Vài giải pháp căn cơ để cải thiện hoạt động của cố vấn học tập ở các trường đại học, cao đẳng tại Việt Nam
VÀI GIẢI PHÁP CĂN CƠ ĐỂ CẢI THIỆN HOẠT ĐỘNG CỦA CỐ VẤN
HỌC TẬP Ở CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG TẠI VIỆT NAM
Lê Tuấn Sơn1
1. Thực trạng
Theo lộ trình bắt buộc của Bộ Giáo dục và Đào tạo (Bộ GD&ĐT), kể từ sau năm
2010, các trường Đại học-Cao đẳng trong cả nước đã đồng loạt chuyển đổi sang học
chế tín chỉ (HCTC). Gần 5 năm qua, chỉ một số ít trường (phần lớn trong số trường
này đã áp dụng HCTC trước đó vài năm) gọi là đã đạt được một số kết quả khả quan
theo những điểm ưu việt (trên lý thuyết) của học chế này mang lại như: sinh viên (SV)
chủ động và chất lượng hơn trong hoạt động học tập của mình, giảng viên (GV) năng
động hơn trong vai trò chủ đạo - hướng dẫn SV, các cấp quản lý và khối hành chính
trong trường thì buộc phải nâng tính chuyên nghiệp hơn lên để “phục vụ khách hàng”
SV. Còn lại, phần đông các trường đều lúng túng và gặp nhiều khó khăn, do đó vẫn
còn loay hoay với bao nhiêu thứ bất cập cần cải thiện mà một trong những thứ đó là
công tác cố vấn học tập (CTCVHT).
Nhìn chung, các trường đều chỉ ít nhiều dừng lại mức dễ thấy được tầm quan
trọng của CTCVHT (bởi nó là một mắc xích quan trọng giữa nhà trường – SV - xã hội
trong quá trình đào tạo theo tín chỉ) mà chưa thấy được hậu quả rõ ràng khi không làm
tốt CTCVHT. Nên tùy vào tình hình cụ thể mà các trường đều đã sớm hoặc muộn chỉ
trang bị tối thiểu (chứ không đầu tư bỏ công sức vào) một số cơ sở làm nền tảng cho
CTCVHT được hoạt động, chẳng hạn như: Ban hành quy định- quy chế CVHT, xây
dựng đội ngũ CVHT các cấp, phát hành sổ tay CVHT… Do đó, theo chúng tôi, việc
trang bị này chưa thực chất, chưa tương xứng với vai trò vốn có của CTCVHT nên
chưa mang lại kết quả như mong đợi.
Qua tìm hiểu và quan sát thực tế “vừa làm vừa rút kinh nghiệm” ở nhiều trường,
chúng tôi thấy được một số vấn đề chung như sau:
Thứ nhất, Bộ GD&ĐT đã dꢀng cụm từ “cố vấn học tập” trong Quy chế đào tạo
đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ (trang 5, 6). Và tên gọi này đã
được không ít trường “tiếp thu linh hoạt” theo cách riêng và tự quy định chức năng,
nhiệm vụ cũng theo cách riêng.
Về tên gọi, ngoài “CVHT”, một số trường đã dꢀng “giảng viên cố vấn
(GVCV)”, “giảng viên CVHT”, “giáo viên cố vấn”, có trường trước dꢀng “CVHT”
1 TS – Trường Đại học Ngoại ngữ - Tin học TP. HCM
82
sau lại đổi thành “GVCV”, có trường dùng cùng lúc cả hai tên gọi này… những tên
gọi khác nhau như trên xuất phát từ đối tượng được bổ nhiệm làm CVHT khác nhau:
có trường chọn GV, có trường chọn chuyên viên hành chính, có trường chọn cả hai
đối tượng này.
Về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nói chung, có trường xem công tác CVHT
như công tác giáo viên chủ nhiệm (GVCN) trước đây, có trường kết hợp công tác cố
vấn/tư vấn với công tác GVCN.
Với tình hình trên, nếu nhìn từ góc độ vĩ mô, một mặt nó thể hiện “tính địa
phương”, tính nội bộ của từng trường; một mặt nó cho thấy sự thiếu chuẩn mực, thiếu
tính nhất quán-liên thông trong một công tác quan trọng cần sự chuyên nghiệp như
CVHT. Bộ GD&ĐT cần phải quan tâm đến hiện trạng này.
Thứ hai, CVHT tại các trường đều là công tác kiêm nhiệm. Mặt khác, có sự bất
hợp lý giữa quy định với hoạt động thực tế của CVHT. CVHT theo quy định tại các
trường thì có quá nhiều đầu việc mà nếu thực hiện đầy đủ thì họ sẽ bị quá tải và bất
khả thi(do vượt quá khả năng, năng lực, kiến thức của người được giao làm CVTH)
trong khi những nhiệm vụ đó lại bị trùng lắp với công việc của cán bộ, chuyên viên
hành chính ở các phòng ban chức năng, văn phòng các khoa trong trường. Điều đó
dẫn đến một thực tế là: nhiều thắc mắc của SV thay vì gặp CVHT (muốn gặp CVHT
phải hẹn trước) để được hướng dẫn chuyên nghiệp hơn thì SV chọn liên hệ với
chuyên viên khoa, phòng, ban để được giải đáp cho nhanh. Từ đó, cộng với nhiều vấn
đề bất cập khác, hình ảnh và vai trò của CVHT dần dần mờ nhạt đi trong suy nghĩ của
SV, trong mắt đồng nghiệp cꢀng lãnh đạo và trong ngay cả chính họ. Đây là một thực
trạng nội tại nan giải ở hầu hết các trường.
Theo chúng tôi, hai hiện trạng trên rất phổ biến, đồng thời cũng chính là nguyên
nhân cơ bản dẫn đến sự bất cập cần được cải thiện trong CTCVHT hiện nay.
2. Giải pháp
Chúng tôi đưa ra một số giải pháp có thể xem như những gợi ý để các đơn vị
liên quan tham khảo.
Đối với Bộ GD&ĐT, nên nghiên cứu, ban hành văn bản nhằm thống nhất tên
gọi, chức năng, nhiệm vụ cơ bản cho CTCVHT, tiêu chuẩn-quyền lợi-quyền hạn tối
thiểu cho người được giao nhiệm vụ CVHT.
Về tên gọi, theo chúng tôi, nếu không có tên gọi nào hay hơn, phꢀ hợp với tình
hình Việt Nam hiện tại thì nên thống nhất dùng một thuật ngữ “cố vấn học tập”. Bởi
cụm từ này vừa bao hàm được chức năng cố vấn/tư vấn/hướng dẫn đặc trưng của công
83
tác này vừa để ngỏ được đối tượng (có thể là GV, cán bộ quản lý, chuyên viên,
chuyên gia…) làm CTCVHT do các trường, các đơn vị chọn phù hợp với tình hình
nhân lực, vật lực, tài lực của mình miễn sao đáp ứng được yêu cầu công việc hiệu quả.
Về chức năng, nhiệm vụ, nên quy định rõ chức năng chính và quan trọng nhất là
tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn, gợi mở cho SV trong quá trình học tập và rèn luyện chứ
không phải làm thay, áp đặt, quyết định thay SV. (đây là điểm khác với vai trò GVCN
trước đây).
Về tiêu chuẩn, tối thiểu phải tốt nghiệp đại học, nhất thiết phải trải qua khóa
huấn luyện CTCVHT.
Về quyền lợi, quyền hạn, phải tương xứng với công sức CVHT, tạo động lực,
tạo điều kiện tốt nhất để CVHT thoải mái làm việc đạt hiệu quả như mong đợi.
Có thống nhất được những thứ cơ bản trên mới mong có được sự đồng loạt-đồng
thời, đồng bộ-đồng lòng một cách có hệ thống mang tính xuyên suốt, liên thông xâu
chuỗi được từ trên Bộ xuống dưới các trường, từ trường này đến trường kia.
Đối với các trƣờng, phải tuân thủ theo quy định của Bộ, vì đó là những vấn đề
căn bản tối thiểu bắt buộc. Còn lại, tꢀy vào đặc thù tình hình thực tế của mình, các
trường hoàn toàn có thể tự thêm vào những nội dung phù hợp sao cho CTCVHT ngày
càng thực chất góp phần xứng đáng vào kết quả đào tạo tốt đẹp cho trường mình.
Nhân đây, chúng tôi cũng muốn gợi mở ba phương hướng sau để những trường
có quan tâm, cân nhắc.
1) CVHT theo thế mạnh công việc: là CTCVHT mà nội dung các nhiệm vụ
được chia theo mảng công việc phù hợp với sở trường chuyên môn của người được
giao nhiệm vụ. Ví dụ: giao mảng công việc tư vấn SV thực hiện quy chế, quy định về
học vụ của Bộ, trường cho chuyên viên phòng đào tạo; giao mảng công việc áp dụng
chương trình đào tạo, đề cương môn học, đăng ký môn học/học phần, thi cử… cho
chuyên viên khoa, tổ trưởng bộ môn…; giao nhiệm vụ hướng dẫn, định hướng cho SV
phương pháp tự học, kỹ năng thu thập và xử lý tài liệu, thông tin…cho GV đứng lớp ở
từng môn học/ học phần; …
Với hướng này chúng tôi cho rằng:
YÊU CẦU
ĐIỂM MẠNH
ĐIỂM YẾU
- Trường phải ban hành quy - Thế mạnh từng CVHT được Nhiệm vụ CVHT
phát huy > hiệu quả thấy rõ.
chế, quy định CTCVHT thật
cụ thể- rõ ràng, nhất là trách
bị phân tán > khó
84
đánh giá.
nhiệm của từng đơn vị liên - CVHT chủ động được thời
quan trong trường.
gian, địa điểm, nội dung > dễ
làm hài lòng SV.
- Khoa, phòng, ban, bộ môn
phải phân công và giám sát - Chi phí đào tạo- tập huấn
thường xuyên CTCVHT cho CTCVHT ít đi do tận dụng
từng GV, chuyên viên cụ được chuyên môn, sở trường
thể.
thế mạnh của từng CVHT.
- Tập huấn định kỳ nhằm - Khắc phục được tình trạng
cập nhật tình hình mới, trao bất hợp lý, bất khả thi, công
đổi kỹ năng, kinh nghiệm ở việc quá tải, nhiệm vụ trùng
từng mảng công việc.
lắp kể trên như hiện nay tại
các trường.
- Phụ cấp trách nhiệm phải
tương xứng.
2) CVHT tập trung theo chức danh: là hình thức đang áp dụng hiện nay của các
trường, trong đó mọi nhiệm vụ CTCVHT đều tập trung vào một GV hay một chuyên
viên được bổ nhiệm.
Với hướng này chúng tôi thấy:
YÊU CẦU
ĐIỂM MẠNH
ĐIỂM YẾU
- Trường phải ban hành quy chế- - Nhiệm vụ tập trung - Nhiệm vụ CVHT
quy định CTCVHT thật cụ thể- vào một đối tượng > dễ bị phân tán > khó
đánh giá, dễ quản lý.
đánh giá.
rõ ràng, nhất là tiêu chí- tiêu
chuẩn CVHT và phải có quyết
định kèm danh sách CVHT toàn
trường.
- CVHT theo dõi được - Chi phí đào tạo-
tình hình học tập của SV tập huấn CTCVHT
một cách toàn diện.
nhiều lên.
- Khoa, phòng, ban, bộ môn phải
hỗ trợ và kiểm tra thường xuyên
CTCVHT thuộc đơn vị mình.
- Dễ gây tình trạng
công việc CVHT
quá tải và nhiệm vụ
- Tập huấn định kỳ nhằm cập
nhật tình hình mới, trao đổi kỹ
năng, kinh nghiệm ở từng đơn vị
hoặc toàn trường.
trùng
lắp
giữa
CTCVHT và nhiệm
vụ các đơn vị liên
quan.
85
- Phụ cấp trách nhiệm phải
tương xứng.
- SV phải tìm hiểu trước mọi
quy định, quy chế, quy trình liên
quan trước khi liên hệ với
CVHT.
3) CVHT chuyên trách, độc lập: là mô hình mà CTCVHT được chuyên môn
hóa thành một đơn vị hành chính (có thể là phòng hoặc ban) trong đó có trưởng đơn vị
và các chuyên viên phụ trách từng mảng nhiệm vụ được quy định.
Với hướng này chúng tôi nghĩ:
YÊU CẦU
ĐIỂM MẠNH
ĐIỂM
YẾU
- Trường phải đạt chuẩn Đảm - Nhiệm vụ tập trung vào một Gần
bảo chất lượng giáo dục do cơ một đơn vị chuyên nghiệp > dễ không
quan kiểm định độc lập chứng đánh giá, dễ quản lý, hiệu quả. điểm yếu.
nhận. - Nhiệm vụ chính yếu là tư
như
có
- Trường phải có hệ thống quản vấn/hướng dẫn được phát huy
lý chất lượng đạt chuẩn và liên tối đa do chất lượng trong quá
tục được cải tiến do cơ quan độc trình học tập của SV cao
lập chứng nhận.
(CVHT chỉ hướng dẫn/ hỗ trợ
- SV toàn trường phải tự giác khi SV thật sự cần đến.)
thực hiện mọi trách nhiệm, - Khắc phục được tình trạng bất
nghĩa vụ SV và ứng dụng thành hợp lý, bất khả thi, công việc
thạo công nghệ thông tin vào quá tải, nhiệm vụ trùng lắp kể
quá trình học tập.
trên như hiện nay tại các trường.
- Tin học hóa, số hóa, hệ thống
hóa toàn trường, trong đó,
Website trường là nơi có đầy đủ
mọi hệ thống trao đổi thông tin-
liên lạc.
- CVHT phải chuyên nghiệp, có
trình độ chuyên môn cao, kỹ
năng điêu luyện.
86
3. Kết luận
Theo chúng tôi, trước khi muốn “nâng cao vai trò” của CVHT trong tình hình
hiện nay, trước tiên, chúng ta phải quyết tâm bằng mọi giá cải thiện tình hình, đầu tư
nhân lực, vật lực, tài lực nhằm đưa CTCVHT vào hoạt động thực chất, có tác động rõ
rệt vào chất lượng SV được thể hiện ở từng học kỳ, năm học và toàn khóa học. Trong
quá trình cải thiện này, rất cần sự quan tâm điều tiết của Bộ; sự liên thông, trao đổi
kinh nghiệm giữa các trường (như cuộc hội thảo này); sự đồng bộ hợp tác giữa các
đơn vị liên quan trong nội bộ từng trường; và quan trọng hơn cả là sự chuyên nghiệp,
chuyên tâm của từng cán bộ CVHT.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ GD&ĐT (2007), Quy chế học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng
và trung cấp chuyên nghiệp hệ chính quy.
2. Bộ GD&ĐT (2007), Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ
thống tín chỉ.
3. Trường đại học Cần Thơ (2011), Tập kỷ yếu Hội nghị Nâng cao vai trò Cố vấn
học tập.
4. Trường Đại học Ngoại ngữ-Tin học TP.HCM, 2014, Tập bài tham luận Tọa
đàm “Nâng cao vai trò của Giảng viên cố vấn trong đào tạo tín chỉ.
5. Trần Thị Minh Đức, Kiều Anh Tuấn (2012), Cố vấn học tập trong các trường
đại học, Tạp chí khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012)
23-32.
6. Trường Đại học Kinh tế (ĐHQGHN) (2011), Quy định Công tác Cố vấn học
tập tại Trường Đại học Kinh tế-ĐHQGHN.
87
Bạn đang xem tài liệu "Vài giải pháp căn cơ để cải thiện hoạt động của cố vấn học tập ở các trường đại học, cao đẳng tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- vai_giai_phap_can_co_de_cai_thien_hoat_dong_cua_co_van_hoc_t.pdf