạnh mẽ các quan niệm về văn chương.
Với tầm ảnh hưởng như vậy, liên văn bản được xem là hướng tiếp cận khả quan
không chỉ trong văn học mà còn có thể vận dụng vào phê bình các lĩnh vực nghệ thuật
khác nhau như: điện ảnh, âm nhạc...
* Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên
225
DHTH & DHPH ở trường trung học đáp ứng yêu cầu đổi mới CT và SGK sau năm 2015
Cho đến nay, văn bản được dùng với nhiều phạm vi, góc độ khác nhau. Với nghĩa
thông thường, văn bản là tên gọi chỉ những tài liệu, bài viết được in ấn, lưu hành hàng
ngày trong giao tiếp (một bài báo, một công văn, một tập tài liệu, một quyết định,…). Với
nghĩa là một thuật ngữ ngôn ngữ học, văn bản là một trong những đơn vị phức tạp, có
nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau. Cùng với quan niệm như vậy về văn bản, phê
bình văn học trước đây coi tác giả trở thành người “độc sáng”, là “đấng quyền năng” chi
phối toàn bộ tác phẩm của mình. Trên “hòn đảo” văn bản đó, nhà văn là một “vị chúa”
sáng tạo nên tất cả, còn người đọc với tác phẩm chỉ giữ vai trò tiếp nhận thụ động. Việc
tiếp cận văn bản đơn chiều như vậy làm cho ý nghĩa của tác phẩm bị hạn chế, có phần
cứng nhắc, làm mất đi nhiều giá trị hàm ẩn của nó.
Với sự ra đời của khái niệm liên văn bản về cơ bản chúng ta có thể hiểu: Chiều
ngang (chủ thể - người nhận) và chiều dọc (văn bản – văn cảnh) cùng hiện diện: mỗi từ
(văn bản) là một giao tuyến của từ (các văn bản) nơi mà ít nhất một từ khác (văn bản
khác) có thể đọc được. Kristeva quy cho văn bản trong giới hạn của hai trục: một trục
ngang kết nối giữa tác giả và người đọc văn bản, và một trục dọc được kết nối giữa văn
bản với các văn bản khác.
Như vậy, Kristeva trong công trình “ ord, Dialogue and Novel” (Từ, đối thoại và
tiểu thuyết) tuyên bố rằng mỗi văn bản được bắt đầu dưới quyền lực của những cuộc đối
thoại. Quan niệm về liên văn bản nhắc chúng ta mỗi văn bản luôn tồn tại trong mối quan
hệ với những văn bản khác, với người đọc và tác giả. Nó tạo thành một chuỗi bất tận và
văn bản trở nên vô biên trong sự ám chỉ đó.[34,7]
Từ sự phân tích ở phần trên, chúng ta có thể định nghĩa ngắn gọn: Liên văn bản là
liên kết các văn bản trong một văn bản qua sự sáng tạo và tiếp nhận của người đọc với
tính đối thoại một cách ý thức hay vô thức.
2. Hiện trạng và giải pháp ứng dụng lý thuyết Liên văn bản trong dạy học Ngữ
văn
Trở lại với vấn đề ứng dụng Liên văn bản trong giảng dạy văn học, chúng ta có thể
nhận ra rằng:
Thứ nhất, việc dạy văn của Việt Nam từ xưa đã có sử dụng lý thuyết này nhưng đó
là sự sử dụng không ý thức và chỉ dừng ở một cấp độ nào đó. Trong các cấp độ của Liên
văn bản có yếu tố trích dẫn và người dạy khi làm một thao tác so sánh hay mượn ý của
một bài bình giảng là đã ít nhiều thực hiện thao tác Liên văn bản. Nhưng như vậy là còn
quá ít ỏi so với tầm vóc của lý thuyết này. Hạn chế ở đây chính là người dạy vẫn quan
niệm về văn bản theo lối cũ coi tác phẩm là một thể độc lập.
Thứ hai, khi Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương lấy người học làm trung tâm là đã
đánh giá cao vai trò của người học cũng như người đọc. Có lẽ, điều này giống với quan
điểm: “Tác giả đã chết” của R.Bather [5] – một trong những nhà nghiên cứu thành công
trong tìm hiểu Liên văn bản. Tuy nhiên để làm sao người đọc trở thành trung tâm thì
chúng ta vẫn chưa thực hiện được một cách triệt để. Thậm chí vẫn áp đặt cách hiểu, cảm
nhận văn chương cho người học. Lý thuyết về Liên văn bản phải chăng sẽ giải quyết được
vấn đề này?
226
DHTH & DHPH ở trường trung học đáp ứng yêu cầu đổi mới CT và SGK sau năm 2015
Thứ ba, việc áp dụng công nghệ thông tin với những tranh ảnh, clip trong dạy học
văn ở Việt Nam được cho là không hiệu quả bởi chúng ta quan niệm nó là phương tiện.
Điều này khiến cho việc sử dụng nó có phần cứng nhắc. Nhưng theo quan điểm của các
nhà Liên văn bản, một bức tranh, một đoạn phim, webgame…đều được coi là một văn
bản. Thống nhất được vấn đề này, chúng ta có thể thấy việc ứng dụng công nghệ thông tin
vào quá trình dạy học có lẽ sẽ chất lượng hơn.
Để giải quyết ba vấn đề trên, người viết thử đưa ra một số cách giải quyết như sau:
Thứ nhất, với việc trích dẫn, so sánh, liên hệ trong dạy học Ngữ văn cần thực hiện
theo phương pháp Liên văn bản một cách có ý thức và khoa học hơn. Liên văn bản khẳng
định: mỗi văn bản khi đi vào tiếp nhận sẽ kéo theo hàng loạt những văn bản khác tùy
thuộc vào hiểu biết và văn hóa của người đọc. Trong việc dạy học ngữ văn ở Việt Nam,
người dạy thường liên hệ, so sánh với các tác phẩm khác nhằm nâng cao tính hấp dẫn của
bài giảng cũng như khắc sâu tri thức cho người học. Nhưng sự mở rộng ấy chỉ nằm ở một
vài câu hay chi tiết của tác phẩm được dạy mà chưa có sự hệ thống trên cơ sở khảo sát
những văn bản một cách kĩ lưỡng.
Thứ hai, để người học thực sự trở thành trung tâm, tích cực chủ động trong học tập
thì không phải chỉ đơn giản là coi nhẹ vai trò của người dạy. Theo điều tra thực tế thì đa
phần các giáo viên, giảng viên hiện nay thực hiện chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo
bằng việc cho học sinh, sinh viên thảo luận mà công việc này cũng chưa thực hiện được
một cách hiệu quả. Lý thuyết liên văn bản cho thấy việc “khai sinh ra người đọc” [5] là để
tạo nên tính đối thoại giữa tác giả - người đọc. Mỗi người đọc sẽ tạo ra cho mình một văn
bản phái sinh. Thực tế cho thấy chúng ta chưa tôn trọng quy tắc này. Người dạy vẫn bình
giảng, phân tích rồi đưa ra cho người học một cách hiểu. Người học thuộc từng ý rồi viết
vào bài thi. Giám khảo lại đếm ý chấm điểm. Vậy “sáng tạo đã chết” mà không có dấu vết
của đối thoại hay tính tích cực chủ động. Ngay cả việc thảo luận thì người giáo viên cũng
giữ chức năng quản lý, kiểm tra chứ không có sự trao đổi như nguyên tắc đối thoại nêu
trên. Chúng ta cũng cần lưu ý là không có chân lý tuyệt đối theo quan niệm hậu hiện đại.
Việc tôn trọng người học hơn thay vì áp đặt cảm thụ suy nghĩ mới chính là chìa khóa cho
chủ trương lấy người học làm trung tâm.
Thứ ba, vấn đề sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học hiện này nay đối với
ngành văn cũng chưa thật sự hiệu quả bởi quan niệm coi nó là phương tiện khoa học chứ
không phải một văn bản. Như đã nói ở trên, lý thuyết liên văn bản đã mở rộng nội hàm
của khái niệm văn bản. Văn bản không chỉ là một trang giấy, một cuốn sách mà có thể là
một bản nhạc, một bức tranh, thậm chí một webside…Quan niệm về văn bản thực sự trở
nên linh hoạt hơn với sự ra đời của internet. Với internet, văn bản của chúng ta sẽ được
phân chia thành các đơn vị với những đường kết nối, hoặc có thể chứa đựng một dãy các
văn bản nối với nó qua các đường dẫn. Người đọc có thể nhanh chóng đọc tác phẩm chỉ
thông qua một thao tác bấm vào đường dẫn ấy, có thể đọc bất cứ đoạn nào của tác phẩm
một cách dễ dàng. Các văn bản dạng này được xem là siêu văn bản (hypertext). Để giải
quyết vấn đề này chúng ta nên thay đổi cách nghĩ về nó. Xem nó là một văn bản trong
chuỗi liên văn bản với tác phẩm đang giảng dạy sẽ góp phần mở rộng ý nghĩa cũng như
cảm thụ cho người học. Thực tế cũng cho thấy, nghiên cứu các lĩnh vực hiện nay đều theo
227
DHTH & DHPH ở trường trung học đáp ứng yêu cầu đổi mới CT và SGK sau năm 2015
xu thế tích hợp. Văn học không còn chỉ đóng khung trong phạm vi của nó mà được liên
kết với âm nhạc, hội họa, điện ảnh, kiến trúc… Chưa nói đến vấn đề có tăng thêm nhiều ý
nghĩa cho tác phẩm hay không nhưng chắc chắn sẽ hấp dẫn hơn nhiều so với trước kia.
3. Ứng dụng
Vì khuôn khổ bài viết có hạn nên ở đây người viết chỉ có thể ứng dụng một cách sơ
lược nhất lý thuyết Liên văn bản vào tác phẩm văn học mà cụ thể là tác phẩm “Đời thừa”
của nhà văn Nam Cao. Để thực hiện điều đó, tôi muôn triển khai văn bản theo các bước
liên tưởng từ gần đến xa sau đó phát hiện vấn đề và giải quyết:
Bước 1: Mở trường liên tưởng gần, tức là gắn văn bản “Đời thừa” với những tác
phẩm cùng chủ đề về người trí thức băn khoăn đi tìm lẽ sống của nhà văn. Chúng ta sẽ
được chuỗi văn bản như sau:
Đời thừa
Trăng sáng
Sống mòn
Trên cơ sở cho người học tiếp xúc văn bản, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra nhân vật
Hộ, Điền, Thứ cùng một kiểu người trí thức băn khoăn đi tìm lẽ sống. Các nhân vật này
đều được tác giả xây dựng gần giống nhau. Qua việc đối chiếu so sánh, người dạy hướng
dẫn cho người học phát hiện ra các thủ pháp cũng như quan niệm nghệ thuật của ông. Sự
đối thoại giữa các văn bản sẽ làm nổi bật lên tính vấn đề của thời đại và những băn khoăn,
chiêm nghiệm của tác giả về cuộc đời và con người
Bước 2: Chuyển dịch thời gian về quá khứ hay mở rộng trường liên tưởng về văn
học giai đoạn trước. Khi các văn bản được đặt trong môi trường, thời điểm văn hóa khác
nhau thì ý nghĩa sẽ khác nhau. Vấn đề sẽ xuất hiện. Chúng ta không thể phát hiện ra vấn
đề khi chỉ bó hẹp phạm vi tác phẩm. Liên kết văn bản “Đời thừa” với các tác phẩm văn
học trung đại, người dạy sẽ đặt ra vấn đề: tại sao ở các giai đoạn trước của văn học Việt
Nam không có kiểu nhân vật trí thức băn khoăn tìm lẽ sống. Các nhân vật trong văn học
trung đại đa phần là kiểu người của trung, hiếu, tiết, nghĩa, trung quân ái quốc. Như vậy,
người dạy đã tạo nên một liên văn bản mới:
Văn hóa trung
Văn hóa hiện đại
Đời thừa
đại
(Lưu ý: Liên văn bản quan niệm mỗi nền văn hóa cũng là một văn bản)
Khi đối chiếu, so sánh tìm điểm tương đồng khác biệt các văn bản với nhau, tính vấn
đề sẽ bộc lộ và người dạy sẽ dẫn dắt người học giải quyết nó. Văn học trung đại sở dĩ
không có kiểu nhân vật này bởi sự khác nhau về quan niệm, cái nhìn về thế giới. Nếu thời
trung đại, con người coi vũ trụ là sự hài hòa thiên – địa – nhân hợp nhất, mọi thứ đều toàn
vẹn hài hòa thì thời hiện đại với sự đô thị hóa, sự xâm lấn của văn hóa nước ngoài… thế
giới được xem như là những mảnh vỡ. Người viết nhận thấy các bài giảng ngữ văn hiện
nay về tác phẩm đều chỉ nói sự băn khoăn, đau khổ của Hộ, Điền, Thứ là do cảnh mất
nước, do “cơm áo không đùa với khách thơ”. Theo quan điểm của tôi, như vậy người dạy
chưa lý giải được bản chất của vấn đề bởi thời trung đại, những trí thức cũng sống trong
228
DHTH & DHPH ở trường trung học đáp ứng yêu cầu đổi mới CT và SGK sau năm 2015
cảnh nghèo đói, cũng có giai đoạn bị mất nước nhưng đâu có kiểu người băn khoăn vì lẽ
sống, đi tìm chân lý. Để lý giải sâu xa hơn thì nguyên nhân chính là sự biến động văn hóa,
thay đổi các thang giá trị khiến con người trở nên lạc lõng.
Bước 3: Chuyển dịch văn bản về thời hiện tại (thời điểm tương lai so với khi tác
phẩm ra đời). Có thể thấy bước thứ 3 này rất cần thiết và là thiếu hụt trong việc dạy văn
hiện nay. Các tác phẩm văn học được giảng dạy không trả lời những câu hỏi đời sống hiện
tại nhiều mà chỉ như “ngôi đền linh thiêng để người ta nhìn ngắm”. Chính nó là một trong
những lí do khiến cho học sinh thờ ơ với việc học văn. Văn học là cuộc sống, nếu không
gắn nó với đời sống thực tiễn thì thì chúng ta chỉ còn lại những giá trị đã chết. Việc
chuyển dịch văn bản về thời hiện tại cũng phù hợp với lý thuyết tiếp nhận. Người đọc mỗi
thời đại đều có cách cảm thụ, kiến giải văn bản riêng. Điều đó tạo nên sức sống cho tác
phẩm. Thực hiện thao tác này, người dậy trên cơ sở liên kết với các tác phẩm văn học
đương đại có thể có chuỗi văn bản sau:
Đời thừa
Con gái thủy thần
Đàn trời
(Nam Cao)
(Nguyễn Huy
Thiệp)
(Cao Duy
Sơn)
Mẫu số để tạo nên chuỗi liên tưởng này cũng là kiểu nhân vật tìm kiếm lẽ sống, bị
lưu đày trong tâm hồn. Cả ba nhân vật Hộ (Đời thừa), Chương (Con gái thủy thần), Thức
(Đàn trời) đều có những điểm tương đồng. Họ bị ám ảnh bởi những cuộc kiếm tìm, suy tư,
đau khổ, chiêm nghiệm nhằm tìm ra chân lý, lẽ sống cuộc đời mình. Vấn đề là tại sao lại
có sự tương đồng đó trong khi ba tác phẩm này được ra đời cách nhau một khoảng thời
gian khá dài. Lý giải điều này người dạy cần đối chiếu cho người học thấy hoàn cảnh ra
đời của cả ba tác phẩm. Thời điểm ra đời đều là mốc biến động giá trị văn hóa. Sự biến
động khi những giá trị cũ đang mai một và sự tấn công của văn minh đô thị, văn hóa
phương Tây. Sự dở dang giữa cũ và mới tạo nên kiểu người “dang dở”, băn khoăn giữa cũ
và mới, giữa một thế giới của những mảnh vỡ, giữa những lựa chọn: tình yêu – tiền bac,
văn chương – nhân cách, tha hóa – giữ mình… Trên cơ sở phân tích đó chúng ta sẽ mở
rộng văn bản trong trường liên tưởng, làm sống lại những giá trị tưởng đã cũ, mang lại
cho người học những khám phá thú vị trong tư thế chủ động tích cực, đặt tác phảm vào
trạng thái “động”, tức là gắn được văn chương vào đời sống.
Trên đây chỉ là nghiên cứu bước đầu về việc ứng dụng của lý thuyết liên văn bản
vào quá trình dạy học Ngữ văn trong nhà trường. Chúng tôi rất mong sự đóng góp, trao
đổi ý kiến của các nhà nghiên cứu và độc giả để có thể hiểu sâu sắc hơn và vận dụng hiệu
quả hơn vấn đề này trong quá trình dạy học Ngữ văn./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Graham Allen (2000), Intertextuality, Routledge,London tr 133-143, tr 95-115
2. M. Bakhtin (2003), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư dịch), Nxb.
Hội nhà văn, Hà Nội.
3. M. Bakhtin (1993), Những vấn đề thi pháp tiểu thuyết Doxtoiepxki, Nxb GD, HN.
229
DHTH & DHPH ở trường trung học đáp ứng yêu cầu đổi mới CT và SGK sau năm 2015
4. R. Barthes (1997), Độ không của lối viết (Nguyên Ngọc dịch), Nxb. Hội nhà văn,
Hà Nội.
6. Umberto Eco (2004), Đi tìm sự thật biết cười, Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội
7. Julia Kristeva (1986), “ ord, Dialogue and Novel” trong The Kristeva Reader,
Toril Moi (ed. 1986), New Work: Columbia University Press, p.37
8. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Chủ biên) (2009), Từ điển thuật
ngữ văn học, Nxb GD, Hà Nội.
9. Lucie Guillemette và Josiane Cossette (2011), Giải cấu trúc và khái niệm trì biệt
(Nguyễn Duy Bình dịch), Lyluanvanhoc.com.
10. Nguyễn Nam (2010), Điểm qua mấy hướng tiếp cận liên văn bản ngoài nước,
lyluanvanhoc.com.
11. Nguyễn Văn Thuấn, Liên văn bản, từ Mikhail Bakhtin đến Julia Kristeva, Kỷ
yếu hội thảo Chủ nghĩa hậu hiện đại – Lý luận và tiếp nhận, ĐHKH Huế, 03/2011.
230
Bạn đang xem tài liệu "Ứng dụng lý thuyết liên văn bản trong việc dạy học ngữ văn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- ung_dung_ly_thuyet_lien_van_ban_trong_viec_day_hoc_ngu_van.pdf