Về tổ chức trần thuật trong ngục Kon Tum của Lê Văn Hiến và lao tù của Thiên Giang

HNUE JOURNAL OF SCIENCE  
DOI: 10.18173/2354-1067.2021-0009  
Social Sciences, 2021, Volume 66, Issue 1, pp. 72-79  
VTCHC TRN THUT TRONG NGC KON TUM  
CỦA LÊ VĂN HIẾN VÀ LAO TÙ CA THIÊN GIANG  
Phạm Văn Ðại  
Ban Tuyên giáo Thành y Hi Phòng  
Tóm tt. Ði vi bt kì mt tác phẩm văn xuôi nào thì trần thuật đều đóng một vai trò quan  
trng trong vic to dng nên cu trúc, bcc ca tác phm, trong vic la chn, tchc,  
đưa ra những vấn đề, svt, svic, hiện tượng, đối tượng cthể, được miêu tvào trong  
tác phm khiến cho ni dung, ct truyn ca tác phẩm đó luôn được trin khai, không bị ứ  
đọng, ngưng trệ. Tiếp cn tác phm Ngc Kon Tum của Lê Văn Hiến và Lao tù ca Thiên  
Giang qua phương diện trn thut sgiúp chúng ta hiu rõ thêm phn nào vcu trúc và ni  
dung ca tác phm, ni bt lên hình ảnh cao đẹp ca những người chiến sĩ yêu nước, khao  
khát tdo, sn sàng hi sinh vì tưởng cách mng.  
Tkhóa: trn thut, tchc trn thut, Ngc Kon Tum, Lê Văn Hiến, Lao tù, Thiên Giang,  
văn học nhà tù tri giam.  
1. Mở đầu  
“Trần thuật” (narration), như chúng ta biết là một phương diện quan trọng và cơ bản ca tự  
s, vmt thut ngữ “trần thut là hành vi ngôn ngk, thut, miêu tskin, nhân vt theo  
mt thtnhất định” [1; 59] hay cthể hơn “là việc gii thiu, khái quát, thuyết minh, miêu tả  
đối vi nhân vt, skin, hoàn cnh, svt theo cách nhìn ca một người trn thut nhất định.  
Vai trò ca trn thut rt lớn” [2; 364]. Trn thut dmt phn quan trng vào vic to dng  
nên cu trúc, bcc ca tác phm. Các skin, nhân vật được k, gii thiu, thuyết minh theo  
nhiu chiu khác nhau. Mt sbin pháp trn thuật thường gp là kxuôi, kể ngược, kể đan  
xen. Trong quá trình tác gikể như vậy, bcục, đặc bit là kết cu ca tác phẩm được hình  
thành. Cn nhn mnh thêm rng, trong mt tác phẩm văn học, nht là vi các tác phm tscó  
tính chất dài hơi, việc vn dng khái nim trn thut, tchc các yếu ttrn thuật có ý nghĩa hết  
sc to ln, không chgiúp hiu thêm vkết cu ca tác phm, cách thc tchc nhân vt, skin  
mà qua đó còn giúp nm bt các tng lp ni dung ca tác phm y.  
Các sáng tác văn thơ của các chiến sĩ yêu nước trong nhà tù thực dân, đế quc chiếm mt  
phn quan trọng trong văn học cách mng và mang giá trnghthuật độc đáo, nhưng hiện nay  
còn ít công trình nghiên cu chuyên sâu vnhng thành tựu này. Ðây đó chỉ có mt scông  
trình nhắc đến văn học cách mng hoc chgii thiu mt vài tác gia, tác phm chứ chưa làm  
ni bt giá trni dung và nghthut trong sáng tác ca những người chiến sĩ cách mạng như  
mt phm cht tinh thần độc đáo trong lịch sử đấu tranh vì độc lp, tdo ca Tquc. Trong số  
các sáng tác văn xuôi thuộc dòng văn hc nhà tù tri giam ni lên hai tác phm Ngc Kon Tum  
của Lê Văn Hiến và Lao tù ca Thiên Giang, nó không chlên án, tcáo ti ác ca thc dân  
Pháp, khc ha hoàn cnh sng tù ngục đầy ry hiểm nguy mà hơn cả còn giúp cho người đọc  
Ngày nhn bài: 2/1/2021. Ngày sa bài: 29/1/2021. Ngày nhận đăng: 10/2/2021.  
Tác giliên h: Phạm Văn Đại. Địa che-mail: phamvandai.btghp@gmail.com  
72  
Vtchc trn thut trong Ngc Kon Tum của Lê Văn Hiến và Lao tù ca Thiên Giang  
cm nhn rõ ý chí chiến đấu và nhng cái chết hóa thành bt tcủa người chiến sĩ yêu nước.  
Tính đến thời điểm hin ti không có nhiu công trình, bài viết nghiên cu vNgc Kon Tum  
của Lê Văn Hiến và Lao tù ca Thiên Giang, nht là nghiên cu ở phương diện tchc trn  
thut. Vì vậy, bài báo này là hướng tiếp cn khá mi mvhai tác phm ca hai tác giả đồng  
thời cũng là hai chiến sĩ yêu nước bị địch bắt tù đày ghi chép, kli những gì mình đã trải qua,  
“mắt thấy tai nghe” dưới ssoi chiếu ca lí thuyết trn thut.  
Tiếp cn tác phm Ngc Kon Tum của Lê Văn Hiến và Lao tù của Thiên Giang qua phương  
din trn thuật như người trn thuật, điểm nhìn trn thut, giọng điệu trn thut, thi gian trn  
thut... sgiúp chúng ta hiểu rõ hơn về cu trúc và ni dung ca tác phm, khc họa sâu đậm  
hình ảnh cao đẹp ca những người chiến sĩ yêu nước, khao khát tdo, sn sàng hi sinh vì lí  
tưởng cách mng, những con người thản nhiên đi vào nhà tù, du họ đã biết đó là chỗ “một  
ngày ngàn thu” [2; 9], những người mà trong mắt không ít người thường “họ là những người  
điên-di, hay gần như điên-dại. Nhưng họ điên-di vì mt lí tưởng: Hcoi rtdo ca họ để  
mưu đồ tdo cho mt dân tc, mt giai cp hay cho cả loài người” [2; 10].  
2. Nội dung nghiên cứu  
2.1. Người trần thuật với giọng điệu trần thuật  
Yêu cầu hàng đầu đặt ra khi trn thut là phải có “người trn thuật” (narrator), về mt thut  
ng: “Người trn thut là mt nhân vật hư cấu hoc có thật, mà văn bản tslà do hành vi ngôn  
ngca anh ta tạo thành” [3; 221]. Hiu mt cách chung nhất, người trn thuật là người đứng ra  
kể, tường thut li câu chuyn với tư cách là người trong cuc hoặc là người chng kiến tt cả  
mi sviệc. Người trn thuật thường được kbng ngôi thnhất (người trn thut ldin) hoc  
ngôi thứ ba (người trn thut ẩn tàng) và người trn thut phải đáp ứng được đòi hỏi vvic xử  
mi quan hgia li kvi skin, tình tiết, nhân vt.  
Nếu như người trn thut Ngc Kon Tum của Lê Văn Hiến trn thut bng ngôi thnht,  
xưng “tôi”: “Nếu như câu chuyện xy ra ngục Kon Tum cũng giống các ngục đường khác, thì  
bt tt tôi phi kể thêm ra đây. Sau khi lên cầm quyn, nếu chính phBình dân Pháp thi hành  
chính sách ân xá cho tt cchính trphm ở Ðông Dương thì tập kí ức này cũng chưa nht thiết  
phải in ra” [4; 9] thì tác phm Lao tù của Thiên Giang người trn thut li ẩn mình đi: “Trong  
mt nhà lao tnh, mt cuc tuyt-thc va xảy ra. Thường ngày thì bọn tù nhân trông cơm như  
“trông mẹ vchợ”, bỗng nhiên hnhịn ăn. Ấy là chuyn ltừ khi cái nhà lao này được dng lên  
đến nay, nghĩa là chừng na thế kỉ. Hơn sáu trăm người hè nhau nhịn ăn một ln. Sao lại đồng  
lòng đến thế được” [2; 15]. Vic kbng ngôi thnhất đem lại cho độc gicảm giác tin tưởng,  
chân thc thì vic kể ở ngôi thba giúp cho vic kể được tdo, linh hot nhng gì din ra vi  
nhân vật. Nhưng dù câu chuyện được ktheo ngôi thba hay ngôi thnht thì vn mang li cho  
người đọc nhng xúc cm mnh mẽ và độ tin cy cao bi nhân vật “tôi” trong Ngc Kon Tum  
ca Lê Văn Hiến hay nhân vật “Tiến” trong Lao tù của Thiên Giang đều mang dáng dp ca  
chính hai tác gi, khi bn thân hai tác giả đều là nhng chiến sĩ cách mạng nhit huyết, quên  
mình cho lí tưởng nhưng lại bthc dân, phong kiến tay sai bt, kết án tù đày, câu văn của họ  
được viết bằng máu và nước mt không chca riêng hmà còn bi sinh mnh của hàng trăm,  
hàng nghìn chính trphm trong ngục tù nơi các ông bị giam gilà Ngc Kon Tum và Nhà tù  
Lao Bo.  
Xét khía cnh chức năng, người trn thut nói chung thc hiện năm chức năng, đó là:  
chức năng trần thut, chức năng truyền đạt, chức năng chỉ dn, chức năng bình luận và chc  
năng nhân vật hóa. Trong Ngc Kon Tum của Lê Văn Hiến và Lao tù của Thiên Giang, người  
trn thuật đã đảm nhn các chức năng chính như kể chuyn, truyền đạt, bình luận...qua đó dẫn  
dắt độc gicun theo nhng tình tiết, câu chuyện được kể, giúp độc gihiu thêm vnhng  
người tù chính trvà cnh ngca htrong tù. Chng hạn như nhân vật Tiến trong Lao tù ca  
73  
Phạm Văn Đại  
Thiên Giang qua cách k, truyền đạt của người trn thut hiện lên trong tâm trí độc gilà chàng  
thanh niên say sưa vì tưởng, sn sàng gác li chuyện gia đình, vị quc vong thân: “Tiến nhìn  
theo thy Cu, lòng nghĩ đến mẹ già. Say sưa vì tưởng, chàng không được mt li bái bit lúc  
ra đi. Bây giờ mcon cách nhau chmt bức thành, nhưng gang tấc ấy cũng dài như nghìn  
trùng. Chàng nhịn ăn đã ba hôm mà kẻ đói lòng chắc chn không phi là chàng. , tngày ra đi  
đến nay, có lchàng không có mt dịp nào để nghĩ đến vic ở nhà. Mà nghĩ đến làm gì, người  
chiến sĩ “lên yên” đã nguyện thí thân cho gió-bụi” [2; 20-21] hay những câu văn trần thut  
mang tính bình lun của người trn thut làm ni bt lên hình nh ca những người tù chính trị  
kiên cường, bt khut: “Nhưng ở tù không phi là yên ngh. Nếu nhà tù có thlàm nhn chí khí  
ca mt số người thì nhà tù cũng làm cho chí khí của mt số người khác đanh thép hơn. Trong  
nhà tù, quan nim của người ta thay đổi. Thay đổi theo chiu xấu cũng có mà theo chiều tt  
cũng có. Và cái sanh lực ca một người tù cũng như một chiến sĩ chỉ có thbiu ltrong tranh  
đấu” [2; 110] hoc có những lúc người trn thuật đưa ra cách nhìn nhận, quan điểm ca mình về  
“cái chết”: “...nếu chết không phi là một điều kiện để gii thoát, thì tự nó cũng là sự gii thoát.  
Bi vy ở đây, người ta ít scái chết. Người ta sng rt gn nó... Hung chi những người chu  
bước vào cửa này đã có một quan nim vschết: chết là biến thể để đi từ mt ththấp đến mt  
thcao... Con người chết để mở đường cho vô skkhác tiến lên. Schết đối vi hquan trng  
chỗ đẹp đẽ ca nó...” [2; 72-73].  
Ngc Kon Tum của Lê Văn Hiến, người trn thut nhân vật “tôi” đã kể li nhng gì  
bn thân mình phi trải qua, đó là những đòn roi vô lí tnhng tên cai ngc: “Qua hôm sau tôi  
ra làm việc, đem hết sc ra mà cuốc đất cho khi bhèo, thế mà cũng không tránh khỏi. Tự  
nhiên thấy năm, sáu tên lính cầm hèo mây to tướng, đua nhau bổ vào người tôi như mưa dông,  
tôi nằm lăn dưới đất, lăn lóc dưới trận mưa hèo, kêu la hết sức mà chúng cũng cứ thng tay. Còn  
tên Kiap thì ngi trên cao nhìn xung lấy làm đắc ý lắm” [4; 55]. Trong khi trn thut, nhân vt  
“tôi” thường thc hin chức năng bình luận ca mình vcác nhân vt, cchính din nhng  
người tù yêu nước, chiến sĩ cách mạng (như Trọng, Lung, Thuyến, Giáo Thuyên...) và cnhng  
nhân vt phn din bn thực dân, viên cai, đội ngưi Pháp (như Palmésani, Ðội nhì Kiap, viên  
đội Mulec...). Nếu qua li bình lun ca nhân vật “tôi”, những tên thc dân hiện lên như những  
ktiu nhân, tàn bo: “Nhà phạt biết Kiap là đứa tiu nhân, hung bo và chẳng qua cũng chỉ là  
ktha hành... Chỉ thương hại cho mấy trăm nhà phạt, dưới chế độ tàn khc ca bn thc dân  
và tay sai ca chúng, phi chu mọi điều thm khc và chết mt cách rt oan ức” [4; 60] thì hình  
nh ca những người chiến sĩ lại hiện lên cao đẹp hơn bao giờ hết, hlà những con người dũng  
cm, hiên ngang, sẵn sàng đón nhận hi sinh thay cho đồng chí mình: “Trọng bình thường là  
người ôn hòa, thun hu, không hay nói, nhiều người đã cho Trọng “như con gái nhà lành”...  
Thế mà khi lâm sự, trước cái chết, Trng giữ thái độ rt ququyết, can đảm” [4; 76].  
Có thnhn thy, chai tác phm Lao tù ca Thiên Giang và Ngc Kon Tum của Lê Văn  
Hiến, người trn thuật đều có địa v, vai trò hết sc to lớn, là “cánh tay phải” đắc lc nht giúp  
tác gitrình bày, trin khai ni dung tác phm, bao quát, lí gii tng skin, vấn đề, lí gii tng  
nhân vt và đặc bit là tchc các thành t, yếu tca tác phm thành mt chnh thnghệ  
thut, mt mô hình kết cu thng nht.  
Vgiọng điệu trn thut, giọng điệu trn thuật được hiểu như là giọng điệu riêng của người  
trn thut, qua giọng điệu đó mà người trn thut bày tsự đánh giá và bộc lộ thái độ, tình cm  
yêu ghét, khen chê, coi trng khinh bca mình vi các nhân vt trong tác phm. Trong  
Ngc Kon Tum của Lê Văn Hiến và Lao tù ca Thiên Giang, ta bt gp các giọng điệu như:  
giọng điệu ngi ca; giọng điệu buồn thương; giọng điệu lên án, tcáo.  
Vgiọng điệu ngi ca, hào sng. Giọng điệu ngi ca, hào sảng được thhin khi người  
chiến sĩ bày tỏ ý chí chiến đấu ca mình, thhin bản lĩnh kiên cường, không chịu cúi đầu,  
không chu khut phục trước thế lc bo tàn, chng hn trong Ngc Kon Tum trước cái chết ca  
74  
Vtchc trn thut trong Ngc Kon Tum của Lê Văn Hiến và Lao tù ca Thiên Giang  
Trng, anh em tù chính trị đã dũng cảm đấu tranh, đối din trc tiếp vi kthù, không qun hi  
sinh: “Khi Trọng ngã, anh em sau tiến lên, va tiến va hô vang khu hiu phản đối, mt tiếng  
súng thhai vừa ra, người thhai lại ngã, người sau li tiến lên, hô to my khu hiệu, dũng cảm  
đương đầu với súng đạn” [4; 77]. Ði din vi những khó khăn, gian khổ, người chiến sĩ chẳng  
hnao núng. Hkiên quyết không lùi bước và vn ct cao ging nói bc trực, đầy hào khí, đầy  
ý chí: “Trên đường đời chúng ta không phi là không hi vng sống, nhưng vì đã đến bước  
đường cùng, ta phi hi sinh ít nhiều người, để mưu sự sng cho toàn thể anh em. Trước cái chết,  
ta không nhường lại cho ai được na, ta phi nhn ly, vui lòng nhn lấy để sau khi ta chết ri,  
ha may mấy trăm anh em mới còn phương sống” [4; 72]. Dù phi chu cảnh tù đày, khốn cùng  
trăm bề, nhưng với những người chiến sĩ yêu nước, cách mng, lí tưởng và lòng yêu nước chính  
là chda, là ngun sng cho h, giúp họ vượt qua mi ththách, gian nan du hin thc vô  
cùng khc nghit và him nguy luôn rình rập, đó là hình ảnh ca nhân vt Tân, Tiến, Sơn trong  
Lao tù ca Thiên Giang: “Người ta du khổ nhưng nhứt định không than van. Và trong hoàn  
cnh y có nhng linh hn quật cường mt cách kì l. Hlà nhng ht giống gieo vào đâu cũng  
được; gặp đất phì nhiêu cũng mọc, mà gp sn sỏi cũng nẩy mộng như thường. Và nhng cây  
tùng, cây bách li sng mnh ở lưng trời gia nhng khối đá lớn” [2; 83].  
Vgiọng điệu buồn thương, trữ tình, trước hết, nó được thhin qua nhng tình cm ca  
người chiến sĩ, người tù yêu nước trước cnh lm than ca cdân tc, của đất nước trong đêm đen  
nô lệ, như ở trong Ngc Kon Tum của Lê Văn Hiến: “Tức ti nh! My nghìn năm nước cũ mất  
chtdo, mt quyn sinh hoạt, đoái non sông thêm bận dạ anh hào. Xót xa thay! Năm sáu giống  
loài người chu báp bc, chu ni bt bình, thy nòi ging vẫn căm gan tuấn kiệt” [4; 63]. Ging  
điệu trữ tình cũng được thhin qua nhng tình cm, nhng mi quan hệ riêng tư của người chiến  
sĩ với cha mẹ như tình cảm ca nhân vt Tiến vi mgià trong tác phm Lao tù ca Thiên Giang:  
“Mặt Tiến trầm ngâm, người ta đoán được chàng nghĩ tới bà mẹ già. Nhưng chàng mỉm cười tự  
bo: Sau khi ta bbt, nhà ca tan tành, cha m, anh em phi bỏ quê hương đi tìm sanh kế ở mt  
xxa, ta không lo smta sẽ vượt nghìn trùng để đến đây...” [2; 33]. Ðó còn là giọng điệu tiếc  
thương, buồn thương, đau xót vô hạn trước sự ra đi của những người đồng chí, đồng đội. Nó thể  
hin nỗi đau buồn tột cùng trước nhng mt mát, hi sinh do quân thù gây ra: “Trơ trọi nm mồ  
hoang, rêu cphủ đầy, khiến cho khách qua đường trong khi dừng bước, không khi ngm ngùi  
thương tiếc cho thân phận người chiến sĩ đã vì nghĩa hi sinh[4; 90] hay “Ngảnh đầu li, trông  
my dãy cùm, my hàng rào st mà ngậm ngùi thương xót cho hàng trăm anh em thiệt phn; từ  
đây đất vàng mt nấm, gió táp mưa sa, nghìn năm biết ai thăm viếng. Than ôi! Son st mt lòng,  
âm dương đôi ngả, cảm tưởng ca ai đươc về đối với xác người còn li, tht là ngổn ngang trăm  
mối” [4; 62]. Tuy nhiên, ni bun của người chiến sĩ cách mạng cNgc Kon Tum ca Lê Văn  
Hiến hay Lao tù ca Thiên Giang không phi kiểu đau buồn y m, não nbi họ đã biến đau  
thương thành sc mạnh. Càng thương các đồng chí mình bao nhiêu càng thêm căm giận, phn ut  
quân thù by nhiêu: “Ngọn gió rng theo cánh ca mthi tt vào lao có thể đánh tan cái tử khí hòa  
ln với hơi nóng mùa hè nhưng không thể xua khỏi lòng người trăm ngàn uất hn[2; 72].  
Giọng điệu lên án, tcáo. Đối lp vi giọng điệu ngi ca cách mng, công lí, tdo là  
giọng điệu lên án, tcáo chế độ tàn ác, vch trần thói đạo đức gi, bp bm ca bn thc dân  
phong kiến, chng hạn như thủ đoạn, chiêu trò ginhân, giả nghĩa của tên Quan mt Palmésani  
vi tù chính trị ở ngc Kon Tum: “Một ln sáu, bảy người lính đua nhau bổ hèo mây vào mt  
người nhà pht, tiếng la gào, kêu khóc dậy đất vang trời; khi đó “quan” đứng chng cách bao xa,  
thế mà “quan” cũng làm ngơ, chờ khi nào nhà pht bị đòn đã đáo để rồi “quan” mới givtừ  
đâu xa chạy lại...hình như “quan” lấy làm xót thương lắm và chy lại, can ngăn. Lúc đầu ai cũng  
lầm tưởng “quan” thật lòng thương xót, sau mới rõ là cchla di ca quan vì nhng lnh  
truyền đánh đập đều do “quan” mà ra cả” [4; 37] hay nhng thủ đoạn đê hèn, định kiếm tin  
trên xác người chết ca Thp mt tên lính huyn trong tác phm Lao tù ca Thiên Giang, dù  
người chiến sĩ yêu nước bgic Pháp xán thình y là con ca ân nhân hn từng mang ơn:  
75  
Phạm Văn Đại  
“Bà Tư nhìn theo tên lính lệ, lòng ngổn ngang. Ngày ông Nghè Tư, chồng bà còn ti chc thì  
nhng tên lính y chlà nhng tên thhạ. Thói đời bao giờ cũng thế “ăn cháo đá bát”, họ đã hết  
tiếp nhận được ơn huệ ca nhà bà ri. Chuyn con bà bbt không phi chuyn lạ đối vi bà  
nhưng con bà sẽ bchặt đầu ti mt bến đò thì không có lẽ” [2; 23].  
Giọng điệu tcáo, lên án mt cách mnh mnhng ti ác tày tri của bè lũ cướp nước và  
bán nước đã phơi bày bộ mt tht, bmt gian xảo, đớn hèn ca kthù, giúp thc tnh nhng ai  
còn u mê. Ngc Kon Tum của Lê Văn Hiến, hàng lot thủ đoạn đớn hèn, ti ác kinh khng  
của quân thù đã được phơi bày: “Nếu chết vì rừng thiêng nước độc thì không nói, đằng này li  
chết vì ngn hèo (gậy), báng súng, lưỡi lê, cán beng...mạng người còn thua thú vật” [4; 16] hay  
“Người bnh thì nhiu, thuc men cu cha thì không đủ, cơm nước thiếu thn. Sự đối đãi lại  
rt tàn ác nên mấy trăm nhà phạt chết dn, chết hi, chết mòn, chết mỏi” [4; 34]. Các tù chính trị  
thường xuyên bị quân thù đàn áp, khủng b: “Khi bọn sĩ quan vào gần nhà lao, một người trông  
thy liền đứng dy la lớn: “Anh em ơi! Chúng đến đây rồi”, tức thì “đoàng”, một tiếng súng sáu  
nra, anh lin ngã xung... Lúc y nm kbên Thuyên, tôi nghe tiếng súng nvn còn nglà bn  
da, sau thy Thuyên ngã xung nm ngang ngay mình tôi, rờ vào người Thuyên thy không ca  
quy mi hay là Thuyên chết... Bên ngoài thì các sĩ quan và binh lính, đầu này bắn, đầu kia bn,  
thy ai mming ra thì bắn, ai đưa tay lên cũng bắn” [4; 88]. Nhân vt Tiến trong Lao tù ca  
Thiên Giang cũng thường xuyên bhành h, tra tn: “Thân thca Tiến lúc by giờ đã rời rã, ý  
thc chàng trở nên mơ hồ sau khi xác tht chàng bmt ngày hành hạ” [2; 127-128].  
Đó cũng có thể là giọng điệu chế giu, mỉa mai đối vi bọn cướp nước và lũ chó săn trong  
Ngc Kon Tum của Lê Văn Hiến: “Nhắc lại tên đội nhì Kiap, tôi thấy lù lù ra trước mt mt con  
gu dtn, hung ác, nanh vuốt chơm chởm, cngày cp mắt đỏ ngầu, lườm nhà pht hay mt  
con chó sói, đói lâu ngày, đương đứng gườm by cu, nhng muốn ăn tươi, nuốt sống” [4; 5]  
hay viên “xếp ngục” ở trong Lao tù ca Thiên Giang: “Vừa nói anh va nhìn cái bng phca  
ông Xếp, tưởng chừng như chất cha rt nhiều điều tốt đẹp” [2; 95]. Giọng điệu trn thuật đã  
giúp gia tăng sức biu cm, truyền đạt ca tác phm tsự, làm cho các sáng tác đi vào chiều  
sâu. Nó còn kết hp vi các yếu tkhác trong tác phẩm như tình tiết, skin to nên nhng nét  
đặc sc của văn học nhà tù thc dân đế quc. Chính nhng giọng điệu ấy đã góp phần làm thành  
din mo ca một dòng văn chương hết sức “đặc biệt” trong kho tàng văn học Vit Nam nói  
chung và văn thơ cách mạng nói riêng.  
2.2. Người trần thuật với điểm nhìn trần thuật  
Ðim nhìn trn thut là mt trong nhng vấn đề quan trng, không thtách ri với người  
trn thuật. Người trn thut skhông thtrn thut hay miêu tcác svt, hiện tượng, nhân  
vt...trong mt tác phm nếu không xác định và la chọn cho mình điểm nhìn trn thut. Xác  
định được đúng đắn điểm nhìn trn thut của người trn thut sgiúp cho vic khám phá các  
tng bc ni dung và nghthut ca tác phm được đầy đủ hơn. Ðim nhìn trn thut cho chúng  
ta biết vtrí của người trn thut khi trn thut: “Ðim nhìn trn thut thhin vị trí người kể  
dựa vào để quan sát, trn thut các nhân vt và skiện” [1; 61].  
Có nhiu loại điểm nhìn khác nhau như: điểm nhìn bên ngoài, điểm nhìn bên trong, điểm  
nhìn không gian, điểm nhìn di động, điểm nhìn thi gian. Và trong mt tác phm, có thcó sự  
dch chuyn hoặc luân phiên điểm nhìn. Có nhng câu chuyn/skin chỉ được kbng mt  
điểm nhìn duy nhất nhưng cũng có những câu chuyn/skiện được kvi sự đan xen của nhiu  
điểm nhìn trong quá trình trn thut.  
Trước hết, là điểm nhìn bên ngoài (ngoi quan). Ðiểm nhìn bên ngoài được hiểu là người  
trn thut, miêu t, ksvt, svic bên ngoài nhân vật, tường thut nhng svt, svic  
bên ngoài mà nhân vt không biết, chng hn, trong tác phm Lao tù ca Thiên Giang, người  
trn thut lng lẽ đứng bên ngoài quan sát cuc gp ggia nhân vt Tiến và mgià trong tù:  
“Trên thế gian này có ngòi bút nào tả được ni lòng một người mẹ tìm đến thăm con ở chvn  
76  
Vtchc trn thut trong Ngc Kon Tum của Lê Văn Hiến và Lao tù ca Thiên Giang  
tnht sanh mà chỉ được nghe nhng lời như thế. Và ngòi bút nào tả được ni lòng của người tù  
nhơn khi thấy mt bà mcúi xuống lượm lá đơn rơi trên mặt đất và kề vai vào đòn gánh, quảy  
đôi bầu để đi...Trong một lúc người ta nghe hai tiếng đẹp nht thế gian:  
- M!  
- Con!  
Ri im lng. Bn mt nhìn nhau. Và có những dòng nước mt ttchảy” [2; 30]. Hay  
người trn thuật đứng bên ngoài miêu tvề xà lim nơi giam giữ Tiến, đó là một không gian tù  
túng, ngt ngt: “Hơn tuần lri, chàng sng trong xà lim... y là mt cái phòng nh, rng  
chng sáu tc, dài hai thước. Chung quanh là tường dày, sơn đen đến na chừng. Phía trên đầu  
nm, tn nóc nhà có mt cái lnhcba tấc vuông để không khí thay đổi” [2; 128].  
Tiếp theo là điểm nhìn bên trong (ni quan). Ðiểm nhìn bên trong được hiểu là người trn  
thut kchuyn bằng điểm nhìn ca nhân vt. Nếu điểm nhìn bên ngoài thường là cái bao quát  
thì điểm nhìn bên trong thường là cái nhìn cth, nó gn vi cách nhìn nhận, đánh giá của nhân  
vt vmt svt, svic hoc một người nào đó. Người trn thut lấy điểm nhìn ca nhân vt  
làm cơ sở cho điểm nhìn ca mình. Trong Ngc Kon Tum của Lê Văn Hiến, tt cmi svic,  
tình tiết, nhân vật đều được kể qua điểm nhìn ca nhân vật “tôi”: “Nhà phạt đều như ma đói,  
trông hình thù chng khác gì bộ xương. Hàng trăm người như thế nm la lit trong nhà bnh, loi  
nhoi, lúc nhúc, cơm không ăn được, thuc men không có, nhiều người liệt nhược quá, ngi dy  
không ni, chân còn phi bcùm... Tôi hồi tưởng li cảnh tượng mt thy tai nghe lúc by gi,  
tiếc không thnào tcho hết sthc, họa may mười phn chỉ nói lên được mt hai phần” hay  
Tôi trông thy bộ Kiap hung hăng dữ tn, trong bụng đã lấy làm lo...” [4; 33]  
Trong tchc trn thut ca mt tác phm ts, ta thy có khi xut hin sdch chuyn  
điểm nhìn từ người trn thuật sang điểm nhìn ca nhân vt hay từ điểm nhìn ca nhân vt này  
sang điểm nhìn ca nhân vt khác. Chính sdch chuyển điểm nhìn trn thut này, khiến cho các  
skiện và đặc bit là nhân vt hin lên một cách đầy đủ nht trên mọi phương diện; chình thc  
bên ngoài ln tính cách bên trong, nó không chtạo điều kiện giúp độc giả đi sâu vào bản cht ca  
vấn đề mà còn giúp to lp mt mô hình kết cu gn cht vi tchc trn thuật cũng như bộc lrõ  
nét tư tưởng, chủ đề tác phm. Chng hn sdch chuyn điểm nhìn từ người trn thuật sang điểm  
nhìn ca nhân vt Tiến trong Lao tù ca Thiên Giang, hình nh ca mt cu bé mi 16 tui can ti  
“quốc sự” được khc họa qua đôi mắt ca Tiến: “Trong bọn người mới đến có người chỉ có mười  
sáu tuổi đầu. Thua tôi nhng ba tui. Ming còn hôi sa... Vsau tôi mi biết hn bbn cái án tử  
hình nhưng vì còn mùi học trò nên người ta gim bn án thình xung thành bốn án chung thân”  
[2; 84-85] hay hình nh của Sơn, một chàng thanh niên là con ca mt vquan ca triều đình,  
hoàn toàn có thchn cho mình cuc sống sung túc, vinh hoa nhưng lại tham gia Hi kín chng  
li sự “bảo hộ” của thc dân Pháp được thhiện qua điểm nhìn ca Tiến: “Tôi còn nhớ mt ngày  
gn cuối năm, cái cánh cửa thành nhà lao bng glim nặng chĩu hé mở, để lt vào mt thanh niên.  
Áo thâm dài, qun trắng “đầu hớt cua”, thanh niên y còn có vẻ “ra người” hơn những người đã đi  
qua cái ca y, anh tttheo mt lính lệ vào đng giữa sân lao” [2; 103-104].  
Như đã nêu trên, trong các tác phẩm ts, không chcó sdch chuyển điểm nhìn từ người  
trn thuật sang điểm nhìn ca nhân vt mà còn có sdch chuyển điểm nhìn tnhân vt này sang  
nhân vt khác. Lao tù của Thiên Giang, điểm nhìn trn thuật được dch chuyên liên tc từ người  
trn thut sang nhân vt Tiến, ri tnhân vt Tiến sang Sơn, đơn cử như cách nhìn nhận của Sơn  
về “cái chết” qua cuộc trò chuyn vi Tiến trước gitin bit: “Trên cái xác của chúng mình, mt  
sanh lc khác ny nở. Mày xem chưn trời trong sáng quá!” [2; 124]. Ngoài ra, điểm nhìn ca nhân  
vt còn chu sự quy định ca giai cp, tng lp xã hi mà nhân vật đó thuộc v, chng hn trong  
mắt người chiến sĩ yêu nước, cách mng, những “chính trị phạm” thì những tên thực dân đế quc,  
phong kiến tay sai hiện lên luôn đi cùng với tính cách hung tn, bmt gian trá, xo quyt, ghê  
tm... Vic sdụng điểm nhìn bên trong cho phép người trn thut tham dvào câu chuyện được  
77  
Phạm Văn Đại  
kể như là một nhân vt, các sviệc được trn thut nhvậy mà sinh động, chân thực hơn, cuốn  
hút độc gi. Kết cu tác phm nhvy mà có sthng nht ctrong ln ngoài.  
Có thnhn thy rng, mun thc hin nhim vliên kết, cắt nghĩa, dẫn gii các skin và  
nhân vt trong tác phẩm, người trn thut phải có điểm nhìn trn thut hp lí, phù hp với ý đồ  
nghthut ca tác gi. Vic tn tại hai điểm nhìn bên trong và bên ngoài mang ý nghĩa bổ sung  
cho nhau, đan xen lẫn nhau trong quá trình trin khai ni dung, ct truyn. Trong quá trình trn  
thut, vic di chuyển điểm nhìn từ điểm nhìn của người trn thuật sang điểm nhìn ca nhân vt to  
nên slinh hot, mm do giữa các điểm nhìn, tăng khả năng biểu đạt, biu cm cho tác phm.  
2.3. Ðiểm nhìn trần thuật với thời gian trần thuật  
Trong tchc trn thuật, điểm nhìn trn thut và thi gian trn thut có mi quan hgn bó  
vi nhau: “Sự miêu t, trn thuật trong văn học nghthut bao giờ cũng xuất phát tmột điểm  
nhìn nhất định trong thời gian. Và cái được trn thut bao giờ cũng diễn ra trong thời gian, được  
biết qua thi gian trn thuật” [3; 219]. Về cơ bản, thi gian trn thut là thi gian vận động theo  
dòng vận động tuyến tính mt chiu của văn bản ngôn từ. Đối với các sáng tác văn xuôi tự s,  
thi gian trn thut là mt trong nhng yếu tố giúp nhà văn triển khai kết cu ca tác phm, làm  
nên nhng giá trni dung và nghthuật đặc sc.  
Trong Ngc Kon Tum của Lê Văn Hiến và Lao tù ca Thiên Giang, thi gian trn thut và  
thời gian được trn thut có mi quan hệ khăng khít với nhau, theo đó toàn bộ skin, din  
biến, tình tiết liên quan đến các nhân vt trong chai tác phẩm đều được ktheo trc thi gian  
tuyến tính, một hướng duy nht, theo trình tdin tiến, cái gì có trước kể trước, cái gì có sau kể  
sau vi mô hình: nguyên nhân din biến kết qu, gn cht với “hành trình” người chiến sĩ  
yêu nước, cách mng phi tri qua trong lao tù tlúc bbắt đến ngày được trtdo.  
Ngc Kon Tum của Lê Văn Hiến và Lao tù ca Thiên Giang, thời gian được người trn  
thut nhắc đến nhiu nht, sdng nhiu nhất để tường thut, kể là “ban đêm/đêm”. Sau mt  
ngày lao dch nng nhọc, “đêm” có lẽ là khong thi gian duy nhất mà người chiến sĩ yêu nước  
có thtranh thnghỉ ngơi, để bc bch mọi tâm tư, để có thnói chuyn vi những người đồng  
chí ca mình: “Và gần sut một đêm, tôi thức để nghe Sơn thuật li cái lí do làm cho Sơn cũng  
bị đày đi Lao Bảo. Cái lí do y, ở trong nhà lao cũng như bao nhiêu lí do khác, chung qui cũng  
tại tranh đấu. Và cách tranh đấu cổ điển trong nhà lao vn là bãi thực” [2; 113]; nhưng đó cũng  
là khong thời gian đầy ám nh, bi nhng ti ác man r, strthù ca thc dân Pháp vi tù  
chính trị thường được thc hiện vào ban đêm: “Đêm lại, tiếng rên la, tiếng khóc lóc, gia chn  
rng xanh, thnh thong chen tiếng mõ canh, tiếng hô gác ca lính nghe rt não nùng...khiến cho  
khách trong vòng đêm khuya canh chy, gác tay lên trán biết bao suy nghĩ, bồi hồi...đêm nào  
cũng có người chết, nên chmi lần lính đổi gác, chúng giao lại cho nhau, thường đếm cả người  
sng, cả người chết” [4; 33].  
Theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế gii thì “đêm” (nuit, night) là mt biểu tượng “chứa  
đầy tt ccác khả năng tiềm tàng ca cuộc đời... Đêm là hình ảnh ca cái vô thc, trong gic  
ngủ đêm, vô thức được giải phóng” [5; 198]. Nhân vt Tiến trong Lao tù ca Thiên Giang  
thường được người trn thut tiếp cn và miêu tả vào ban đêm, thể hin những giây phút độc  
thoi ni tâm: “Những ngưi thiếu hnh phúc hay sng về đêm nhiều hơn. Giấc ngít nữa cũng  
giúp người ta quên trong giây lát: cái thc tế khc nghiệt. Nhưng ở đây lại có nhng thc tế ca  
ban đêm còn khắc nghiệt đến my lần” [2; 80]. Đêm đen như muốn nut ly ý chí, khát vng  
sng, khát vng tdo ca Tiến - người chiến sĩ yêu nước: “Đêm về, cái khối đen mù vô tận  
trước mắt chàng hình như có một sc nng huyn ảo, ép con người chàng trên tng lchân  
lông. Gia cái thân xác ca chàng và không gian chung quanh có sbất điều hòa” [2; 129].  
Những người chiến sĩ yêu nước bgic bắt giam, tù đày không những phi chu shành h, tra  
kho vthxác mà còn bkhng bvtinh thần và dường như đêm đen lại càng làm gia tăng  
nỗi cô đơn, hiu quạnh. Mc dù vy, hvẫn vượt lên trên tt c, vn sáng lên nim tin, ý chí và lí  
tưởng cao đẹp gia chn ngc tù.  
78  
Vtchc trn thut trong Ngc Kon Tum của Lê Văn Hiến và Lao tù ca Thiên Giang  
Bng thi gian trn thut và thông qua thi gian trn thut, din biến, ct truyện được lí  
gii và kết hp cùng các yếu tkhác trong tchc trn thut to nên kết cu ca tác phm.  
3. Kết lun  
Có thnhn thy rng, thế gii nghthuật trong các sáng tác văn chương yêu nước trong  
nhà tù thực dân, đế quc rất đặc sc và có nhiều nét độc đáo. Nó không chỉ giúp người đọc cm  
nhận và hình dung được một “xã hội tù” mà còn hiu thêm vnhững con người dũng cảm trong  
đấu tranh, sẵn sàng đối din vi cái chết, sn sàng hi sinh cho lí tưởng cao đẹp như lời ca nhân  
vt Tiến trong tác phm Lao tù ca Thiên Giang: “Chết là tiếp tc ca ssng, và sng chỉ để đi  
lần đến chết. Điều ct yếu là làm sao cho ssng có một ý nghĩa và sự chết cũng có một ý  
nghĩa” [2; 84]. Qua vic tìm hiu vtchc trn thut ca hai tác phm Ngc Kon Tum ca Lê  
Văn Hiến và Lao tù ca Thiên Giang như người trn thut, giọng điệu trn thuật, điểm nhìn trn  
thut, thi gian trn thuật đã giúp chúng ta hiểu thêm phn nào vcách thc trn thut ca hai  
tác phm. Bằng tài năng nghệ thut và chính nhng cht liệu, tư liệu sng và chiến đấu ca  
mình được thhiện trong các sáng tác, Lê Văn Hiến và Thiên Giang đã góp phần to nên cho  
“văn học nhà tù trại giam” những thành tu nghthut nhất định, thhin tinh thn sáng to  
vượt khó khăn, gian khổ, him nguy, nhý chí và trái tim nhit huyết ca những người chiến sĩ  
yêu nước, yêu cái đẹp.  
TÀI LIU THAM KHO  
[1] Trn Ðình S(chbiên), 2009. Giáo trình lí luận văn học Tp II Tác phm và thloi  
văn học. Nxb Ði học Sư phạm.  
[2] Thiên Giang, 1949. Lao tù. Nxb Chân tri mi.  
[3] Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyn Khc Phi, 2009. Từ đin thut ngữ văn học. Nxb Giáo dc.  
[4] Lê Văn Hiến, 2018. Ngc Kon Tum. Nxb Hội Nhà văn.  
[5] Jean Chevalier Alian Gheerbrant, 1997, Từ điển biểu tượng văn hóa thế gii (Phạm Vĩnh  
Cư – chbiên dch). Nxb Đà Nẵng.  
[6] Lê Văn Ba, 2015. Nhà văn Việt Nam trong nhà tù quân xâm lược. Nxb Hội Nhà văn.  
[7] Phạm Văn Đại, 2019. “Không gian trong văn học yêu nước viết về nhà tù thực dân, đế  
quốc dưới góc nhìn Tự sự học (Giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX)”. Tạp chí Khoa học Trường  
Đại học Sư phạm Hà Nội, Volume 64, Issue 5, tr. 98-103  
ABSTRACT  
About the narrative organization in The Kon Tum prison by Le Van Hien  
and The Prison by Thien Giang  
Pham Van Dai  
Committee Propaganda Hai Phong Party Committee  
For any prose works, narrative plays an important role in creating the structure of the work.  
Besides, they also important meaningful in choosing, organizing, giving issues, events, phenomena,  
specific objects described in the word make the content and plot of these works that make these  
works always deployed, not stagnant or stalled. Approaching the work The Kon Tum prison by Le  
Van Hien and The Prison by Thien Giang through narrative aspect will help readers understand  
clearly about structure and contents of the works with the lofty image of patriotic soldiers who yearn  
for freedom, willing to sacrifice themselves for the revolutionary ideals.  
Keywords: narration, narrative organization, The Kon Tum prison, Le Van Hien, The  
Prison Thien Giang, prison literature.  
79  
pdf 8 trang baolam 13/05/2022 6560
Bạn đang xem tài liệu "Về tổ chức trần thuật trong ngục Kon Tum của Lê Văn Hiến và lao tù của Thiên Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfve_to_chuc_tran_thuat_trong_nguc_kon_tum_cua_le_van_hien_va.pdf