Giới thiệu khung phân loại thư viện Quốc hội Mỹ
NGHIỆP VỤ - KỸ THUẬT
GIỚI THIỆU KHUNG PHÂN LOẠI THƯ VIỆN QUỐC HỘI MỸ
Ngô Nguyễn Cảnh
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh
Mở đầu
năm 1800. Năm 1801, những cuốn sách
đầu tiên đặt hàng từ Anh đã có mặt trong
thư viện (740 cuốn sách và 3 bản đồ). Ngày
26/01/1802, Tổng thống Thomas Jefferson
đã ra một đạo luật cơ bản đầu tiên, xác
nhận vai trò và chức năng của thư viện,
cho phép thư viện phục vụ Quốc hội, sau
này (1815), thư viện mở rộng phục vụ cho
các cơ quan chính phủ và tư pháp. Năm
1814, quân đội Anh xâm chiếm thành phố
Washington và Thư viện Quốc hội bị phá
hủy, số lượng tài liệu bị phá hủy ước tính
3000 bản. Sau sự kiện này, năm 1815
Jefferson đã đề nghị bán thư viện cá nhân
cho Quốc hội để "tái khởi động" thư viện
của mình với số lượng 6.487 cuốn sách,
được phân loại bởi chính Jefferson [9]. Thư
viện đã thông qua hệ thống này và sử dụng
nó với một số sửa đổi cho đến khi kết thúc
vào thế kỷ XIX. Năm 1857, Thư viện Quốc
hội chuyển đến một tòa nhà mới. Đến thời
điểm này, bộ sưu tập của thư viện đã phát
triển lên đến 1,5 triệu bản, hệ thống phân
loại của Jefferson bây giờ không còn thích
hợp cho bộ sưu tập hiện tại của thư viện.
Một chương trình phân loại chi tiết đã được
lập ra trước sự phát triển nhanh chóng
của bộ sưu tập tài liệu. Các khung phân
loại thập phân Dewey (DDC), khung phân
loại mở rộng Cutter (Cutter’s Expansive
Classification) và khung Hartwig’s Halle
của Đức đã được đưa vào nghiên cứu,
nhưng không một khung nào trong số đó
thích hợp cho bộ sưu tập hiện tại. Vì vậy,
Thư viện đã quyết định xây dựng một hệ
thống phân loại mới của riêng mình. Khung
phân loại được thiết lập đầu tiên vào năm
1901 với lớp Z là lớp khởi đầu được xuất
bản 1902 (thư viện và khoa học thư viện).
Tiếp theo là E-F (Lịch sử Hoa Kỳ và địa lý),
được phát triển và xuất bản 1901. Từ đó,
các lớp khác được tiếp tục phát triển. Mỗi
Khung phân loại Thư viện Quốc hội
(Library Congress Classification, viết tắt là
LCC) là một hệ thống phân loại ra đời vào
cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, được
phát triển bởi Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ
(LC-Library Congress), nhằm mục đích
tổ chức và sắp xếp các bộ sưu tập trong
thư viện. Hiện tại, LCC là một trong những
khung phân loại được sử dụng rộng rãi trên
thế giới, thường được áp dụng trong các thư
viện chuyên ngành, học thuật lớn. Trong
những thập kỷ gần đây, Thư viện Quốc hội
đã xây dựng hồ sơ điện tử LCC bằng hình
thức trực tuyến, tài liệu hướng dẫn sử dụng
được truy cập miễn phí trên website. LCC
không phải là hệ thống phân loại phổ biến
duy nhất, bên cạnh nó, còn có rất nhiều
khung phân loại khác như: DDC (Dewey
Decimal Classification), UDC (Universal
Decimal Classification), BBK (Bibliotechno
-
Biblilgraficheskaija
BBC (Bliss Bibliographic Classification),
CC (Colon Classification)… [3].
-
Klassifikacija),
Tại Việt Nam, DDC và BBK là hai hệ thống
phân loại được sử dụng nhiều nhất, tuy
nhiên hiện nay, sự hữu ích của LCC đã
vượt qua biên giới lãnh thổ quốc gia, trở
thành một khung phân loại toàn cầu. LCC
là một trong những khung phân loại được
sử dụng rộng rãi trên thế giới. Bài viết giới
thiệu lịch sử hình thành và phát triển, khái
quát những đặc tính, nguyên tắc, cấu trúc,
công cụ hỗ trợ… của LCC. Dựa trên các ví
dụ cụ thể, tác giả phân tích những ưu điểm,
hạn chế góp phần tạo nên một cách nhìn
rõ nét hơn về LCC như là một công cụ hữu
ích, có tính áp dụng cao đối với các thư
viện chuyên ngành tại Việt Nam.
1. Lịch sử hình thành và phát triển
Thư viện Quốc hội được thành lập vào
39
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 3/2018
NGHIỆP VỤ - KỸ THUẬT
chủ đề của LCC có chứa một lớp chính,
một phân lớp, hoặc một nhóm các lớp phụ.
Các lớp chủ đề riêng biệt được xuất bản
ngay khi chúng được hoàn thành. Năm
1948, tất cả các lớp của LCC được xuất
bản, ngoại trừ lớp K (luật), đến năm 1969,
bước đầu hoàn thành đối với pháp luật của
Hoa Kỳ và hoàn chỉnh lớp K vào năm 2004
với phân lớp KB (luật tôn giáo). Ngay từ
đầu, các lớp chuyên biệt của LCC đã được
phát triển và duy trì theo chủ đề do các
chuyên gia phụ trách từng kho đảm nhiệm.
Họ có trách nhiệm bổ sung và thay đổi
LCC trong tương lai. Không giống như các
hệ thống phân loại khác, LCC không phải
là sản phẩm của một người, mà là sự kết
hợp của hàng loạt chủ đề đặc biệt giữa các
kho với nhau tạo nên một khung phân loại
hoàn chỉnh. Cho đến đầu những năm 1990,
LCC tồn tại chủ yếu dưới dạng in ấn. Việc
chuyển đổi LCC thành khổ mẫu đọc máy
được bắt đầu vào năm 1993, hoàn thành
vào năm 1996. Việc chuyển đổi sang dạng
điện tử đã được thực hiện bằng cách sử
dụng định dạng phân loại USMARC (nay
gọi là MARC21). Đây là điều rất quan trọng
cho sự phát triển của LCC, cho phép LCC
được tra cứu trực tuyến đem lại hiệu quả
lớn hơn so với bản in. Năm 2013, Thư viện
Quốc hội công bố chuyển đổi sang xuất
bản trực tuyến đối với tài liệu biên mục,
bao gồm cả khung phân loại LCC. Dịch
vụ phân phối biên mục (CDS) sẽ không
còn in các ấn bản mới của tiêu đề đề mục
(LCSH), LCC (bản in) và ấn phẩm biên
mục khác. Thay vào đó Thư viện đã quyết
định cung cấp miễn phí các phiên bản
PDF tải về thông qua website (www.loc.
org), bao gồm các tài liệu đào tạo, hướng
dẫn về nguyên tắc và thông lệ của khung
phân loại LCC. Ngoài ra, CDS còn cung
cấp các dịch vụ nâng cao cho các thư viện
thông qua công cụ: Cataloger's Desktop,
Classification Web. Đây là hai công cụ ứng
dụng trên web dựa trên nền tảng LCC và
LCSH, hỗ trợ tìm kiếm và duyệt tìm các lớp
LCC, cung cấp liên kết đến các bảng tương
ứng để xây dựng ký hiệu phân loại cho tài
nguyên thư viện [3].
2. Nguyên tắc, đặc tính và cấu trúc
LCC
2.1. Nguyên tắc LCC
LCC là một hệ thống phân loại mang
tính liệt kê, tức là hệ thống liệt kê các số
phân loại cho chủ đề đơn, kép, thậm chí
với chủ đề phức tạp trong bảng. Những lớp
chính của LCC đại diện cho các chủ đề
chính được chia thành nhiều lớp con khác
nhau, sau đó tiếp tục được chia thành tiểu
mục nhỏ hơn. Phân loại như vậy tạo ra một
sự phân cấp cho LCC, phát triển từ tổng
quát tới cụ thể.
Các bảng LCC được phát triển độc lập
bởi các nhóm chuyên gia khác nhau dựa
trên "Literacy warrant" sự phát triển của bộ
sưu tập. Vì vậy, mỗi bảng độc lập với một
số khác biệt.Ví dụ K (luật), P (ngôn ngữ).
LCC sắp xếp chủ đề theo thứ tự chữ
cái, khi một chi tiết của chủ đề mới được
thêm vào đều được sắp xếp theo thứ tự
chữ cái của chủ đề đó. Cách sắp xếp này
không được hệ thống từ trước và không
thiết lập được mối quan hệ giữa các chủ
đề trong bảng. Vì thế, trong LCC luôn có
chú thích trực tiếp đối với chủ đề mới được
thêm vào. Về mặt này, nó không giống với
các hệ thống phân loại nghiêm ngặt khác,
chẳng hạn như phân loại thập phân Dewey
(DDC), trong đó mối quan hệ phân cấp
giữa các chủ đề được thể hiện bằng số có
thể được chia nhỏ liên tục.
2.2. Đặc tính LCC
Tính biểu thị: Ký hiệu LCC giới hạn sự
biểu thị so với các khung phân loại phổ biến
khác, đặc biệt là so với DDC. Trong LCC,
các ký hiệu cho biết mối quan hệ thứ bậc
thông qua chữ in hoa và số Cutter. Đôi khi
chúng còn được mở rộng đến phần số thập
phân để hiển thị sự lệ thuộc. Tuy nhiên,
việc sử dụng khả năng này đối với LCC
còn hạn chế, chưa sử dụng nhiều [10].
Tính cập nhật: LCC có khả năng cập
40
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 3/2018
NGHIỆP VỤ - KỸ THUẬT
nhật khái niệm hoặc chủ đề mới khi cần
thiết phải thêm vào trong bảng phân loại,
cho phép chèn cả phân lớp mới và phối hợp
với các chủ đề khác. Có thể nói khả năng
cập nhật thông tin mới của LCC là rất lớn,
chủ đề mới có thể được thêm vào hệ thống
một cách dễ dàng. Ở cấp độ lớp chính I, O,
X, W và Y chưa được chỉ định cho bất kỳ đối
tượng nào và dự kiến sẽ sử dụng trong tương
lai. Ở cấp độ phân lớp, giữa hai chữ cái kết
hợp có sẵn khoảng trống nhằm mục đích
sử dụng trong tương lai. Ngoài ra còn có lựa
chọn để tự thêm vào ba ký tự kết hợp với
biểu thị của phân lớp mới (ví dụ: AC=>ACA;
AD=>ADA; AD185=>AD185.40…). Phân
lớp có thể được thêm bằng cách sử dụng
phần mở rộng thập phân và số Cutter (ví
dụ: .C87) [3].
Tính dễ nhớ: LCC cho phép sắp xếp một
ký hiệu liên kết nhất định với một khái niệm
chủ đề, bằng cách sử dụng chữ cái ban đầu
để chỉ ra các lớp nhất định. Ký hiệu LCC
không có công cụ hỗ trợ ghi nhớ, nhưng
nhìn chung khi nhìn vào bảng người phân
loại có thể nhớ rất nhanh các lớp chính, từ
đó dò tìm về các phân lớp nhỏ hơn để thiết
lập số phân loại. Một số ví dụ về thuật nhớ
trong lớp A, nơi ký hiệu thứ hai của phân
lớp được lấy từ tên của chủ đề. Ví dụ: AC
cho Collection, AE cho Encyclopaedias,
AN cho Newpaper, AS cho Social, v.v.
D - Lịch sử: Lịch sử nói chung và lịch sử
thế giới cổ đại
E-F - Lịch sử nước Mỹ
G - Địa lý. Bản đồ. Nhân loại học. Giải trí
H - Các khoa học xã hội
J - Khoa học chính trị
K - Pháp luật
L - Giáo dục
M - Âm nhạc
N - Mỹ thuật
P - Ngôn ngữ và Văn học
Q - Khoa học
R - Y học
S - Nông nghiệp. Nghề cá và săn bắn
T - Kỹ thuật
U - Kỹ thuật quân sự
V - Hàng hải
Z - Thư mục. Thư viện học
Các chữ cái I, O, W, X, Y không được chỉ
định, dự kiến sẽ dành cho các ngành khoa
học mới trong tương lai.
2.3.2. Lớp con (Phân lớp - Subclass)
Mỗi lớp chính, trừ trường hợp E và F,
được phân chia thành nhiều lớp con đại
diện cho các chủ đề của lớp chính. Hầu
hết các lớp con được biểu thị bằng hai hoặc
ba chữ cái. Ví dụ:
A - Các vấn đề chung
Tính ngắn gọn: Ký hiệu trong LCC tương
đối ngắn gọn so với các khung phân loại
khác như DDC. Nó cho phép kết hợp giữa
nhiều ký hiệu với những đặc trưng riêng mà
vẫn đảm bảo tính ngắn gọn.
2.3. Cấu trúc LCC
2.3.1. Lớp chính (Main class)
LCC phân chia toàn bộ tri thức của nhân
loại thành 21 lớp chính, ký hiệu được xác
định bằng bảng chữ cái.
AC - Bộ tùng thư, tùng thư, ấn phẩm tiếp tục
AE - Bách khoa thư tổng hợp
AG - Sách tra cứu, tham khảo
…
Mỗi phân lớp được chia nhỏ thành các
đơn vị đại diện cho thành phần của phân
lớp phụ để chỉ định hình thức, địa điểm,
thời gian và chủ đề phụ. Chúng được biểu
thị bằng số nguyên 1-9999 hoặc một số có
phần mở rộng thập phân. Ví dụ:
Các lớp chính (Main class) của LCC gồm:
A - Các công trình chung
B - Triết học. Tâm lý. Tôn giáo
C - Các khoa học phụ trợ cho lịch sử
Q
QD
Khoa học
Hóa học
QD 71-142 Hóa học phân tích
41
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 3/2018
NGHIỆP VỤ - KỸ THUẬT
QD 145-197 Hóa học vô cơ
QD 241-244 Hóa học hữu cơ
…
trong việc hiển thị quan hệ phân cấp với
chủ đề chính và chủ đề phụ. Ngoài ra,
ghi chú là một phần không thể thiếu trong
LCC, thường đi kèm với số lớp chính và
tiêu đề, chỉ ra phạm vi của số đó, hoặc có
thể hướng dẫn cán bộ phân loại tham khảo
một số phân loại khác hoặc phân lớp khác
của bảng.
- Các bảng phụ (Tables): được sử dụng
rộng rãi trong LCC, cho phép gán một số
phân loại cụ thể hoặc phần mở rộng để sắp
xếp các chủ đề tương tự mà không cần in
lại các chỉ dẫn lặp đi lặp lại nhằm tiết kiệm
không gian. Bảng phụ trong LCC được
phân theo ba loại: bảng nằm bên trong
bảng chính (còn gọi là bảng nội bộ), bảng
nằm ngoài bảng chính (còn gọi là bảng
ngoài) và bảng ứng dụng chung (dùng
chung cho cả hai bảng trên).
2.3.3. Các thành phần của LCC
Tính đến đầu tháng 3 năm 2017, LCC
có tất cả 41 ấn bản (pdf) được xuất bản
trên web dành cho các lớp chính và phân
lớp của LCC. Mỗi bảng in bao gồm: lời nói
đầu, đề cương, văn bản chính của khung,
bảng phụ trợ và chỉ mục.
- Lời nói đầu (Preface): lời nói đầu cho
biết lịch sử và những thay đổi từ phiên bản
trước, liệt kê, phác thảo các phân lớp, bảng
phụ và chỉ mục trong bảng.
- Đề cương (Outline): bao gồm bản tóm
tắt chi tiết về chủ đề, chủ đề phụ. Đầu tiên,
nó phác thảo các lớp con được dùng làm
nội dung trong bảng chính, tiếp đó là phác
thảo chi tiết với 2 hoặc 3 cấp độ phân cấp
của hệ thống.
+ Bảng nội bộ xuất hiện trong văn bản
của bảng chính áp dụng cho một chủ đề cụ
thể hoặc khoảng thời gian diễn ra sự kiện.
- Bảng chính (Main tables): được các
nhóm chuyên gia xây dựng và hoàn thiện,
do đó mỗi lớp có những tính năng riêng,
giữa các bảng có sự khác nhau trong việc
sử dụng và phương pháp tổng hợp ký hiệu
phân loại. Tuy nhiên, một số tính năng nhất
định được chia sẻ chung cho các bảng như:
về mặt tổ chức, ký hiệu, phương pháp, sắp
xếp hình thức và đơn vị địa lý. Những đơn vị
trong một lớp, phân lớp hoặc chủ đề chính
được tạo theo một khuôn mẫu chung gồm
bảy yếu tố: (1) hình thức chung: tạp chí định
kỳ, xã hội, bộ sưu tập, từ điển, bách khoa
toàn thư, hội nghị, triển lãm, thư viện, niên
giám, bảo tàng v.v; (2) lý thuyết, triết học;
(3) lịch sử, tiểu sử; (4) luận án hoặc các
tác phẩm tổng hợp; (5) luật, quy định, nhà
nước; (6) học tập, giảng dạy, nghiên cứu;
(7) các đối tượng đặc biệt và phân ngành
của các đối tượng. Việc bổ sung, thay đổi
sau đó đã biến đổi khuôn mẫu này khác đi
so với hiện tại, nhưng nhìn chúng vẫn được
nhận ra ở một mức độ nào đó.
+ Các bảng bên ngoài xuất hiện ở cuối
bảng chính, trước khi lập chỉ mục, áp dụng
cho nhiều đối tượng trong một lớp hoặc
phân lớp.
+ Bảng ứng dụng chung xuất hiện trong
cuốn cẩm nang hướng dẫn phân loại và
sắp xếp ký hiệu trên kệ, chúng được áp
dụng trong toàn bộ bảng chính.
Các bảng thông dụng bao gồm bảng
tiểu sử, bảng dịch và bảng địa lý dựa trên
số Cutter. Ví dụ:
Bảng tiểu sử
.x Số cutter cho tiểu sử
.xA2 Tác phẩm sưu tập. Theo ngày
.xA25 Các tác phẩm được chọn. Lựa
chọn. Theo ngày. Kể cả trích dẫn
.xA3 Tự truyện, nhật ký, v.v Theo ngày
.XA4 Bức thư. Theo ngày
.xA5 Bài phát biểu, bài tiểu luận và bài
giảng. Theo ngày. Kể cả phỏng vấn
- Chú thích (Caption): được sử dụng
trong toàn bộ bảng, có ý nghĩa quan trọng
.xA6-Z Cá nhân và tiểu sử phê bình.
Theo mục nhập chính. Bao gồm cả những
42
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 3/2018
NGHIỆP VỤ - KỸ THUẬT
lời chỉ trích của các tác phẩm được lựa
chọn, tự truyện, trích dẫn, thư từ, bài phát
biểu, và phỏng vấn, v.v [8].
ba chữ cái đã được chỉ định cho một số
phân lớp trong bảng D và K.
2.3.4. Nguyên tắc xây dựng số phân loại
Số phân loại LCC gồm 4 phần chính
[11]:
Bảng dịch
.x Tác phẩm gốc
.x125 Bản dịch tiếng Ả Rập
.x127 Bản dịch tiếng Trung
.x13 Bản dịch tiếng Anh
.x14 Bản dịch tiếng Pháp
.x15 Bản dịch tiếng Đức
.x154 Bản dịch tiếng Hebrew
.x16 Bản dịch tiếng Ý
.x163 Bản dịch tiếng Nhật
.x164 Bản dịch tiếng Hàn
.x167 Bản dịch tiếng Bồ Đào Nha
.x17 Bản dịch tiếng Nga
.x18 Bản dịch tiếng Tây Ban Nha
.x19 Bản dịch tiếng Việt
Bảng địa lý
Chủ đề Chung/Chính;
Chủ đề hẹp;
Số Cutter (đại diện cho tác giả, tổ chức,
hoặc tiêu đề);
Năm xuất bản
Trường hợp 1: Cutter đơn (một số
Cutter cho nhan đề hoặc tác giả)
Ví dụ 1: Title: Price control under fair
trade legislation
Author: Ewald T. Grether
HF Commerce (Thương mại)
5415
Business (Kinh doanh) →
Marketing (Thị trường)→ General works
(tác phẩm chung)
.G67
Grether
Số Cutter cho tác giả
Việt Nam: V5
Lào: L28
1939
Năm xuất bản
Mỹ: A45
Spain: S7
Trường hợp 2: Cutter kép (hai số Cutter
cho cá nhân, tiểu sử hoặc địa lý)
Ví dụ 2: Title: Louisbourgportraits : life
Japan: J3
…[7].
in an eighteenth-century garrison town
Author: Christopher Moore
Mục lục (index): là những chỉ mục chi
tiết kèm theo mỗi bảng ở mặt sau của
phiên bản in. Mục này bao gồm chỉ mục
tham khảo một số LCC cụ thể trong bảng
chính đó. Hiện nay, chỉ mục không được
thiết kế trên các bảng in, được phát triển
trong phiên bản trực tuyến, truy cập hoặc
duyệt thông qua classification Web.
F
History : America ( n u m b e r s
1001-1145.2) - British America (including
Canada)
1039 Nova Scotia. Acadia(vùng
địa lý khu vực)
.5 Cities, towns, etc., A-Z(vùng địa lý
địa phương)
Ký hiệu: LCC là chuỗi các ký tự chuẩn
cho lớp chính, phân lớp, đơn vị và cá nhân.
LCC sử dụng ký hiệu chữ của La Mã bằng
cách viết hoa chữ cái, sau đó sử dụng hỗn
hợp số Ả-rập và dấu chấm (.) để xây dựng
ký hiệu phân loại. Một ký tự duy nhất biểu
thị một lớp chính và hầu hết các lớp con
được chỉ định bởi hai chữ cái. Sự kết hợp
.L8 Louisbourg (số Cutter dành cho
địa phương)
M66
Số Cutter cho tác giả Moore
1982
Năm xuất bản
Trường hợp 3: Một số thông tin khác
của số phân loại (số tập, loạt, phần bổ
sung, bản sao)
43
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 3/2018
NGHIỆP VỤ - KỸ THUẬT
Ví dụ 3: Title: More West Highland tales
Author: John Francis Campbell
hoặc tên sách, được đọc theo thứ tự ABC
và sau đó các con số được đọc như một số
thập phân: .D12 .D3 .G45 .G5 .G56 .G564
.G5643 .G6 .G67
Dòng cuối cùng là năm xuất bản và được
đọc theo thứ tự thời gian: 1654 1776 1796
1854 1910 1959 1959b 1978 1999 2001
PB Modern
languages
1645
Erse)→ Literature → Folk literature
languages.
Celtic
Gaelic (Scottish Gaelic,
.C26
Campbell
Số Cutter cho tác giả
Một số nhãn có nhiều hơn 4 dòng
AZ
513
.M7
.I5
v.1, v.2…quyển 1, quyển 2
Ser.A, Ser.B… Dòng A, dòng B
Suppl
bổ sung)
Supplement (phần
1984
Trường hợp 4: LCC còn được thiết lập
mở rộng với các số Cutter kết hợp từ 3-7
chữ số tuỳ thuộc vào chủ đề địa lý, tiểu
sử, cá nhân quy định trong bảng phụ.
Số phân loại này có hai số Cutter. Số
Cutter đầu tiên là số thu hẹp chủ đề; trong
trường hợp này .M7 là viết tắt của
Mississippi (chủ đề địa lý). Số Cutter thứ
hai trên nhãn này, I5, đại diện cho sách,
tác giả. Cả hai đều đọc giống như các ví dụ
về số Cutter ở trên.
Ví dụ 4: Title: Essential Brittany
Author: Lindsay Hunt, 1997.
DC History of France (Lịch sử Pháp)
611 Regions (Vùng địa lý)
Một số ký hiệu khác ở cuối nhãn sách
AE
5
.E333
2004
V. 1
.B848 Brittany (Số Cutter cho địa
phương A-Z)
.H84 Số Cutter cho tác giả Hunt
1997 Năm xuất bản
2.3.5. Cách sắp xếp kho
Số phân loại trung bình có bốn dòng
trên nhãn sách và mỗi số đó các dòng
được đọc khác nhau.
Kết thúc ký hiệu xếp giá có thể là chữ
cái hoặc số chỉ định thứ tự của cuốn sách
trong một quyển, tập hoặc một số. Chúng
được đọc theo số (v.1, v.2, v.3, ...) hoặc theo
thứ tự bảng chữ cái (ser.A, ser.B, ...). Một
số ví dụ phổ biến là:
Z
693
.A52
1977
v.1
Tập 193
Dòng đầu tiên được tạo thành từ 1-3 ký
tự và được đọc theo thứ tự chữ cái: A B BC
BF CJ D G GE GR H
Dòng thứ hai được tạo thành từ các
số nguyên và được đọc theo số lượng.Số
trong dòng này đôi khi có thập phân: 1 5 25
78 126 333 790 790.5 1357 4274
Dòng thứ ba được gọi là số Cutter,
thường đại diện cho tên tác giả, nhưng
cũng có thể dùng cho tên của một tổ chức
v.193(1998)
v.37, no.2
no.305
ser.B
Tập 193, năm 1998
Tập 37, số 2
Số 305
Dòng B
Phần bổ sung
suppl
Số phân loại cũng có thể kết thúc bằng
một số ký hiệu (c.2, c.3...). Điều này được
sử dụng để chỉ nhiều bản sao đối với sách
ngoại văn.
44
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 3/2018
NGHIỆP VỤ - KỸ THUẬT
2.3.6. Mã hóa trong MARC21
“Dịch vụ phân phối biên mục” (DCS).
Trong biểu mẫu MARC 21 cho dữ liệu
thư mục tại Thư viện Quốc hội, số phân loại
xuất hiện trong trường 050.
050 00 $ a PK2031 $ b .J56 1993
050 14 $ a JQ229.A8 $ b F67 2009
Chỉ thị thứ nhất - Tồn tại trong bộ sưu
tập LC
Supper LCCS là một ấn phẩm in do
Thompson Gale phát hành hàng năm,
được kết hợp từng bảng phân loại, cập
nhật tất cả những bổ sung, thay đổi và xóa
các thông tin trước đó theo từng quý, từng
năm. Hiện nay, ấn bản này đã được xuất
bản trên vi phiếu.
ClassificationWeb (Web phân loại)
là một dịch vụ cung cấp World Wide Web
(www.classificationweb.net) để truy cập
vào khung phân loại LCC và đề mục chủ
đề LCSH. Dịch vụ bao gồm tính năng bổ
sung, nâng cao, nâng cấp phần mềm
và tập tin dữ liệu mới, có thể được đưa
vào Web phân loại. Dịch vụ cũng bao gồm
các tham chiếu giữa khung phân loại DDC
và LCC, bằng cách kết hợp số phân loại
thập phân Dewey được tìm thấy trong hồ
sơ thư mục của Thư viện Quốc hội với số
phân loại LCC tương ứng và đề mục chủ
đề tương quan.
Classification and Shelflisting Manual
(CSM): Đây là một cuốn sổ tay hướng dẫn
thực hành khung phân loại LCC và sắp
xếp tài liệu trên kệ. Hiện nay, Thư viện cho
phép truy cập miễn phí đến bảng hướng
dẫn chi tiết trên website.
Cataloger's Desktop là một hệ thống
tài liệu hướng dẫn tích hợp, trực tuyến với
gần 300 nguồn biên mục và siêu dữ liệu
quan trọng, luôn có sẵn 24/7. Cho phép
tiếp cận tài nguyên mô tả và đặc biệt là truy
cập RDA và AACR2. Cataloger's Desktop
là hộp công cụ tích hợp tính năng biên mục
bao gồm các chức năng sau: Kỹ thuật tìm
kiếm thông minh và khám phá thông tin;
Giao diện tùy chỉnh; Tổ chức nguồn tài
nguyên thông tin. Có thể truy cập tại http://
www.loc.gov/cds/desktop/.
Cataloging Calculator là một ứng
dụng trên website, cho phép truy cập các
hướng dẫn đối với quy tắc mô tả AACR2,
RDA, Marc 21, LCSH, theo hướng dẫn chi
tiết từ OCLC và LC. Ngoài ra, Cataloging
# (khoảng trống) - Không cung cấp
thông tin (đã sử dụng khi một số phân loại
được chỉ định bởi tổ chức khác ngoài LC);
0 - Mục trong LC; 1 - Mục không có trong LC
Chỉ thị thứ hai - Nguồn phân loại
0 - Được tạo bởi LC; 4 - Được tạo bởi cơ
quan không phải là LC
Mã trường con $ a - Số phân loại $ b - Số
Cutter. Trường con $ a có thể được lặp lại
để ghi số lớp thay thế. Các trường con khác
được định nghĩa trong định dạng MARC 21,
viz, $ 3, $ 6, và $ 8, nhưng thường không
được sử dụng trong mục lục chung. Ngoài
ra, trường 090 có thể được sử dụng trong
MARC, được mã hóa trong OCLC cho các
số phân loại LC được chỉ định cục bộ nơi cả
hai chỉ thị đều trống.
2.3.7. Công cụ hỗ trợ LCC
LCC được xuất bản dưới dạng in, điện tử
và công cụ hỗ trợ giúp cho việc ứng dụng
phân loại trong thực tế trở nên dễ dàng.
Các công cụ đó bao gồm: Bảng in, Supper
LCCS, Classification Web, Classification
and Shelflisting Manual (CSM), Cataloging
Calculator.
Bảng in: Sau nhiều lần chỉnh sửa, hiện
nay LCC chính thức có 41 ấn bản được
xuất bản, từ năm 2013, Thư viện Quốc hội
đã ngưng không xuất bản ẩn phẩm dưới
dạng in mà thay vào đó cung cấp miễn phí
trên website của Thư viện. Các bản cập
nhật, thay đổi hay bổ sung được thông
tin trực tiếp trên website www.loc.org một
cách nhanh chóng, kịp thời. Tuy nhiên, nếu
người sử dụng có nhu cầu sở hữu bản in
có thể mua tại Thư viện thông qua bộ phận
45
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 3/2018
NGHIỆP VỤ - KỸ THUẬT
Calculator còn hỗ trợ người biên mục tạo
số Cutter trực tuyến với LC Cutter (số
thư viện Quốc hội), Geog. Cutter (Cutter
địa lý), Geog. Area Codes (Cutter địa lý
theo khu vực), Country Codes (Mã nước),
Language Codes (Mã ngôn ngữ) với nhiều
tùy chọn đa dạng, phong phú.
cho phép Thư viện thành viện đóng góp đề
mục chủ đề (LCSH) và số phân loại (LCC)
vào thư viện Quốc hội.
5. LCC đã có công cụ Web phân loại hỗ
trợ thông qua tính năng, đặc điểm như: tìm
kiếm nâng cao, tuỳ chỉnh, kết hợp… giờ đây
việc xây dựng số phân loại trong LCC được
thực hiện dễ dàng.
3. Đánh giá khung phân loại LCC
6. Ký hiệu LCC cho các lớp tương đối
ngắn gọn, nhất là khi so sánh với khung
phân loại khác, chẳng hạn như DDC.
7. Ký hiệu LCC rất thân thiện và mở
rộng. Các lớp mới, phân lớp, đơn vị và chủ
đề có thể được thêm mới thuận tiện mà
không cần yêu cầu sửa đổi hàng loạt.
8. LCC cho phép phân loại tài liệu với
số Cutter, mở rộng số thập phân và thêm
ngày công bố, yếu tố bổ sung của tài liệu
(tập, quyển, số, dòng, bản sao…).
9. Cẩm nang hướng dẫn phân loại và
sắp xếp tài liệu (CSM) cung cấp lý thuyết
toàn diện và hướng dẫn làm thế nào để
sử dụng LCC, hoàn toàn miễn phí trên
Internet.
Cũng giống như bất kỳ một khung phân
loại nào LCC cũng có những thế mạnh và
hạn chế. Dưới đây là tổng hợp một số đánh
giá và thảo luận về thế mạnh và hạn chế
của LCC.
3.1. Ưu điểm của LCC
1. LCC có đặc tính liệt kê rất cao, bằng
cách liệt kê tất cả đối tượng trong quá khứ,
hiện tại và tương lai. Do số lớp LCC có ít
chủ đề tổng quát vì thế rất dễ sử dụng.
Điều này thật sự rất hữu ích để phân loại
tài nguyên trong thư viện lớn, có bộ sưu
tập toàn diện trên tất cả các chủ đề hoặc
thư viện chuyên ngành có chủ đề hẹp và ít
hơn, vì nó tạo điều kiện để phân lớp trở nên
đa dạng cho một loạt các chủ đề nhỏ hơn.
10. Số LCC có sẵn để sao chép mục
lục biên mục từ thư viện Quốc hội thông
qua truy cập trực tuyến và nhiều bản ghi từ
OCLC WorldCat (Mạng thư tịch toàn cầu).
11. Việc áp dụng số LCC được đưa ra
tại Thư viện Quốc hội là phù hợp với hầu
hết các bộ sưu tập trong thư viện khác. Một
nghiên cứu về tính nhất quán của LCC đưa
ra kết luận rằng, bất cứ một thư viện nào có
hệ thống tiêu đề, đề mục thì xác suất của
tiêu đề, đề mục đó có cùng số lớp trên LCC
đạt tỷ lệ trên 85% [3].
2. Khung LCC được xây dựng, sửa đổi
và duy trì bởi các chuyên gia chủ đề với
xuất phát điểm là kho tài nguyên có sẵn
trong thư viện, chứ không xây dựng từ tri
thức tổng hợp, vì thế các lớp cụ thể đều
mang một đặc trưng riêng biệt mà các lớp
khác không thể có.
3. LCC sửa đổi, cập nhật liên tục đối
với lớp, phân lớp. Web phân loại cập nhật
hàng ngày những thay đổi, bổ sung từ các
chuyên gia phân loại khi có quyết định từ
ban biên tập LCC.
12. LCC luôn có sự hỗ trợ của nguồn
tài nguyên thông tin khổng lồ của Thư viện
Quốc hội, vì thế LCC luôn đảm bảo độ tin
cậy, là công cụ hữu ích để sử dụng trong
tương lai một cách rộng rãi hơn.
3.2. Nhược điểm của LCC
1. LCC thiếu tính nhất quán: các bảng
được phát triển và duy trì bởi các chuyên
4. Thư viện Quốc hội thường xuyên
giới thiệu LCC đến đối tác của thư viện,
điều này mang đến cơ hội hợp tác, chia sẻ
nguồn thông tin rộng rãi trên toàn thế giới
bằng tất cả các ngôn ngữ. Hiện nay, Thư
viện Quốc hội đã có 6 văn phòng, 2 dự án
ở 5 châu lục. Đồng thời thiết lập “Chương
trình hợp tác kiểm soát chủ đề” (SACO) [4],
46
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 3/2018
NGHIỆP VỤ - KỸ THUẬT
gia khác nhau, mỗi chuyên gia phụ trách
về một chủ đề tương ứng, vì thế thiếu đi
sự nhất quán, nhưng điều này cũng có thể
được xem như là một lợi thế vì nó cho phép
mỗi bảng được phát triển theo cấu trúc độc
đáo.
2. LCC không có chỉ số tổng thể: điều
này chỉ đúng cho định dạng in của khung,
phiên bản trực tuyến bao gồm các chỉ số
thống nhất.
định tái phân loại (phân loại lại): ví dụ, số
lượng sách về tôn giáo (Phật giáo) tăng,
đòi hỏi người phân loại phải phân loại lại
chủ đề này bằng cách xóa khỏi phân lớp
BL và đưa về phân lớp mới BQ).
9. Một số phần của LCC đã lỗi thời và
phản ánh thế giới trong thế kỷ 19, đầu thế
kỷ 20: điều này đôi khi cần thiết để duy trì
tính ổn định của hệ thống và giảm thiểu
nhu cầu phân loại lại.
10. Chi phí in ấn khung và đăng ký
phiên bản trực tuyến là quá lớn: hiện nay
Thư viện Quốc hội đã cung cấp sẵn khung
LCC miễn phí như tệp PDF tải về cùng với
tài liệu hướng dẫn miễn phí cho việc phân
loại trên trang web của thư viện.
11. LCC hạn chế trong việc liệt kê các
chủ đề, sự phân chia không đồng đều
giữa các lớp và thiếu một mục lục hoàn
chỉnh cho toàn bộ khung phân loại: hạn
chế trong việc liệt kê đã không còn đúng,
xem “Ưu điểm 1 của LCC” - sự phân chia
không đồng đều giữa các lớp giờ đây đã
được cải thiện hằng ngày qua Web phân
loại vì LC đã tiếp nhận chủ đề mới thông
qua hệ thống trên toàn thế giới, như OCLC
và hơn 1.300 đối tác. Việc thiếu mục lục
hoàn chỉnh cho toàn bộ các lớp của LCC
chỉ còn đúng đối với các bảng in, chúng
hoàn toàn vô nghĩa đối với phiên bản trực
tuyến, đặc biệt đối với Web phân loại [1].
3. Phạm vi ghi chú của LCC ít mô tả: ít
hơn yêu cầu do số lượng đối tượng được
liệt kê quá lớn.
4. Có đánh giá cho rằng, LCC dựa trên
"Literacy warrant", phát triển từ các bộ sưu
tập của Thư viện Quốc hội, phản ánh tính
quốc gia, cục bộ. Tuy nhiên, điều này đang
được khắc phục và ngày càng trở nên tốt
hơn (xem ưu điểm thứ 4 trong "Ưu điểm
của LCC").
5. LCC có ít tài liệu hướng dẫn cho việc
phân tích các đối tượng: điều này không có
ảnh hưởng với ấn bản hướng dẫn phân loại
thống nhất và hướng dẫn sắp xếp trong
công cụ Cataloger's Desktop.
6. LCC quá đồ sộ đối với người phân loại
để hoàn toàn làm chủ nó và thường chậm
thay đổi khi có những cái mới trong thực tế:
sự hạn chế này không còn khi Web phân
loại ra đời, việc cập nhật mới hằng ngày trở
nên dễ dàng, kèm theo đó là chức năng tìm
kiếm nâng cao, cho phép người phân loại
hoàn toàn kiểm soát việc biên mục.
7. Đối với chủ đề phức tạp, đa chức năng
rất khó phân loại: tất cả các kế hoạch phân
loại phải đối mặt với vấn đề này. Một cuốn
sách được phân loại cho mục đích xếp giá,
số phân loại duy nhất phải dựa trên chủ đề
nổi bật của cuốn sách, nhưng trong trường
hợp tài liệu điện tử nhiều số phân loại có
thể được cung cấp cho mỗi chủ đề quan
trọng có trong tài liệu, điều này tạo ra nhiều
kết quả để truy cập dữ liệu hiệu quả hơn.
Kết luận
LCClàkhungphânloạiđượcthiếtlậpdựa
trên bộ sưu tập của Thư viện Quốc hội, được
sử dụng nhiều trong thư viện các trường đại
học nổi tiếng ở Hoa Kỳ và nhiều nước khác
trên thế giới. Theo thống kê từ website Thư
viện Quốc hội đã có hơn 1300 thư viện,
cơ quan thông tin sử dụng khung phân
loại LCC và trao đổi biểu ghi thư mục Thư
viện Quốc hội thông qua cổng Z39.50 [5].
Trong quá trình hình thành và phát triển,
từ một công cụ định vị tài liệu trong các
kho của Thư viện đã trở thành công cụ
cho phép duyệt tìm qua các danh mục trực
8. Việc sửa đổi khung đòi hỏi các quyết
47
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 3/2018
NGHIỆP VỤ - KỸ THUẬT
TÀI LIỆU THAM KHẢO
tuyến, tổ chức nguồn lực và cung cấp truy
cập điện tử vào mạng lưới thông tin. Vai trò
của LCC ngày càng quan trọng, hữu ích và
cần được khai thác trong môi trường hiện
tại như:
- LCC là phương tiện để tổ chức tài
nguyên trên web, có thể hỗ trợ tìm kiếm,
giới hạn hoặc mở rộng kết quả tìm kiếm.
- LCC cho phép liên kết dữ liệu trong
các bảng dựa trên Web phân loại, qua đó
tiến hành tổ chức, sắp xếp hiệu quả tài
nguyên trên thư viện số đối với từng lĩnh
vực chuyên ngành cụ thể. Việc kết hợp
LCC và Web Phân loại là một điều tuyệt
vời để trở thành một công cụ trong việc tổ
chức, quản lý và thu thập thông tin.
1. Đinh Thúy Quỳnh. So sánh khung phân
loại Thư viện Quốc hội Mỹ (LCC) và khung
phân loại thập phân Dewey (DDC), truy cập
vien-quoc-hoi-my-lcc-va-khung-phan-loai-thap-phan-
dewey-ddc-1516-vi.htm (ngày 1/12/2017)
2. Nguyễn Minh Hiệp (2011). Giới thiệu
khung phân loại LCC, Tạp chí Thư viện Việt
Nam số 2 (28) - 2011 (tr. 36-41)
3. Salman Haider
and RK Sharma
(2017). Library of Congress Classification
(LCC): past, present and its future in the digital
era, Annals of Library and Information Studies,
vol 64, September 2017, pp. 190-201
4. Library of Congress. About the SACO
saco/about.html(ngày 01/12/2017)
Với những phân tích ở trên, LCC là
một công cụ hữu ích dành cho tất cả các
thư viện, đặc biệt đối với thư viện chuyên
ngành, bởi LCC dễ sử dụng, có hướng dẫn
chi tiết, miễn phí trên Internet và nhiều công
cụ hỗ trợ. Cán bộ phân loại có thể nhận
thấy rằng, thư viện của Nhạc viện, Đại học
Mỹ thuật, Kiến trúc có thể dùng bảng (N –
Nghệ thuật), Viện Ngôn ngữ, Viện Văn học
(bảng P – Ngôn ngữ - Văn học), Đại học Y
dược (bảng R – Y học), Đại học Luật (bảng
K – Pháp luật)… kết hợp với các bảng khoa
học phụ trợ khác tạo nên một hệ thống kho
hoàn chỉnh. Với một chuyên ngành cụ thể,
LCC sẽ là công cụ thiết thực trong việc tổ
chức, sắp xếp nguồn tài nguyên trong các
thư viện chuyên ngành tại Việt Nam. Hiện
nay, Việt Nam có 2 đơn vị áp dụng khung
LCC vào phân loại tài liệu: Đại học Bách
khoa Hà Nội là thư viện đi đầu trong việc
áp dụng LCC năm 2005, tiếp đó là Đại học
Luật Tp. Hồ Chí Minh (2011). Các trường
đại học chuyên ngành thư viện cũng bắt
đầu đưa LCC vào chương trình giảng dạy
chính khóa, tiêu biểu có Khoa Thư viện-Văn
phòng, Trường Đại học Sài Gòn [2] chính
thức đưa vào giảng dạy năm 2009-2010,
các trường khác cũng bắt đầu giới thiệu về
LCC trong bài giảng chuyên đề phân loại.
5. Library of Congress. Gateway to library
gateway.html(ngày 01/12/2017)
6. Library of Congress, Library of
Congress Classification and Shelflisting
gov/aba/publications/FreeCSM/freecsm.html (ngày
01/12/2017)
7. Library of Congress. Library of
Congress Classification and Shelflisting
gov/aba/publications/FreeCSM/freecsm.html(ngày
01/12/2017)
8. Library of Congress. Library of
Congress Classification and Shelflisting
gov/aba/publications/FreeCSM/freecsm.html(ngày
01/12/2017)
9. Library of Congress. The Library of
loc.gov/loc/legacy/loc.html(ngày 01/12/2017)
10. Miksa, Francis. The LCC, truy cập tại
CatIEs- c09-p1-29-020306.pdf (ngày 01/12/2017)
11.
University of Mississippi Library.
Library of Congress Classification Guide, truy
pdf(ngày 01/12/2017)
48
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 3/2018
Bạn đang xem tài liệu "Giới thiệu khung phân loại thư viện Quốc hội Mỹ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
gioi_thieu_khung_phan_loai_thu_vien_quoc_hoi_my.pdf