Bài giảng Đại cương tiếng Việt ngữ âm tiếng Việt

TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHẠM VĂN ĐỒNG  
KHOA SƯ PHẠM XÃ HỘI  
BÀI GIẢNG HỌC PHẦN  
ĐẠI CƯƠNG TIẾNG VIỆT  
NGỮ ÂM TIẾNG VIỆT  
(Bậc Đại học)  
Người biên soạn: PHẠM THỊ QUYÊN  
QUẢNG NGÃI, tháng 6, năm 2021  
LỜI NÓI ĐẦU  
Bài giảng Đại cương tiếng Việt – Ngữ âm tiếng Việt dành cho sinh viên bậc  
đại học, chuyên ngành Sư phạm Ngữ văn, Ngôn ngữ học.  
Bài giảng chia thành 5 chương với những nội dung cụ thể như sau:  
- Chương 1: Đại cương về Ngữ âm học.  
- Chương 2: Âm tiết tiếng Việt.  
- Chương 3: Thanh điệu tiếng Việt.  
- Chương 4: Hệ thống âm vị tiếng Việt.  
- Chương 5: Chính âm, chữ viết và chính tả.  
Bài giảng mang tính lý luận nên khi biên soạn, người viết trình bày các vấn  
đề thiên về mặt xã hội nhằm cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về Ngữ  
âm tiếng Việt với những đặc điểm mang tính phổ quát cũng như những đặc trưng  
riêng biệt của nó.  
Trong việc phân tích ngữ âm học, người viết đã cố gắng vận dụng lý luận  
hiện đại cũng như những thành tựu nghiên cứu mới nhất của các nhà ngôn ngữ học  
đầu ngành.  
Khi sử dụng Bài giảng, sinh viên cần kết hợp với các tài liệu tham khảo liên  
quan để có cái nhìn tổng quát hơn về chuyên ngành này.  
CHƯƠNG 1  
ĐẠI CƯƠNG VỀ NGỮ ÂM HỌC  
1.1. Ngữ âm  
1.1.1. Âm thanh của ngôn ngữ  
Thế giới âm thanh có thể phân thành 2 loại:  
- Âm thanh do tự nhiên sinh ra.  
- Âm thanh do con người tạo ra.  
Trong đó, âm thanh do con người tạo ra, có thể phân thành 2 loại:  
- Âm thanh do bộ máy cấu âm của con người tạo ra.  
- Âm thanh do các hoạt động khác của con người.  
Chúng ta quan tâm đến một loại âm thanh đặc biệt, đó là âm thanh do bộ máy  
cấu âm của con người tạo ra.  
Sự lựa chọn này rất thuận lợi cho người sử dụng vì các lí do sau đây:  
a) Bộ máy cấu âm và thính giác đã có sẵn ở mỗi người;  
b) Việc giao tiếp bằng ngôn ngữ không ngăn cản con người khi lao động:  
miệng nói, tai nghe và tay chân vẫn làm việc được;  
c) Âm thanh không lệ thuộc vào ánh sáng: trong bóng tối con người vẫn có thể  
giao tiếp với nhau;  
d) Khi con người sử dụng bộ máy cấu âm thì đồng thời có thể dùng tai để  
kiểm tra âm thanh phát ra của mình và dùng mắt để theo dõi phản ứng của người  
nghe.  
Vậy, âm thanh của ngôn ngữ là âm thanh do bộ máy cấu âm của con người  
tạo ra. Nó có nghĩa và đảm nhận chức năng giao tiếp cộng đồng.  
Từ cách hiểu trên, chúng ta có thể rút ra hai hệ quả:  
- Không có âm thanh nào của ngôn ngữ mà vô nghĩa.  
- Mọi sự thay đổi về âm thanh của ngôn ngữ đều dẫn đến sự thay đổi về nghĩa.  
1.1.2. Ngữ âm là gì?  
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người. Nhưng  
ngôn ngữ là cái gì đó rất trừu tượng. Trong thực tiễn của hoạt động giao tiếp bằng  
ngôn ngữ, cái mà các nhân vật tham gia vào hoạt động giao tiếp – người nói và  
1
người nghe – có thể tri giác bằng chính thính giác không phải là cái gì trừu tượng,  
vô hình mà phải là một cái rất cụ thể. Cụ thể đến mức khi vắng mặt các nhân vật  
giao tiếp nhưng nhờ thường xuyên tiếp xúc với cái âm thanh cụ thể ấy, quen với nó  
mà ta có ấn tượng về nó, ghi nhớ và khắc sâu nên ta có thể nhận ra được âm thamh  
cụ thể ấy là tiếng nói của ai? Người ấy thuộc vùng phương ngữ nào? Giọng nói ấy  
có sức truyền cảm và tác động đến người nghe như thế nào? v.v. . . Như vậy,  
phương tiện giao tiếp ngôn ngữ tồn tại dưới hai dạng:  
Thứ nhất, đó là phương tiện giao tiếp ở dạng tiềm năng, tồn tại trong đầu óc  
của mỗi con người: ngôn ngữ.  
Thứ hai, đó là phương tiện giao tiếp ở dạng hiện thực, cụ thể, sinh động tồn tại  
trong thực tiễn của đời sống giao tiếp: lời nói - sản phẩm của hoạt động ngôn ng.  
Ngôn ngữ được coi là “nguyên liệu” còn lời nói được coi như là sản phẩm do  
cá nhân tạo ra từ nguyên liệu ấy. Giữa nguyên liệu và sản phẩm được chế ra từ  
nguyên liệu có mối quan hệ gắn bó mật thiết nhưng không đồng nhất với nhau. Đề  
cập đến vấn đề này, người ta thường nhắc đến F.de. Saussure ( 1857 - 1913), nhà  
ngôn ngữ học người Thụy Sĩ. Trước thời F.de. Saussure mối quan hệ giữa ngôn  
ngữ và lời nói đã được đặt ra nhưng người có công lớn nhất trong việc phân định  
ngôn ngữ và lời nói là F. de . Saussure. Trong Giáo trình ngôn ngữ học đại  
cương” ( 1916) - một giáo trình ngôn ngữ học nổi tiếng do hai học trò của ông là  
Charler Bally và Albert Sechehaye sưu tầm từ những bài giảng và vở ghi của các  
thế hệ sinh viên biên soạn lại, lấy tên của thầy mình có đoạn viết: "Ngôn ngữ tồn tại  
trong tập thể dưới dưới dạng thức một tổng thể những dấu vết đọng lại trong mỗi  
bộ óc, đại loại như một pho từ điển mà tất cả bản in vốn giống hệt nhau, được  
phân phối cho từng cá nhân... Lời nói có mặt trong tập thể ấy như thế nào ? Nó là  
cái tổng thể của những điều mà người ta nói, và gồm có:  
a. Những cách kết hợp của cá nhân tuỳ theo ý của những người nói;  
b. Những hành động phát âm cũng tuỳ ý như vậy cần thiết cho việc thực hiện  
những cách kết hợp này.  
Theo F. de. Saussure, chúng ta cần phải phân biệt ngôn ngữ và lời nói, bởi  
ngôn ngữ và lời nói có những điểm tương đồng nhưng cũng có những nét khác biệt.  
2
Cụ thể là: Chúng đều là những hình thức tồn tại của tiếng nói con người. Nghĩa là,  
tiếng nói con người tồn tại dưới hai hình thức: Ngôn ngữ (dạng trừu tượng) và lời  
nói (dạng cụ thề) .  
Từ những tư tưởng trên, chúng ta có thể rút ra những điểm khác biệt cơ bản  
giữa ngôn ngữ và lời nói:  
- Ngôn ngữ có tính chất xã hội còn lời nói có tính chất cá nhân.  
- Ngôn ngữ có tính chất cốt yếu còn lời nói có tính chất thứ yếu và ít nhiều  
ngẫu nhiên.  
- Nếu như trong lời nói bao giờ cũng bao gồm 4 mặt: mặt xã hội, mặt vật lý,  
mặt sinh lý và tâm lý thì trong ngôn ngữ chỉ có mặt xã hội, vì nó là tài sản chung  
của cả cộng đồng.  
- Vì là sản phẩm của xã hội nên ngôn ngữ là một hiện tượng biến đổi cực kỳ  
chậm chạp và mỗi lần có sự biến đổi thì buộc phải có sự đồng ý và thống nhất một  
cách tự giác của mọi thành viên trong cộng đồng, xã hội. Điều này đòi hỏi phải có  
thời gian thẩm định của cộng đồng, xã hội. Ngược lại, lời nói là một hiện tượng  
biến đổi thường xuyên và nhanh chóng bởi nó phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của  
từng cá nhân. Chính vì thế, ngôn ngữ bao giờ cũng mang tính ổn định còn lời nói thì  
không ổn định.  
- Ngôn ngữ là một hiện tượng khái quát và trừu tượng và chỉ có khả năng nhận  
thức qua các khái niệm, các mô hình cấu trúc ngôn ngữ. Còn lời nói thì ngược lại,  
tính chất cụ thể, có thể nhận thức được một cách trực giác bằng thính giác.  
Mặc dù có những sự khác nhau như vậy nhưng ngôn ngữ và lời nói luôn có  
mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Mối quan hệ này được nối kết nhờ hoạt  
động ngôn ngữ. Lời nói là những dạng hoạt động cụ thể của ngôn ngữ. Ngôn ngữ  
muốn tồn tại được phải thông qua hoạt động ngôn ngữ tức là phải thông qua những  
lời nói cụ thể. Ngôn ngữ là hiện tượng khái quát hoá từ muôn vàn những lời nói cụ  
thể thông qua hoạt động ngôn ngữ. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp ở dạng tiềm  
năng được trừu tượng hoá khỏi bất kỳ một dạng áp dụng cụ thể nào của chúng. Còn  
lời nói là sự hiện thực hoá ngôn ngữ với tư cách là phương tiện giao tiếp cụ thể, sinh  
động gắn liền với những nội dung giao tiếp cụ thể, xuất hiện trong những tình  
3
huống giao tiếp cụ thể.  
Nói tóm lại, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và lời nói là mối quan hệ giữa cái  
chung và cái riêng, giữa cái trừu tượng và cái cụ thể, giữa cái cốt yếu với cái thứ  
yếu. Cái chung có được là nhờ sự khái quát hoá từ muôn vàn những sự vật hiện  
tượng cụ thể đồng loại. Bất cứ cái chung nào cũng đều là tổng hòa những cái riêng,  
cái chung chỉ bao gồm gần hết những cái riêng chứ không thể chứa đựng hết tất cả  
mọi cái riêng biệt. Vì lẽ ấy, quy tắc nào cũng có ngoại lệ. Mọi quy tắc của ngôn ngữ  
cũng không thể vượt ra khỏi nguyên lý chung này. Ngược lại, cái riêng chỉ có thể  
tồn tại trong cái chung và bất cứ cái riêng nào cũng đều có tính chất chung. Nhờ  
vào tính chất chung để phân loại cái riêng. Tuy vậy, cái riêng vẫn là cái riêng không  
đồng nhất hoàn toàn trong bất cứ cái chung nào. Nhờ đó mà nó phân biệt mình với  
những cái chung khác cùng loại. Trong giao tiếp, người ta chỉ tiếp xúc với các lời  
nói cụ thể, riêng biệt được tạo ra trong những hoàn cảnh giao tiếp cụ thể riêng biệt.  
Những lời nói ấy được tạo ra dựa trên những nguyên tắc, nguyên lý chung - đó là  
những quy tắc ngôn ngữ được cộng đồng, xã hội quy ước thoả thuận và thống nhất  
sử dụng. Nhờ sự quy ước thống nhất ấy ngôn ngữ mới trở thành phương tiện giao  
tiếp chung của xã hội.  
Ngôn ngữ và âm thanh của ngôn ngữ (lời nói) thống nhất nhưng không  
đồng nhất.  
Trong cái chung và cái riêng, trong cái đồng nhất và khác biệt ấy, cái gì được  
gi ngữ âm?  
Với cách hiểu chung nhất, ngữ âm được hiểu là toàn bộ âm thanh ngôn ngữ và  
tất cả các quy luật, quy tắc kết hợp âm thanh, giọng điệu trong từ, trong câu của  
ngôn ngữ.  
1.2. Kiến trúc ngữ âm là gì?  
Âm thanh chỉ mới là mặt thể chất của ngôn ngữ. Để âm thanh của ngôn ngữ  
đóng vai trò là cái biểu đạt cho một cái được biểu đạt nào đó thì âm thanh ấy phải  
được sắp xếp theo những quy luật và quy tắc nhất định. Tất cả những quy luật và  
quy tắc ấy được gọi là kiến trúc ngữ âm của ngôn ngữ.  
Như vậy, kiến trúc ngữ âm là tổng hợp tất cả những quy luật, quy tắc kết hợp  
4
âm thanh, giọng điệu ở trong từ, trong câu của ngôn ngữ.  
1.3. Ngữ âm học và âm vị học  
1.3.1. Khái niệm  
Ngữ âm học là một khoa học nghiên cứu về âm thanh của ngôn ngữ loài người  
trong tất cả các hình thái và chức năng của nó.  
1.3.2. Nội dung nghiên cứu  
1.3.2.1. Ngữ âm học nghiã hẹp  
Nghiên cứu mặt tự nhiên của ngữ âm, tức là phân tích, miêu tả các âm thanh  
của ngôn ngữ theo góc nhìn sinh lý học (cấu âm) và theo góc nhìn vật lý học ( âm  
học).  
1.3.2.2. Âm vị học  
Nghiên cứu mặt xã hội của ngữ âm, tức là nghiên cứu những đặc điểm sử dụng  
hay chức năng của ngữ âm trong từng ngôn ngữ.  
Âm vị học và ngữ âm học nghĩa hẹp không loại trừ nhau mà bổ sung cho  
nhau. Khi nghiên cứu ngữ âm về mặt tự nhiên, nhà nghiên cứu không tránh khỏi  
những giải thuyết âm vị học và ngược lại âm vị học bao giờ cũng phải sử dụng kết  
quả của ngữ âm học nghĩa hẹp.  
1.3.3. Vai trò của ngữ âm học  
Ngôn ngữ là một hệ thống. Hệ thống ấy được xây dựng trên năm loại vật liệu  
cơ bản tạo thành năm cấp độ ngôn ngữ: âm vị, hình vị, từ, câu, văn bản. Theo đó,  
những hiểu biết về ngữ âm học sẽ giúp ích rất nhiều cho việc nghiên cứu các ngành  
khoa học khác của ngôn ngữ. Với ý nghĩa ấy, người ta cho rằng ngữ âm học là bộ  
môn khoa học cơ sở của ngôn ngữ học:  
- Đối với việc dạy phát âm.  
- Đối với việc xây dựng chữ viết và cải cách chữ viết.  
- Đối với việc phân tích giá trị biểu đạt âm thanh của ngôn ngữ trong tác phẩm  
văn chương.  
1.3.4. Kí hiệu ngữ âm  
Mỗi ngôn ngữ thường dùng một thứ chữ viết riêng, mỗi con chữ ghi một âm  
và ngược lại mỗi âm chỉ ghi một con chữ.  
5
Giá trị ngữ âm của các con chữ thay đổi tùy theo ngôn ngữ sử dụng chúng.  
Ví dụ: Tiếng Việt có kí hiệu ngữ âm của các nguyên âm và phụ âm.  
c,q,k - /k/  
ch - /c/  
th - /t/  
1.4. Cơ sở của ngữ âm  
1.4.1. Cơ sở tự nhiên  
1.4.1.1. Cơ sở sinh lí (cấu âm)  
Âm thanh của ngôn ngữ được tạo ra do sự hoạt động của bộ máy cấu âm của  
con người. Bộ máy này gồm: phổi, thanh hầu và các khoảng trên thanh hầu.  
- Phổi cung cấp và dẫn truyền luồng không khí cần thiết cho việc phát âm.  
Thanh hầu là bộ phận trên cùng của khí quản, giống như một cái hộp do bốn miếng  
xương sụn hợp thành trong đó có một bộ phận hết sức quan trọng để tạo ra âm  
thanh là dây thanh. Thực ra, dây thanh không phải là dây mà là hai màng mỏng  
giống như đôi môi. Nó có thể rung động, mở ra khép lại, căng lên chùng xuống theo  
sự chỉ huy của thần kinh.  
Nếu dây thanh tách xa nhau, cho phép luồng hơi thoát ra tự do mà không rung  
thì âm được tạo ra là âm vô thanh. Ví d: /p, s, t, f/ ... Nếu dây thanh khép hẳn rồi  
bật mở ra mà không rung, ta có âm tắc thanh hầu như ở âm tiết tiếng Việt mang  
thanh nặng. Nếu dây thanh khép lại nhưng chừa một khe hẹp cho luồng hơi đi qua  
và rung lên thì ta có âm hữu thanh.Ví dụ: /b, z, d, v/...  
Trên thanh hầu có các khoang kể từ dưới lên là khoang yết hầu khoang miệng  
và khoang mũi.  
- Khoang yết hầu ngay trên thanh hầu, có thể có hai cách hoạt động: hoặc  
bít lại (do gốc lưỡi kéo lui chạm vào thành họng) luồng hơi bị chận tại, tạo ra âm tắc  
yết hầu; hoặc thu hẹp lại (do gốc lưỡi kéo lui nhưng vẫn chừa một khe nhỏ), luồng  
hơi bị cọ xát, sinh ra âm xát yết hầu.  
- Khoang miệng là nơi xảy ra nhiều hoạt động cấu âm, ở đây bộ phận quan  
trọng nhất là lưỡi hoạt động rất tích cực: đầu lưỡi có thể chạm vào răng, lợi, ngạc  
(ngạc cứng), hoặc rung động hoặc uốn cong ; mặt lưỡi có thnâng lên đến ngạc ;  
6
lưng lưỡi có thể nâng lên đến mạc (ngạc mềm); gốc lưỡi có thể kéo lui chạm vào  
thành họng . Ở cuối mạc, có lưỡi con có thể rung động hay bít đường thông lên mũi.  
Môi có thề chúm hay bẹt, ngậm hay mở.  
- Khoang mũi có thể tham gia vào việc cấu âm. Khi lưỡi con nâng lên bít  
đường thông lên mũi, ta chỉ có âm miệng; khi mũi con hạ xuống, luồng hơi thoát  
qua khoang mũi, ta có âm mũi.  
1.4.1.2. Cơ sở vật lý (âm học)  
Ngữ âm cũng là âm thanh như bao hiện tượng âm thanh khác mà ta nghe thấy  
trong tự nhiên.  
Âm nói chung là kết quả của sự chấn động của không khí, bắt nguồn từ sự  
rung động của một vật thể nào đó. Âm truyền đi trong không khí dưới dạng những  
làn sóng nối tiếp nhau, với tốc độ chừng 340m/giây. Khi sự rung động có tính chất  
đều đặn, gây ra một ấn tượng êm tai thì đó là tiếng thanh.  
Mỗi âm được phân biệt bằng 4 yếu tố:  
- Trường độ (độ dài): Phụ thuộc vào thời gian lâu hay mau của âm.  
Ví d: a/ă trong an/ăn.  
- Cao độ (độ cao): Phụ thuộc vào tốc độ rung động, tức là số lượng rung động  
xảy ra trong một đơn vị thời gian.  
Ví dụ: i, u, ư cao hơn ê, ô, ơ.  
- Cường độ: Độ mạnh, nhẹ của âm thanh.  
Ví dụ: nguyên âm a, ă, â,…vang to hơn phụ âm b, n, v…  
- Âm sắc: Sắc thái riêng của âm thanh.  
1.4.2. Cơ sở xã hội  
Âm thanh, như đã nói ở trên, tự nó không có ý nghĩa gì, không có chức năng  
gì. Nó chỉ có ý nghĩa, nghĩa là được giao cho chức năng truyền đạt, khi được một  
tập thể (XH) thừa nhận và sử dụng để biểu thị một sự vật gì đó trong giao tiếp.  
Tính xã hội (chức năng giao tiếp) của ngữ âm thể hiện:  
Về chất liệu âm thanh: Mỗi xã hội, mỗi dân tộc sử dụng một hệ thồng ngữ âm  
riêng. Có âm được xã hội này ưa thích mà không được xã hội kia chọn dùng.  
Ví dụ: Tiếng Anh không có các âm /ư/, /nh/ như tiếng Việt; tiếng Nga không  
7
có các âm /h/, /th/ như tiếng Việt.  
Về xử lý chất liệu âm thanh: Xử lý như thế nào là tùy thuộc vào sự quy ước và  
thỏa thuận thống nhất của các thành viên trong cộng đồng sử dụng ngôn ngữ ấy.  
Ví dụ: Trong tiếng Việt và tiếng Anh đều sử dụng âm /i/, /u/, /d/ nhưng cách  
xử lý các âm này trong hai ngôn ngữ lại không giống nhau; tiếng Việt phân biệt 2  
âm /ô/ /o/ nhưng trong tiếng Nga không thấy có; tiếng Việt phân biệt /t/ /th/  
nhưng tiếng Anh chỉ coi là một.  
Về kiến trúc ngữ âm của ngôn ngữ: Trong các ngôn ngữ khác nhau có sự lựa  
chọn cách kết hợp âm thanh khác nhau.  
Ví dụ: Tiếng Việt âm /ng/ có thể đi trước hay sau nguyên âm, còn tiếng Anh  
chỉ có thể đi sau nguyên âm.  
Về ý nghĩa của âm thanh ngôn ngữ: Sở dĩ âm thanh của ngôn ngữ có nghĩa và  
có chức năng giao tiếp trong cộng đồng được là do giữa các thành viên trong cộng  
đồng cùng sử dụng một ngôn ngữ ấy có sự thỏa thuận và thống nhất với nhau về  
nghĩa của âm thanh ấy.  
1.5. Các đơn vị ngữ âm  
1.5.1. Các đơn vị ngữ âm đoạn tính  
1.5.1.1. Âm tiết  
a. Khái niệm  
Âm tiết là đơn vị phát âm nhỏ nhất. Mỗi lần phát âm ta được một âm tiết.  
Ví dụ: Thương người như thể thương thân (6 âm tiết).  
b. Phân loại âm tiết  
Người ta thường dựa vào cách kết thúc âm tiết để phân loại âm tiết.  
- Âm tiết mở: là những âm tiết không có âm cuối kết thúc âm tiết. Ví dụ: la,  
loa, tuy, quý…  
- Âm tiết nửa mở: là những âm tiết kết thúc bằng bán nguyên âm (i/y, o/u). Ví  
dụ: hai, tai, cày, cao, đào, đau…  
- Âm tiết nửa khép: là những âm tiết kết thúc bằng phụ âm mũi (m, n, ng, nh).  
Ví dụ: nam, tan, ngang, nhanh…  
- Âm tiết khép: là những âm tiết kết thúc bằng các phụ âm tắc – vô thanh (t, c,  
8
ch, p). Ví dụ: đáp, tát, mát, các, cách…  
1.5.1.2. Âm tố  
a. Khái niệm  
Âm tố là đơn vị ngữ âm nhỏ nhất trên ngữ tuyến, không thể chia ra được nữa.  
Hay nói cách khác, âm tố là đơn vị phát âm tự nhiên nhỏ nhất của lời nói.  
Ví dụ: Hãy đọc chậm ta, la, đa…kéo dài ra để quan sát động tác của lưỡi. Ta  
thấy, khi đọc ta, đầu lưỡi chạm vào răng sau đó hạ xuống; khi phát âm âm tiết  
đa”, đầu lưỡi không chạm vào răng mà chạm vào lợi rồi sau đó hạ xuống; khi phát  
âm âm tiết la, đầu lưỡi nâng lên phần ngạc (vòm trên của miệng) rồi hạ xuống.  
Như vậy, cứ mỗi lần thay đổi vị trí của lưỡi sẽ tạo ra những đơn vị nhỏ hơn nằm  
trong lòng âm tiết và dùng để tạo nên âm tiết.  
Quy ước để ghi âm tố là đặt ký hiệu trong ngoặc vuông [a], [t].  
Tương tự, hãy xác định vị trí của lưỡi ở âm tiết xa, xát.  
b. Phân loại âm tố  
Dựa vào đặc trưng âm học và đặc điểm cấu âm, người ta phân ra hai loại âm tố  
chính là nguyên âm và phụ âm.  
Để phân biệt nguyên âm và phụ âm, người ta dựa vào 2 tiêu chí cơ bản sau:  
- Dựa vào đặc trưng âm học hay còn gọi là cơ sở vật lý: Theo cơ sở này thì  
nguyên âm chủ yếu được cấu tạo bằng tiếng thanh, còn phụ âm chủ yếu là tiếng  
động.  
- Dựa vào đặc điểm cấu âm hay dựa vào cơ sở sinh lý: Khi phát ra nguyên  
âm, luồng hơi đi ra tự do nên yếu dần, còn khi phát ra phụ âm luồng hơi bị cản trở  
nên luồng hơi đi ra mạnh hơn. Và khi phát ra nguyên âm, độ căng của các bộ phận  
cấu âm phân bố đều đặn, còn khi phát ra phụ âm, độ căng thường tập trung ở một  
hai bộ phận, tạo nên cái được gọi là điểm cấu âm.  
Ví d: So sánh nguyên âm [a] và phâm [b], ta thy:  
[a]: ming mrng, luồng hơi đi ra tự do.  
[b]: hai môi ngm li, luồng hơi bị chặn đứng hoàn toàn.  
c. Phân loại nguyên âm  
Dựa vào 4 tiêu chí cấu âm.  
9
- Chiều hướng của lưỡi: Khi phát ra một nguyên âm lưỡi có thể dịch chuyển  
theo 3 vị trí, đó là đưa về phía trước, lùi về phía giữa hoặc kéo hẳn về phía sau.  
Theo đó ta có:  
+ Nguyên âm dòng trước: /i, ê, e/  
+ Nguyên âm dòng giữa: /ư, ơ, a/  
+ Nguyên âm dòng sau: /u, ô, o/  
- Độ mở của miệng: Khi phát ra một nguyên âm, miệng có thể mở theo 4 độ  
mở tạo ra bốn loại nguyên âm khác nhau.  
+ Nguyên âm rộng: /a, ă/  
+ Nguyên âm hơi rộng: /e, o/  
+ Nguyên âm hơi hẹp: /ê, ơ, ô/  
+ Nguyên âm hẹp: /i, ư, u/  
- Hình dáng của môi: Khi môi chum tròn hoặc không chum tròn ta có 2 loại  
nguyên âm.  
+ Nguyên âm tròn môi: /u, ô, o, uô/  
+ Nguyên âm không tròn môi: /i, ê, e, ư, ơ/  
- Trường độ của nguyên âm: Nguyên âm có thể kéo dài hay rút ngắn, ta có 2  
loại:  
+ Nguyên âm dài:/i, ê, e, ư, ơ, u, ô, o/  
+ Nguyên âm ngắn: /a, â, o, ă/  
d. Phân loại phụ âm  
Dựa vào phương thức phát âm  
- Phương thức tắc: Luồng hơi bị cản trở hoàn toàn (bế tắc), rồi sau đó mới  
thoát ra. Ta có , phụ âm tắc mũi (luồng hơi thoát ra đằng mũi [m, n,ng], phụ âm tắc  
(luồng hơi thoát ra đằng miệng [b, d, p,…].  
- Phương thức xát: Luồng hơi không bị cản trở hoàn toàn mà lách qua một  
khe hẹp do hai bộ phận cấu âm tạo ra và cọ xát với thành khe. Ta có, phụ âm xát  
(luồng hơi đi ra giữa miệng), như [ ph, v, x, d/gi], phụ âm bên (luồng hơi đi ra lách  
qua một hay hai bên lưỡi), như [l].  
- Phương thức rung: Âm phát ra bị rung lên [r].  
10  
Da vào bphn cu âm  
- Phâm môi: Hai môi [b, m], môi – răng [ph, v].  
- Phụ âm lưỡi: Đầu lưỡi [tr, r,t, đ…], mặt lưỡi [ch, nh], cuối lưỡi hay gốc lưỡi  
[ c/q/k, kh, g/gh, ng].  
- Phâm hng hay thanh hu: [ r, h].  
1.5.1.3. Âm vị  
a. Đặc trưng khu biệt  
Mi âm tmang mt số đặc trưng về cu âm và âm hc. Chng hn, âm t/t/  
có các đặc trưng: tắc, vô thanh, bật hơi, đầu lưỡi li.  
Ví d: /th/ trong tha, thu, tham, than khác nghĩa với /t/ trong ta, tu, tam, tan  
Đặc trưng ngữ âm có giá trkhu bit về ý nghĩa được gọi là đặc trưng khu biệt  
.
b. Khái nim  
Âm vị là đơn vị nhnht ca ngôn ngữ dùng để cu to hình vvà phân bit  
nghĩa các hình vị. Hay nói cách khác, âm vị là đơn vị đoạn tính nhnht có chc  
năng phân biệt nghĩa.  
Ví d: cam/tam, cam/căm, cam/can ,…  
Các đơn vị ngữ âm trên chưa phải là đơn vị ngâm nhnht, bi chúng có thể  
chia nhra thành những đơn vị nhỏ hơn: c, a, ă, m, n. Nhưng cam, căm, can…là  
những đơn vị nhnhất mà có nghĩa, vì phá vỡ nó ra ta sẽ thu được những đơn vị  
nhỏ hơn nhưng vô nghĩa. Ta gi những đơn vị nhnhất mà có nghĩa là hình vị.  
Những đơn vị nhnhất như c, a, ă, m, n có chức năng cơ bản sau:  
- Đây là những đơn vị nhnht ca ngôn ngữ  
- Những đơn vị này dùng để cu to nên hình vcam, căm, can.  
- Nhskhác bit của các đơn vị này mà các hình vnói trên phân bit nhau  
về nghĩa.  
Quy ưc ghi ký hiu âm vtrong hai gch du nghiêng /t/.  
c. Mi quan hgia âm vâm tố  
- Âm vị là đơn vị trừu tượng ca ngôn ng. Nó chbao gm mt chùm các đặc  
11  
trưng khu biệt được thhiện đồng thi.  
Ví d: Trong tiếng Vit, khi phát âm /d/ , nó tp hợp các đặc trưng khu biệt  
sau: tc hu thanh – đầu lưỡi li.  
- Âm vlà cái chung, cái xã hi, cái bt buc.  
- Khi thhin ra ngoài trong hoạt động giao tiếp, âm vlà cái riêng, cái cá  
nhân, nhưng trong cái riêng bắt buc phi có cái chung. Ta gi sthhiện đó là các  
âm t.  
Do vy, âm tlà sthhin âm vtrong li nói.  
1.5.2. Các đơn vị ngữ âm siêu đoạn tính  
1.5.2.1. Thanh điệu  
a. Khái nim  
Thanh điệu là khái niệm dùng để chỉ cao đca mt âm tiết.  
Thanh điệu được thc hin bng srung bt ca dây thanh. Tùy theo srung  
động nhanh hay chm, nhiu hay ít, mnh hay yếu… mà ta có các thanh khác nhau.  
b. Số lượng  
Trong tiếng Vit hiện đại, 6 thanh điệu có giá trâm hc là: ngang, huyn, ngã,  
hi, sc, nng.  
Trong ký hiu ngữ âm, người ta dùng các con số để chdu thanh: 1 (ngang),  
2 (huyn), 3 (ngã), 4 (hi), 5 (sc), 6 (nng).  
Ví d: ta [ta], tà [ta], tã [ta ], t[ta], tá [ta ], t[ta ].  
1.5.2.2. Trng âm  
a. Khái nim  
Hiện tượng phát âm nhn mnh vào mt yếu tngữ âm nào đó trong chuỗi li  
nói làm cho nó ni bật lên được gi là trng âm.  
Snhn mạnh thường được thhin bng các cách:  
- Tăng đmnh phát âm  
- Tăng đdài phát âm  
- Lên xung ging  
b. Phân loi trng âm  
- Trng âm t:  
12  
Phthuc vào 4 yếu tố: độ lớn, độ dài, độ trm bng và skhác bit về đặc  
tính ca các nguyên âm.  
- Trng âm câu:  
Thường thhin cui mt ngữ đoạn hoc là nhn mnh vào sphát âm mt  
từ mà người nói mun nêu bt ni dung hay tp trung lượng thông tin cho từ đó.  
Ví d: Lan /đi mua cá /với li khế /vnu canh  
1
0 0 1 0 0 1 0 0  
1
1.5.2.3. Ngữ điệu  
a. Khái niệm  
Ngữ điệu là sự thay đổi âm điệu của toàn bộ câu nói. Hay nói cách khác, ngữ  
điệu là âm điệu của toàn bộ câu nói do người nói phát âm lúc mạnh, lúc yếu, lúc  
nhanh, lúc chậm, lúc cao, lúc thấp, có khi liên tục, có khi ngắt quãng.  
b. Tính chất chung  
Ngữ điệu đi xuống ở cuối câu là câu tường thuật, ngữ điệu đi lên là câu nghi  
vấn.  
Ví dụ: (1) Cô ấy là sinh viên. (Câu tường thuật)  
(2) Cô ấy là sinh viên? (Câu nghi vấn)  
c. Các loại ngữ điệu  
- Ngữ điệu yếu:  
Xuất hiện ở cuối ngữ đoạn có nghĩa là người nói chưa hoàn thành lời nói của  
mình. Khi ở cuối phát ngôn, nó có thể có nghĩa là người nói bị ngắt lời vì một ý  
nghĩ nào đó hay vì một kích thích bên ngoài, hoặc chỉ đơn giản có nghĩa là người  
nói để lửng.  
Trong chữ viết, ngữ điệu yếu khi ở cuối ngữ đoạn được biểu thị bằng dấu pháy  
(,) và đôi khi bằng dấu ba chấm (…).  
Ví dụ: (1) Tôi đến nhà, má tôi mở cửa ra, tôi vô.  
(2) Nếu tôi không đi được…  
- Ngữ điệu mạnh:  
Có khi ở giữa câu nói, nhưng thông thường rơi vào những âm tiết cuối câu.  
Ngữ điệu mạnh thường dùng trong câu cảm thán, câu mệnh lệnh:  
13  
Ví dụ: (1) Tôi không đi! Ông đi không?  
(2) Muốn hỏi về chuyện gì?  
- Ngữ điệu xuống:  
Xuất hiện ở cuối câu, cho biết người nói tin chắc vào hiệu quả lời nói của  
mình và người nghe sẽ phản ứng một cách nào đó.  
Khi dùng ngữ điệu này ở câu tường thuật và câu mệnh lệnh, người nói cho  
rằng người nghe sẽ chấp nhận, còn dùng nó ở câu hỏi thì người nghe chờ đợi câu trả  
lời ( trên chữ viết thường ghi bằng dấu chấm (.).  
Ví dụ: (1) Ông cho tôi coi.  
(2) Ông có biết không?  
- Ngữ điệu treo:  
Giọng nói lên cao ở cuối câu, có nghĩa là người nói không thể hay vì một lý do  
nào đó không đoán trước được kết quả lời nói của mình.  
Ngữ điệu này thấy ở câu tường thuật hồ nghi, ở câu mệnh lệnh không quả  
quyết và ở câu hỏi để thông báo.  
Ví d: (1) Chừng nào ông đi Sài Gòn?  
(2) Tôi muốn hỏi ông.  
(3) Nói chuyện đi.  
Ngữ điệu tiếng Việt còn dùng để tỏ bày thái độ tình cảm của người nói (à, ư,  
nhỉ, nhé…).  
Ngữ điệu nói chung không làm thay đổi ý nghĩa từ vựng mà chỉ làm thay đổi ý  
nghĩa ngữ pháp. Các ngữ điệu khác sẽ biến đổi một phát ngôn thành một câu tường  
thuật, câu hỏi, câu cảm…  
Ví dụ: Íts raining. Its raining? Its raining !  
………………………………………………………………………  
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập:  
1. Phân tích vai trò ca ngâm hc.  
2. Phân bit hai khái nim âm tiết và âm t.  
3. Phát âm và nhận xét để phân loi các âm tiết tiếng Vit sau: y tá, hp  
tác xã, xe Nht Bn, nó Huế.  
14  
4. Bt tai li phát âm /f/ thành chui dài f f f f…, rồi phát âm /v/ thành  
chui dài v v v v…. Lưu ý , khi phát âm /v/, trong tai có tiếng ù đặc bit do dây  
thanh rung động to ra (khi phát âm /f/ thì không có): âm /v/ là âm hu thanh,  
âm /f/ là vô thanh.  
Theo cách thc y, hãy phân bit các âm sau: s/z, b/p, t/d, g/k  
5. Bịt mũi phát âm /n/ và /t/. Ở trường hợp đầu, ta snhn thy có tiếng  
vang trong khoang mũi; ở trường hp sau, không nhn thấy như thế. Âm /n/ là  
âm mũi, còn âm /t/ là âm ming.  
Theo cách thc y, hãy phân bit các âm sau: i, m, b, nh, ch, o, ng.  
6. Phân bit nguyên âm và phâm.  
7. Trình bày các tiêu chí để phân bit nguyên âm. Anh/chhiu thế nào  
là nguyên âm dòng trước, dòng gia và dòng sau. Cho ví d.  
8. Để phân bit các phụ âm người ta dựa vào cơ sở nào? Cho ví dvà  
phân tích.  
9. Ngữ điệu là gì? So sánh ngữ điệu với thanh điệu và trng âm, từ đó  
rút ra điểm ging và khác nhau giữa ba đơn vị này.  
15  
CHƯƠNG 2  
ÂM TIẾT TIẾNG VIỆT  
2.1. Đặc điểm của âm tiết tiếng Việt  
2.1.1. Ranh giới của âm tiết thường trùng với ranh giới của hình vị  
Trong tiếng Việt ranh giới âm tiết thường trùng với ranh giới hình vị. Âm tiết  
trong tiếng Việt có cương vị ngôn ngữ học khác với âm tiết trong các ngôn ngữ Ấn  
Âu. Mỗi âm tiết thường được cảm nhận là một từ hay ít nhất là một yếu tố tạo từ  
(hình vị). Thông thường một phát ngôn có bao nhiêu âm tiết là có bấy nhiêu hình  
vị.  
Phân tích một phát ngôn và xét nó trên hai bình diện: về mặt ý nghĩa và sau đó  
về mặt ngữ âm thuần túy rồi so sánh kết quả với nhau ta sẽ thấy được tình hình này.  
Phát ngôn sau:  
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây  
Nếu được phân tích trên bình diện thứ nhất, bằng cách đối chiếu với những  
phát ngôn khác như “Hôm qua tát nước đầu đình/ bỏ quên chiếc áo trên cành hoa  
sen” ... và rút ra những đơn vị có ý nghĩa nhỏ nhất, tức hành vị, ta sẽ có 6 hình vị  
khác nhau.  
Phát ngôn trên nếu được phân tích trên bình diện thứ hai bằng cách căn cứ vào  
trọng âm, vào luồng hơi thở khi phát âm và đi tới những đơn vị phát âm nhỏ nhất,  
tức âm tiết, thì ta có được 6 âm tiết.  
Số lượng âm tiết và số lượng hình vị bằng nhau và ranh giới của chúng trùng  
nhau. Mỗi âm tiết là hình thức biểu đạt của một hình vị. Đặc điểm này làm cho ranh  
giới các âm tiết thêm dứt khoát.  
Trái lại, trong các ngôn ngữ Ấn - Âu tình hình không phải thế.  
Ở đây, ranh giới hình vị không nhất thiết trùng với ranh giới âm tiết mà trùng  
với ranh giới âm vị và mỗi âm vị có thể là hình thức biểu đạt của mỗi hình vị.  
Trong tiếng Việt có thể dẫn ra những từ như “u(với nghĩa là mẹ), “ô(vật  
che mưa), y(nó) để nói rằng một âm vị cũng có thể làm hình thức biểu đạt của  
một hình vị. Trước hết, theo giải thuyết âm tiết có thể chỉ được giữ lại hai bộ phận  
hạt nhân là thanh điệu và âm chính còn những thành phần khác có thể khuyết thì  
16  
những từ trên có 5 âm vị. Âm đầu là một âm tắc thanh hầu. Thanh điệu “không dấu”  
cũng lả một âm vị. Song, dù theo một giải thuyết khác, cho rằng những từ trên chỉ  
gm có một nguyên âm đơn nhất, thì điều đó cũng không bác bỏ nhận định rằng  
trong tiếng Việt một hình vị được biểu hiện bằng một âm tiết. Ở đây, những âm vị  
/u, o, i/ được thể hiện trong lời nói thành những âm tiết độc lập và khi đã là âm tiết  
(hình vị) thì tối thiểu nó phải gồm hai âm vị chứ không phải chỉ có âm vị nguyên  
âm.  
Ta nói âm tiết thường trùng với hình vị là vì cũng có một số trường hợp âm  
tiết không đóng vai trò là vỏ hình thức ngữ âm của một hình vị. Trường hợp này  
xảy ra chủ yếu với các từ vay mượn nhưng từ thuần Việt vẫn có dù là ít ỏi.  
Ví dụ: - Thuần Việt: mồ hôi, bồ hòn, bồ hóng, …  
- Từ vay mượn : xì dầu, mì chính, ki ốt, cà phê, ...  
2.1.2. Âm tiết tiếng Việt là đơn vị nói rời và viết rời  
Trong tiếng Việt, khi phát ra một chuỗi lời nói, các âm tiết đứng tách biệt với  
nhau một cách rõ ràng, dứt khoát. Đặc điểm này được tạo nên bởi tính cố định về  
kết cấu và tính có nghĩa của âm tiết như đã trình bày ở trên.  
Tính đơn lập của âm tiết đưa đến hai thói quen ở người Việt: thói quen nói rời  
thói quen viết rời theo từng âm tiết. Vì thế, khi đọc giữa các âm tiết bao giờ cũng  
một khoảng im lặng đủ để phân biệt âm tiết này với âm tiết khác. Cũng như vậy,  
khi viết giữa các âm tiết bao giờ cũng có khoảng trống trên trang giấy đủ để ngăn  
cách âm tiết này với âm tiết khác.  
Ví dụ: Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp  
Do tính rời rạc và tính có nghĩa nên âm tiết tiếng Việt là một đơn vị đa chức  
năng. Vì tính “đa năng” này nên âm tiết tiếng Việt trở thành đơn vị trung tâm của  
việc nghiên cứu tiếng Việt.  
2.1.3. Âm tiết là cơ sở để phân tích âm vị học  
Trong tiếng Việt âm tiết là điểm xuất phát của việc phân tích âm vị học .  
Về định nghĩa và phương pháp phân xuất âm vị, các nhà ngữ âm - âm vị học  
có thể đưa ra những ý kiến khác nhau, nhưng có một thực tế khách quan là trong các  
ngôn ngữ Ấn - Âu mỗi âm vị thường liên hệ với một ý nghĩa ... các yếu tố biểu  
17  
tượng về ngữ nghĩa thường được liên hệ với các yếu tố biểu tượng về âm thanh,  
chẳng hạn âm ltrong các từ được liên hội với các biểu tượng thời quá khứ; a”  
trong các từ liên hội với các biểu tượng chủ ngữ, utrong các từ liên hội với các  
biểu tượng đối tượng... Nhờ những sự liên hội như vậy mà các yếu tố biểu tượng về  
âm thanh của ta có được một tính chất độc lập nhất định và do đó chuỗi lời nói được  
phân chia ra các âm tố hay các âm v.  
Thực tế này là cơ sở của các định nghĩa về âm vị mà Zinder đã dẫn lại của  
Sherba, coi âm v“những yếu tố ngắn nhất có thể có được của ngôn ngữ”. Tác  
giả sách Ngữ âm học đại cương còn giải thích thêm ... với tư cách những yếu tố  
có hay ít ra có thể có ý nghĩa, các âm vị có thể trở thành những yếu tố của ngôn  
ngữ, nếu nó đóng vai trò hình vị hay từ .  
Tóm lại, theo các nhà khoa học trên, đã là âm vị thì phải có khả năng biểu đạt  
được một hình vị và điều kiện quan trọng để phân xuất ra các âm vị là khả năng tìm  
thấy những ranh giới hình thái học đi qua giữa các âm tố.  
Trong tiếng Việt đơn vị ngữ âm có khả năng “đóng vai trò hình vị hay từ” là  
âm tiết. Đơn vị nhỏ hơn âm tiết lại không có khả năng ấy. Như vậy, một hệ luận  
logic có thể rút ra được là trong tiếng Việt không có âm vị như những âm vị /a/, /u/,  
của các ngôn ngữ Ấn - Âu, hoặc trong tiếng Việt cả âm tiết là một âm vị.  
Tình hình này xảy ra không chỉ trong tiếng Việt mà còn trong một số ngôn  
ngữ phương Đông. Một số nhà đông phương học xô viết như Ivanov, Polivalov,  
Dragunov - đưa ra thuật ngữ “âm tiết vị” là hoàn toàn có lý.  
Trước tình hình tiếng Việt như vậy, chúng ta nên quan niệm như thế nào?  
Chúng ta thừa nhận rằng âm tiết trong tiếng Việt có cương vị ngôn ngữ học như âm  
vị trong các ngôn ngữ Ấnu, nhưng cũng khó lòng quan niệm rằng âm tiết là một  
đơn vị nhất thể, mà phải là một cấu trúc và như vậy chúng ta không thể áp dụng  
định nghĩa về âm vị của Sherba đã đề ra cho các âm vị tiếng Việt. Nhưng nếu thừa  
nhận định nghĩa âm vị như những đơn vị khu biệt của ngôn ngữ thành tiếng thì có  
thể nói rằng tiếng Việt vẫn có âm vị. Chỉ có điều khác nhau là âm vị của chúng ta có  
một cương vị âm vị học đơn thuần trong khi âm vị của các ngôn ngữ Ấn-Âu có  
được một cương vị kép: cương vị âm vị học và cương vị hình thái học.  
18  
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 65 trang baolam 14/05/2022 4780
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Đại cương tiếng Việt ngữ âm tiếng Việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_dai_cuong_tieng_viet_ngu_am_tieng_viet.pdf