Đánh giá tác động của một số yếu tố tự nhiên và nhân sinh đến ngập lụt Thành phố Hồ Chí Minh

BÀI BÁO KHOA HỌC  
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA MỘT SỐ  
YẾU TỐ TỰ NHIÊN VÀ NHÂN SINH ĐẾN NGẬP LỤT  
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH  
Huỳnh Lưu Trùng Phùng1, Nguyễn Kỳ Phùng1, Lê Thị Hiền2  
Tóm tắt: Thành phố Hồ Chí Minh (Tp. HCM) có hệ thống sông rạch dày đặc, rất thuận lợi cho  
giao thông thủy và cảnh quan sông nước, nhưng lại có trở ngại lớn về ngập và tiêu thoát nước. Đây  
là một đô thị thường xuyên bị tác động của triều cường, mưa lớn vào mùa mưa, hệ thống thoát nước  
lạc hậu đang trong quá trình cải tạo khiến ngập lụt thường xảy ra trên diện rộng. Tình trạng này  
gây nhiều thiệt hại đến đời sống, của cải, sinh hoạt của người dân cũng như ảnh hưởng đến quá trình  
phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Để có cái nhìn tổng quan trong những năm gần đây, Bài  
báo đã đánh giá chi tiết các yếu tố tự nhiên (mưa, triều, nước biển dâng) và các yếu tố nhân sinh  
(nhấn mạnh vào quá trình đô thị hóa) đến vấn đề ngập lụt của thành phố. Kết quả phân tích đã cho  
thấy được nguyên nhân chính là do mưa vượt tần suất xuất hiện ngày càng nhiều, triều ngày càng  
dâng cao dưới tác động của biến đổi khí hậu và tốc độ đô thị hóa của khu vực nghiên cứu quá nhanh  
cũng như việc quy hoạch hệ thống cống thoát nước chưa phù hợp với điều kiện hiện tại. Kết quả của  
nghiên cứu cũng đã góp phần làm cơ sở đề xuất một số giải pháp hỗ trợ giải quyết tình trạng ngập  
úng tại Tp. HCM.  
Từ khóa: Ngập lụt, Triều cường, Biến đổi khí hậu, Đô thị hóa.  
Ban Biên tập nhận bài: 12/06/2019 Ngày phản biện xong: 12/07/2019 Ngày đăng bài:25/08/2019  
1. Mở đầu  
nghẽn lâu đang tạo ra những rào cản khó khăn  
cho chương trình chống ngập trong nhiều năm  
qua. Mặc dù là một trong những trung tâm văn  
hóa, giáo dục quan trọng cũng như đóng vai trò  
là kinh tế mũi nhọn của cả nước, thế nhưng Tp.  
HCM lại phải đối đầu với vấn đề ngập lụt trong  
những năm gần đây, ảnh hưởng đến hình ảnh  
cũng như vẻ đẹp của thành phố.  
Theo thống kê so sánh các điểm ngập nặng do  
triều cường của trung tâm chống ngập, vào năm  
2008, thành phố có 95 điểm ngập nặng do triều và  
ó xu hướng giảm dần từ năm 2009 - 2011 lần lượt  
là 40, 26, 10 điểm. Thế nhưng đến năm 2013,  
mặc dù đã xử lý được 9 điểm ngập nhưng lại phát  
sinh thêm đến 21 điểm ngập mới [4].  
Thành phố Hồ Chí Minh (Tp. HCM) nằm  
trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ  
và Đồng bằng sông Cửu Long với địa hình thấp  
dần từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông.  
Hơn nữa, thành phố nằm trong vùng ảnh hưởng  
của triều trong thời kỳ gió mùa Tây Nam (từ  
tháng 5 tới tháng 11) và chịu ảnh hưởng lớn từ  
tác động của biến đổi khí hậu nhất là khi nước  
biển dâng cao. Với vị trí nằm ở vùng hạ lưu sông  
Sài Gòn - Đồng Nai, giáp biển Đông và với  
khoảng 60% diện tích có cao độ từ 1,5 m trở  
xuống nên thành phố thường xuyên phải đối diện  
với vấn đề ngập, đặc biệt mỗi khi triều cường  
dâng cao nếu không có giải pháp phòng chống  
hiệu quả. Ngoài ra, theo trung tâm chống ngập,  
cốt nền của khá nhiều vị trí của thành phố không  
đồng đều cùng với hệ thống thoát nước bị tắc  
Hơn nữa, trung tâm Quản lý nước và Biến  
Đổi Khí Hậu tại Trung tâm Điều hành chương  
trình chống ngập nước thành phố với chủ đề Quy  
1Sở Khoa học và Công nghệ TP. HCM  
2Viện Khoa học và Công nghệ Tính toán  
Email: kyphungng@gmail.com  
TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN  
Số tháng 08 - 2019  
8
BÀI BÁO KHOA HỌC  
hoạch tích hợp để kiểm soát ngập Tp. HCM đã một phần Tây Bắc (thuộc Bắc huyện Củ Chi,  
có đề cập đến vấn đề diễn biến mực nước có xu Đông Bắc quận Thủ Đức và quận 9), với dạng  
hướng tăng liên tục. Mực nước tại trạm Phú An địa hình lượn sóng, độ cao trung bình 10 - 25m  
trước đây chỉ ở khoảng 1,2 - 1,3m nhưng đến và xen kẽ có những đồi gò độ cao tới 32m, như  
năm 2012 đã lên đến 1,5m và thậm chí chạm đến đồi Long Bình (Quận 9).  
mức 1,6m dẫn đến các công trình chống ngập sẽ  
bị lạc hậu.  
- Vùng thấp trũng ở phía Nam-Tây Nam và  
Đông Nam thành phố (thuộc các quận 9, 8, 7 và  
Vấn đề này đã được người dân Thành phố, các huyện Bình Chánh, Nhà Bè, Cần Giờ). Vùng  
các nhà khoa học và chính quyền hết sức quan này có độ cao trung bình trên dưới 1m và cao  
tâm, đầu tư, nghiên cứu nhằm tìm ra giải pháp nhất 2m, thấp nhất 0,5m.  
giảm ngập cho Thành phố. Hiện nay, Thành phố  
đã và đang có rất nhiều công trình được chính  
quyền đầu tư xây dựng phục vụ công tác chống  
ngập, các công trình này đã phần nào phát huy  
được tác dụng nhưng vẫn chưa hoàn toàn khắc  
phục được vấn đề ngập của Thành phố. Khi triển  
khai xây dựng các công trình chống ngập theo  
quy hoạch được phê duyệt, thực tế phát sinh  
những vấn đề như sau: Thiếu kinh phí để thực  
hiện hoàn tất các công trình theo quy hoạch; Tốc  
độ đô thị hóa nhanh chóng và không kiểm soát  
được, dẫn đến kênh rạch của Thành phố bị san  
lấp; Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu; Ý thức của  
người dân trong việc bảo vệ môi trường, xả rác  
thải không đúng quy định góp phần gây tắc  
nghẽn hệ thống thoát nước; …  
- Vùng trung bình, phân bố ở khu vực Trung  
tâm Thành phố, gồm phần lớn nội thành cũ, một  
phần các quận 2, Thủ Đức, toàn bộ quận 12 và  
huyện Hóc Môn. Vùng này có độ cao trung bình  
5 - 10m.  
Phạm vi nghiên cứu được trình bày như hình 1.  
Để làm sáng tỏ những vấn đề trên, Bài báo đã  
dựa vào những số liệu quan trắc thực tế để đánh  
giá phân tích những nguyên nhân chính gây ra  
ngập, từ đó là cơ sở đề xuất một số giải pháp hỗ  
trợ chống ngập tại Tp. HCM.  
2. Khu vực nghiên cứu  
Nằm ở miền Nam Việt Nam, khu vực nghiên  
cứu cách Hà Nội 1.730km theo đường bộ, trung  
tâm thành phố cách bờ biển Đông 50km theo  
đường chim bay.  
Hình 1. Khu vực nghiên cứu  
3. Số liệu và phương pháp nghiên cứu  
3.1. Số liệu  
Với vị trí tâm điểm của khu vực Đông Nam  
Á, Tp. HCM là một đầu mối giao thông quan  
trọng về cả đường bộ, đường thủy và đường  
hàng không, nối liền các tỉnh trong vùng và còn  
là một cửa ngõ quốc tế.  
Địa hình khu vực nghiên cứu có thể chia  
thành 3 tiểu vùng nhỏ như sau:  
Số liệu dùng để phân tích đánh giá bao gồm:  
+ Số liệu mưa các trạm tại Tp. HCM (giai  
đoạn 1986 - 2014) để đánh giá tần suất xuất hiện  
các trận mưa lớn;  
+ Mực nước (1980 - 2015) tại các trạm Phú  
An, Nhà Bè, Vũng Tàu phục vụ đánh giá xu thế  
biến đổi mực nước [3];  
- Vùng cao nằm ở phía Bắc - Đông Bắc và  
+ Bản đồ sử dụng đất của TP. HCM phục vụ  
TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN  
Số tháng 08 - 2019  
9
BÀI BÁO KHOA HỌC  
đánh giá quá trình đô thị hóa tại khu vực nghiên Đồng Nai, Sài Gòn, Vàm Cỏ, có nhiều cửa xâm  
cứu [2].  
nhập nước vào Thành phố. Kết quả phân tích  
cho thấy các nguyên nhân chính ngập ở Tp.  
HCM là do mưa, triều, mực nước dâng, tổ hợp  
mưa kết hợp triều cường, lũ thượng nguồn và sự  
phát triển đô thị hóa.  
4.1. Do mưa  
a. Xu thế biến đổi lượng mưa  
Xu thế biến đổi lượng mưa năm trạm Cần  
Giờ, trạm Tân Sơn Hòa qua các giai đoạn được  
thể hiện như hình 2 và hình 3.  
3.2. Phương pháp nghiên cứu  
Phương pháp thu thập và phân tích các số  
liệu, dữ liệu trong quá khứ là phương pháp  
chính trong bài báo. Nghiên cứu sử dụng  
phương pháp tổng hợp phân tích số liệu kết hợp  
với hệ thống thông tin địa lý (GIS) xây dựng,  
đánh giá các loại bản đồ phân loại đô thị - phi đô  
thị, bản đồ mặt nước và không phải mặt nước.  
4. Kết quả phân tích, đánh giá  
Tp. HCM được bao bọc bởi 3 hệ thống sông  
Hình 2. Xu thế biến đổi lượng mưa năm trạm Cần Giờ qua các giai đoạn  
Hình 3. Xu thế biến đổi lượng mưa trạm Tân Sơn Hòa qua các giai đoạn  
Kết quả phân tích, thống kê số liệu cho thấy: (tốc độ giảm khoảng 2mm/năm).  
- Giai đoạn 1986 - 2014: Lượng mưa trung  
- Giai đoạn 1986 - 2005: Lượng mưa trung bình  
bình có xu hướng tăng tại trạm Cần Giờ có xu hướng tương đồng với giai đoạn tổng, tăng  
(25,3mm/năm) và giảm tại trạm Tân Sơn Hòa ở trạm Cần Giờ và giảm ở trạm Tân Sơn Hòa.  
TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN  
Số tháng 08 - 2019  
10  
BÀI BÁO KHOA HỌC  
- Giai đoạn 2005 - 2014: Những năm gần đây, trên 100mm  
hầu như lượng mưa đều có xu hướng tăng, tốc  
độ tăng ở khoảng 20mm/ năm (trạm Cần Giờ) và  
18.5mm/năm (trạm Tân Sơn Hòa).  
- Năm 2002 - 2014: Xuất hiện 29 trận mưa  
trên 100mm. Trong đó riêng từ 2011 - 2014 đã  
có 12 trận mưa trên 100mm làm quá tải hệ thống  
thoát nước [5].  
b. Mưa lớn vượt tần suất thiết kế  
Theo Quy hoạch tổng thể thoát nước Tp.  
HCM đến năm 2020 Ban hành kèm theo Quyết  
định số 752/QĐ-TTg ngày 19 tháng 6 năm 2001  
của Thủ tướng Chính phủ, tần suất thiết kế hệ  
thống thoát nước tương ứng với mưa có vũ lượng  
trong 3 giờ là 95,91mm (kênh, rạch); 85,36mm  
(cống cấp 2); 75,88mm (cống cấp 3), mực nước  
triều +1,32m.  
4.2. Do triều  
Chế độ triều của tuyến sông Sài Gòn thể hiện  
ở hình 5 cho thấy trạm Dầu Tiếng sau chân đập  
có mặt cắt sông nhỏ nên khá phụ thuộc vào dòng  
xả tràn của hồ Dầu Tiếng, tại trạm này có chân  
và đỉnh của mực nước lên khá cao (H= 478cm  
khi xả với lưu lượng là 600m3/s vào năm 2000)  
ảnh hưởng trên sông Sài Gòn đến gần cửa Láng  
The (huyện Củ Chi).  
Theo số liệu thống kê trong vòng 40 năm:  
- Năm 1962 - 2001: Xuất hiện 09 trận mưa  
ꢄꢅꢃꢆꢇ  
ꢀꢁꢂ  
Hình 4. Tần suất xuất hiện mưa trên 100mm  
Hình 6 thể hiện mực nước đỉnh triều, chân kỳ này.  
triều và đường xu thế tương ứng của 7 trạm cơ  
bản (Thời kỳ 1990 - 2011):  
Thành phố Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng trực  
tiếp của thủy triều xâm nhập từ Biển Đông thông  
+ Mực nước đỉnh triều: ở các trạm đều có xu qua hệ thống sông Sài Gòn - Đồng Nai và sông  
hướng tăng trong thời kỳ gần đây, đặc biệt tăng Vàm Cỏ Đông.  
cao nhất là các trạm Bến Lức, Phú An, Thủ Dầu  
Một, Nhà Bè đều có hệ số đường xu thế cao hơn  
1. Trong khi Trạm biển Vũng Tàu hệ số tăng chỉ  
0.1829.  
Trong 27 năm (từ 1980 đến 2007) liên tục  
đỉnh triều duy trì ở mức dưới báo động III (+1,50  
m) tại trạm Phú An. Tuy nhiên, từ năm 2008 đến  
năm 2010 đỉnh triều ở mức cao trên báo động  
+ Mực nước chân triều: Trên các trạm ở khu cấp III và chạm mức +1,68m (vượt báo động III  
vực giữa của hạ du và ra đến Biển như Phú An, 0,18m) vào năm 2013 và năm 2014. Số ngày  
Nhà Bè, Vũng Tàu mực nước thấp nhất có xu triều có mực nước từ 1,50m trở lên ngày càng  
hướng rút xuống thấp hơn và hệ số đường xu thế xuất hiện nhiều hơn (trong 04 năm từ 2011 đến  
âm (<0) nhất là trạm Nhà Bè với hệ số góc 2014 đã xuất hiện 76 lần, tăng 506,67% so với  
đường xu thế là a = -1.6776) thể hiện rỏ sự rút 15 lần xuất hiện trong 04 năm từ 2006 đến 2010)  
sâu của mực nước thấp nhất hàng năm trong thời (Hình 7).  
TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN  
Số tháng 08 - 2019  
11  
BÀI BÁO KHOA HỌC  
Hình 5. Biến trình mực nước tháng tại các mặt cắt tuyến  
Vũng Tàu - Nhà Bè - Phú An - Thủ Dầu Một  
Hình 6. Biến trình mức nước đỉnh (Hmax ) và (Hmin ) các trạm cơ bản hạ du sông Đồng Nai  
4.3. Ảnh hưởng mực nước dâng  
Hình 9 thể hiện rõ biến động của mực nước  
cực đại tại trạm Phú An, mực nước có xu thế  
tăng ở cả hai giai đoạn 1980 - 1999 và 2000 -  
2015, tốc độ tăng mạnh (1.8mm/ năm) vào thời  
kỳ sau.  
Theo số liệu mực nước thống kê trong 35 năm  
(từ năm 1980 - 2015) tại trạm Phú An cho thấy  
mực nước cực đại, trung bình và cực tiểu đều có  
xu thế tăng (Hình 8).  
TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN  
Số tháng 08 - 2019  
12  
BÀI BÁO KHOA HỌC  
Hình 7. Biểu đồ đỉnh triều và tần suất xuất hiện  
Hình 8. Xu thế biến đổi mực nước (cm) trạm Phú An giai đoạn 1980 - 2015  
Hình 9. Xu thế biến đổi mực nước cực đại (cm) trạm Phú An giai đoạn 1980 - 2015  
TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN  
Số tháng 08 - 2019  
13  
BÀI BÁO KHOA HỌC  
4.4. Tổ hợp mưa kết hợp triều cường  
lũ từ hệ thống sông Mê Kông thông qua sông  
Vàm Cỏ Đông. Năm 2000, hồ Dầu Tiếng xả lũ  
với lưu lượng 600m3/s và năm 2008 xả lũ với lưu  
lượng 400m3/s đã gây ngập những nơi có cao  
trình thấp thuộc địa bàn huyện Củ Chi, Bình  
Chánh, Hóc Môn và Quận 12.  
Trong thời gian từ năm 2007 trở về trước, rất  
ít xuất hiện tổ hợp bất lợi mưa lớn xuất hiện cùng  
lúc triều lên cao, nhưng trong 04 năm gần đây  
(2011 - 2014), tổ hợp bất lợi mưa kết hợp triều  
cường xuất hiện nhiều hơn và mưa diễn ra trên  
diện rộng so với cùng kỳ các năm trước (từ năm  
2008 đến 2010 chỉ xuất hiện 03 lần tổ hợp bất  
lợi, nhưng từ năm 2011 đến 2014 xuất hiện 17  
lần, tăng 466,67%).  
4.6. Đô thị hóa  
Hiện nay Tp. HCM có 13 quận nội thành, 6  
quận mới và 5 huyện ngoại thành. Việc điều  
chỉnh các đơn vị hành chính và thành lập các  
quận qua từng thời kỳ là điều minh chứng cho  
tiến trình đô thị hóa diễn ra tốc độ cao ở Tp.  
HCM. Có thể nhìn thấy khá rõ việc hình thành  
khu đô thị cũng như khu đô thị hóa trước và sau  
thời gian năm 1997 qua bảng 2.  
4.5. Lũ thượng nguồn  
Thành phố Hồ Chí Minh nằm hạ du sông Sài  
Gòn và Đồng Nai nên chịu ảnh hưởng xả lũ trực  
tiếp của Hồ Dầu Tiếng (thượng nguồn sông Sài  
Gòn) và Hồ Trị An (thượng nguồn sông Đồng  
Nai). Ngoài ra, thành phố còn chịu tác động của  
Bảng 1. Tốc độbiến đổi (cm/năm) mực nước trạm Phú An qua các giai đoạn  
ꢅꢆꢇꢆꢀꢈꢉꢃꢊ  
ꢋꢌꢍꢎꢀꢏꢀꢋꢌꢌꢌ  
ꢎꢘꢍꢋꢙꢀ  
ꢁꢂꢃꢄꢀ  
ꢅꢆꢇꢆꢀꢈꢉꢃꢊꢀꢐꢎꢎꢎꢀꢏꢀꢐꢎꢋꢑꢀ  
ꢒꢓꢔꢀꢕꢆꢖꢗ  
ꢁꢂꢗꢊ!ꢀ"ꢛꢊꢜ  
ꢒꢓꢔꢀꢈꢃꢆ  
ꢋꢘꢎꢚ ꢀ  
ꢎꢘ ꢚꢎꢀ  
ꢋꢘꢍꢐꢎꢀ  
ꢎꢘꢋ ꢚꢀ  
ꢎꢘꢚꢐꢎꢀ  
Bảng 2. Phân khu đô thị và đô thị hóa ở Tp. HCM  
#ꢁ$ꢂꢀ%ꢁꢃ &ꢁꢃꢀ'ꢄꢅ  
&ꢁ(ꢂ!ꢀ!ꢆꢇꢂ  
ꢈ)ꢂꢀ*ꢃ+ꢂ  
ꢁꢂꢃꢄꢅꢀꢆ223ꢀ  
ꢉꢌ ꢌꢍꢌꢎꢌꢏꢌꢉꢐꢌꢉꢉꢌꢀ#ꢁ0ꢀ  
1ꢁꢃ+ꢂꢀ  
ꢉꢀ  
ꢑꢀ  
,(ꢀꢊꢁ-ꢀ  
ꢋꢀ*ꢃ+ꢂꢀꢂ.ꢆꢀꢊꢁ/ꢂꢁꢀ  
&ꢁꢃꢀꢒ(  
ꢊꢁ-ꢀꢁ2ꢇ  
ꢋꢌꢀꢈ$ꢂꢀ4ꢓꢂꢁꢌꢀꢔ5ꢀ678ꢀ  
'/ꢀ4ꢓꢂꢁꢀꢈꢁꢕꢂꢁꢀ  
ꢍꢀ*ꢃ+ꢂꢀ'3ꢂ  
4"!ꢀꢆ223ꢀ  
ꢉꢌ ꢌꢍꢌꢎꢌꢏꢌꢋꢌꢉꢐꢌꢉꢉꢌꢀ#ꢁ0ꢀ  
1ꢁꢃ+ꢂꢌꢀꢈ$ꢂꢀ4ꢓꢂꢁꢌꢀꢔ5ꢀ  
678ꢌꢀ4ꢓꢂꢁꢀꢈꢁꢕꢂꢁꢌꢀꢈ$ꢂꢀ  
#ꢁ0ꢀ  
ꢉꢑꢀ*ꢃ+ꢂꢀꢂ.ꢆꢀꢊꢁ/ꢂꢁꢀꢅ:ꢀ  
'/ꢀꢉꢀ*ꢃ+ꢂꢀꢊ;ꢅꢁꢀꢊ<ꢀꢈ$ꢂꢀ  
4ꢓꢂꢁꢀꢅ:  
ꢉ9ꢑꢀ  
,(ꢀꢊꢁ-ꢀ  
ꢎꢀ*ꢃ+ꢂꢀꢖ=ꢆꢀ'/ꢀꢉꢀ*ꢃ+ꢂꢀ  
ꢊ;ꢅꢁꢀꢊ<ꢀꢁꢃ>?ꢂꢀ4ꢓꢂꢁꢀ  
ꢗꢁ;ꢂꢁ  
&ꢁꢃꢀꢒ(  
ꢊꢁ-ꢀꢁ2ꢇ  
@ꢃ+ꢂꢀꢑꢌ ꢌꢘꢌꢉꢑꢌꢀꢈꢁAꢀ  
,Bꢅꢌꢀ4ꢓꢂꢁꢀꢈ$ꢂ  
TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN  
Số tháng 08 - 2019  
14  
BÀI BÁO KHOA HỌC  
Hình 10. Phân bố không gian đô thị khu vực Tp.HCM năm 1988 - 2000  
Hình 11. Phân bố không gian đô thị khu vực Tp.HCM năm 2000 - 2009  
TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN  
15  
Số tháng 08 - 2019  
BÀI BÁO KHOA HỌC  
Các bản đồ phân bố không gian đô thị (Hình từ năm 2000 đến nay thành phố bắt đầu mở  
10 - 11) cho thấy từ năm 1988 đến 2000, khu xuống phía Nam và phía Đông cùng với sự mở  
giữa TPHCM gồm 19 quận và 2 huyện phát triển rộng trên các hướng.  
mạnh theo hướng tập trung mở rộng ở khu vực  
Bảng 3 cho thấy diện tích đất đô thị tính đến  
phía Bắc thành phố, nơi đất cao và không bị ảnh năm 2014 chiếm tỉ lệ 43,3 % gần 1/2 diện tích  
hưởng bởi triều cường, đặc biệt là dọc theo các nội đô cũ TPHCM và tăng gấp hơn 3 lần so với  
trục lộ chính ở khu vực ngoại thành. Tuy nhiên năm 1988.  
Bảng 3. Diện tích đất đô thị thay đổi theo các năm qua phân tích ảnh viễn thám so với 1988  
1Cꢁ  
Dꢂ?ꢃꢀꢄEꢅꢆꢀꢇ(ꢀꢄꢆ-ꢀF%ꢁGꢀ ꢉHꢀI?ꢀFJGꢀKꢂ?ꢃꢀꢄEꢅꢆꢀLꢊꢀ'=ꢂꢀꢃCꢁꢀꢋꢌꢍꢍꢀ  
ꢋꢌꢍꢍ  
ꢈꢎꢎꢎ  
ꢈꢎꢎꢌ  
ꢈꢎꢋꢒ  
ꢋ ꢎꢏꢐꢑꢈꢐꢀ  
ꢑꢋꢏꢒꢎꢑꢌꢀ  
ꢋꢎꢎ  
ꢈꢎꢑꢏꢌꢀ  
ꢈ ꢑꢏꢋꢀ  
ꢈꢌꢏꢋ  
ꢒꢐꢌ ꢈꢍꢒ  
ꢑꢐꢋꢏꢐꢎꢒꢑꢀ  
Sự tăng trưởng diện tích đất đô thị các năm so với năm 1988 được thể hiện như Hình 12:  
Hình 12. Biểu đồ tăng trưởng diện tích đô thị các năm so với 1988  
Tăng trưởng diện tích không gian đô thị khác nhất, chứng tỏ giai đoạn này có sự bùng nổ đô thị  
nhau theo chu kỳ của ảnh vệ tinh quan sát. Trong hóa đáng kể về mặt tăng trưởng diện tích đất xây  
đó giai đoạn 2009-2014 có độ tăng trưởng cao dựng chỉ trong vòng 5 năm  
Bảng 4. Diện tích đất đô thị TPHCM thay đổi qua các giai đoạn  
Dꢁ?ꢂꢀꢃEꢄꢅꢀF%Gꢀ  
ꢈꢉꢊꢊꢀꢋꢀꢇꢌꢌꢌ ꢇꢌꢌꢌꢀꢋꢀꢇꢌꢌꢉ ꢇꢌꢌꢉꢀꢋꢀꢇꢌꢈꢍ  
&ꢅ(ꢂ!ꢀꢎ(ꢀꢃꢅ-  
,(ꢀꢃꢅ-ꢀꢆ7ꢃꢀꢎꢁ  
,(ꢀꢃꢅ-ꢀꢀꢆMꢀꢒ.ꢂ!ꢀ  
,(ꢀꢃꢅ-ꢀ!ꢁNꢀꢂ!ꢓ>)ꢂꢀ  
ꢈꢏꢉꢐꢑꢇꢇ ꢍꢀ  
ꢏꢈꢑ  ꢐꢀ  
ꢇꢍꢇꢑꢌꢐꢏꢊ  
ꢈꢌꢉꢑ ꢍꢉꢈꢀ  
ꢈꢐꢇꢊꢑꢈꢍꢉꢏ  
ꢈꢈꢌꢑꢍꢐꢊꢊ  
ꢇꢇꢊꢑ ꢊꢈ   
ꢇꢍꢌꢑꢉꢍ ꢈꢀ  
ꢈꢍꢈ ꢑꢐ ꢌꢏꢀ  
ꢈꢇ ꢑꢏꢍ ꢉꢀ  
ꢇꢇꢌꢑꢌꢈ ꢈꢀ  
ꢍꢈꢑꢍꢐꢉꢈ  
Xét về phân bố không gian, kể từ năm 1988 lấp đầy dần theo thời gian.  
đến 2014, đô thị phát triển từ các quận nội thành  
Tỷ lệ diện tích mặt nước Tp. HCM thay đổi  
cũ, mở rộng dần ra các quận mới đến các huyện qua các năm từ phân tích ảnh viễn thám được thể  
ngoại thành. Ở các khu vực ngoại thành đã và hiện qua Hình 13:  
đang mọc lên các khu đô thị mới và xu hướng  
TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN  
Số tháng 08 - 2019  
16  
BÀI BÁO KHOA HỌC  
ꢀꢁꢂꢃꢄꢂꢅꢆꢇ  
Hình 13. Biểu đồ suy giảm diện tích mặt nước vùng trũng, đầm lầy qua các năm  
Biến động diện tích mặt nước theo thời gian đoạn năm, diện tích mặt nước bị san lấp thay thế  
qua các giai đoạn năm khác nhau như Hình 14, bằng đất trống hoặc đô thị.  
với diện tích phi mặt nước tăng dần theo các giai  
Hình 14. Biểu đồ biến động diện tích không gian mặt nước qua các năm  
5. Kết luận  
điều kiện bất lợi của tự nhiên (mưa, triều, …) và  
các vấn đề trong công tác quản lý gây nên hệ  
thống thoát nước quá tải. Hiện nay, Thành phố  
chỉ tập trung vào 2 dự án chống ngập và chưa  
quan tâm đến những giải pháp khác có thể góp  
phần hạn chế tình trạng ngập úng. Do đó, bên  
cạnh việc tiếp tục xây dựng các công trình chống  
ngập theo quy hoạch đã được phê duyệt, Thành  
phố có thể xem xét một số giải pháp hỗ trợ trong  
điều kiện hiện nay như phục hồi hệ thống kênh  
rạch, phục hồi mảng xanh cho Thành phố và  
giảm dần diện tích bê tông hóa, xây dựng hồ điều  
tiết và tìm các giải pháp kỹ thuật giảm mực nước  
triều và giảm tác động xâm nhập mặn.  
Kết quả nghiên cứu cho thấy:  
+ Trong vòng 40 năm (1962 - 2014) xuất  
hiện 29 trận mưa trên 100 mm. Trong đó riêng từ  
2011 - 2014 đã có 12 trận mưa trên 100 mm làm  
quá tải hệ thống thoát nước.  
+ Khi triều vượt đỉnh 1,5 m, phần lớn diện  
tích (2/3) Thành phố bị ảnh hường triều cường.  
+ Hiện nay, dân số của Thành phố tăng đến  
10 triệu người do đó hệ thống thoát nước không  
thể tải được lượng nước thải hơn gấp 4 lần so với  
thiết kế.  
Theo phân tích chỉ ra rằng nguyên nhân chính  
gây ngập úng cho thành phố Hồ Chí Minh là do  
TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN  
Số tháng 08 - 2019  
17  
BÀI BÁO KHOA HỌC  
Hình 15. Phân bố thay đổi mặt nước Tp.HCM giai đoạn năm 1988 - 2014  
Tài liệu tham khảo  
1. Nguyễn Kỳ Phùng (2011), Tác động biến đổi khí hậu đến Tp. HCM và các giải pháp ứng phó.  
Nhà xuất bản Đại học quốc gia  
2. Nguyễn Kỳ Phùng (2014), Atlas Khí tượng thuỷ văn Tp. HCM, Nhà xuất bản Khoa học kỹ  
thuật.  
3. Số liệu mực nước, mưa giai đoạn (1980-2015), Đài Khí tượng Thủy văn khu vực Nam Bộ.  
4. Trung tâm điều hành chương trình chống ngập nước (2015), Cẩm nang tuyên truyền Phòng  
chống ngập bảo vệ công trình thoát nước trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.  
5. Ủy ban nhân dân Tp. HCM (2015), Đề án giải quyết ngập do triều cường khu vực Thành phố  
Hồ Chí Minh có xét đến biến đổi khí hậu.  
TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN  
Số tháng 08 - 2019  
18  
BÀI BÁO KHOA HỌC  
IMPACT ASSESSMENT OF SOME NATURAL FACTORS AND HUMAN TO URBAN  
FLOOD HO CHI MINH CITY  
Huynh Luu Trung Phung1, Nguyen Ky Phung1, Le Thi Hien2  
1Department of Science and Technology, HCMC  
2Institute for Computational Science and Technology  
Abstract: Ho Chi Minh City has a dense network of canals, which is very favorable for water  
transportation and water landscape, but there are major obstacles to flooding and drainage. This  
is an urban often affected by spring tide, heavy rain during the rainy season, outdated drainage sys-  
tems are undergoing renovations causing flooding usually occurs on a large scale. This situation has  
caused much damage to life, wealth and lives of people as well as affect the socio-economic devel-  
opment of the city. To get an overview in recent years, the article gave a detailed assessment of nat-  
ural elements (rain, tides, sea level rise) and human factors (emphasis on the process of  
urbanization) to the city flooding problems. The analysis results have shown that the main reason is  
the increasingly appearance of excess rainfall and rising tide under the impact of climate change,  
rapid urbanization speeds as well as the city inappropriate sewer system planning to the present  
development conditions. The results of the study also contributed to the basis of proposing a num-  
ber of solutions to support the flooding situation in Ho Chi Minh City.  
Keywords: Flood, Spring tide, Climate change, Urbanization.  
TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN  
Số tháng 08 - 2019  
19  
pdf 12 trang Hứa Trọng Đạt 09/01/2024 380
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá tác động của một số yếu tố tự nhiên và nhân sinh đến ngập lụt Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_tac_dong_cua_mot_so_yeu_to_tu_nhien_va_nhan_sinh_de.pdf