Bảng chữ cái tiếng Việt cần phải được “chuẩn hóa”

BẢNG CHỮ CÁI  
TIẾNG VIỆT CẦN  
Khoa Sƣ phạm, Trƣờng  
Đại học Giáo dục – Đại  
học Quốc gia Hà Nội  
PHẢI  
ĐƢỢC  
“CHUẨN HÓA”  
Điện thoại: 0983075618  
(Trao đổi cùng tác giả  
bài “Một số biện pháp  
để chuẩn hóa Bảng  
chữ cái tiếng Việt”)  
Email:  
TS. LÊ THỜI TÂN  
TÓM TT  
Bài viết này tập trung trao đổi với quan điểm cho rằng “Bảng chcái tiếng  
Vit hin hành có 7 chcái bkì thị” (Ă, Â, Đ, Ê, Ô, Ơ, Ƣ) trong lúc lại “thiếu 4 chữ  
cái đã trở nên thông dụng” (F, J, W, Z) là thiếu sót cn phi có biện pháp để chun  
hóa.  
Tkhóa: chcái Latin, chQuc ng, bng chcái tiếng Vit, chun hóa  
ABSTRACT  
Does the Vietnamese alphabet need standardizing?  
(Exchanging ideas with the author of the article  
“Some suggestions to standardize the Vietnamese alphabet”)  
This article focuses on exchanging ideas relating to the claim that “the  
current Vietnamese alphabet has 7 discriminated letters” and “4 letters which do not  
belong to the Vietnamese alphabet but have been used more frequently in the modern  
Vietnamese language” is a shortcoming and some measures should be taken to  
standardize the modern Vietnamese alphabet.  
Key words: Latin script, written language, Vietnamese alphabet, standardize.  
Quy lut phát trin của văn tự xét vmt cách biểu đạt đƣợc khái quát thành từ  
biểu hình đến biểu ý đến biu âm. Nhìn tmột góc độ nhất định, vic ta dùng chquc  
839  
ngcho tiếng Vit không ra ngoài quy luật đó. Ngày nay ta thƣờng nói đến toàn cu  
hoá. Trong thc tế cũng đã diễn ra quá trình toàn cu hoá chữ cái La tinh. Nhƣ ta thấy  
trên Internet ngày nay, văn tự sdng chcái La tinh chiếm đến 99%. Những nƣớc  
không dùng chữ cái La tinh cũng cần thông qua Tchc tiêu chun hoá quc tế (ISO)  
để thng nht mt tiêu chun phiên âm La tinh tiện cho giao lƣu văn hoá. Quan tâm  
nhiều hơn đến chViệt cũng chính là để tham gia tích cc vào quá trình toàn cu hoá.  
Tt nhiên, thực khó mà nói đến “chữ quc ngữ” nếu nhƣ chƣa định hình đƣợc bng chữ  
cái tiếng Vit. Vic to dng bkí tgọi là “Bảng chcái tiếng Việt” là một thành tu  
lớn lao. Đến nay vic sdng bng chữ cái này đã có lịch shàng thế k. Tht là n  
tƣợng khi ta đọc thy có bài viết đặt vấn đề “phân tích nhƣợc điểm và thiếu sót ca bng  
chcái tiếng Vit hin hành: có mt schcái bkì th(Ă, Â, Đ, Ê, Ô, Ơ, Ƣ) và lại  
thiếu 4 chữ cái đã trở nên thông dụng trong tiếng Việt hiện đại là F, J, W và Z” [4  
tr.153]. Và gii pháp chun hóa bng chcái tiếng Việt đã đƣợc tác gibài viết nêu ra  
sau khi lần lƣợt lun gii tp trung vhai nhóm gọi là “Nhng chcái bkì th” và  
Nhng chcái bdùng lu”. Về “Nhng chcái bkì th”, tác giả bài báo TS Lê Vinh  
Quc nói:  
Trong bảng chữ cái tiếng Việt hiện hành có bảy chữ đặc biệt, đƣợc tạo thành  
bằng cách bổ sung các dấu hiệu (“thêm mũ, thêm râu”) vào năm chữ cái Latin gốc (A,  
D, E, O, U) để làm thành những chữ cái mới cho riêng tiếng Việt (tạm gọi là các chữ  
biến thể). Đó là: Ă và Â (biến thể của A), Đ (biến thể của D), Ê (biến thể của E), Ô và Ơ  
(biến thể của O), Ƣ (biến thể của U). Nếu chỉ sử dụng để đánh vần (hay ghép vần), đọc,  
viết hay biên soạn từ điển thì những chữ biến thể này dƣờng nhƣ không có vấn đề gì  
phải bàn. Nhƣng khi sử dụng chúng trong những trƣờng hợp khác lại có vấn đề phát  
sinh. Khi cần sắp xếp một hệ thống nào đó theo vần chữ cái, ngƣời ta chỉ dùng các chữ  
cái Latin gốc mà không dùng đến các chữ biến thể đó. Chẳng hạn, khi dùng bảng chữ  
cái để ghi ký hiệu các hàng ghế của hội trƣờng, nhà hát, rạp chiếu bóng, sân vận động  
hay tàu xe, ngƣời ta đều ghi theo thứ tự nhƣ sau: A, B, C, D, E, G (...) O, P, Q (...), T,  
U, V, X, Y... Nhƣ vậy tức là các chữ biến thể (Ă, Â, Đ, Ê, Ô, Ơ, Ƣ) đã hoàn toàn bị loại  
bỏ. Khi cần trình bày các luận điểm theo thứ tự vần chữ cái, ngƣời ta cũng thản nhiên  
bỏ qua những chữ đó. Trong các môn học ở nhà trƣờng, khi cần dùng bảng chữ cái để  
trình bày các ký hiệu hay công thức, những chữ này không bao giờ đƣợc áp dụng.  
Chẳng hạn ở môn hình học luôn có các tam giác A-B-C, nhƣng chƣa bao giờ có tam  
giác A-Ă -Â!”  
Kế đó bài báo dành mục “Nhng chcái bdùng lu” để bàn vvic bng chữ  
cái tiếng Việt “thiếu 4 chữ cái đã trở nên thông dụng trong tiếng Việt hiện đại là F, J, W  
và Z”. Thực ra đây chính là vấn đề mà tác giả đã từng nêu trong trên báo Tui Trmt  
năm trƣớc đó. Xin đƣợc trích dẫn nguyên văn: “Từ đầu thế kỷ 20 đến nay, cả bốn chữ  
840  
cái này đã đƣợc dùng trong ngôn ngữ điện tín để thay cho dấu giọng và thay cho những  
chữ “thêm mũ, thêm râu” nêu trên. Khi ghi ký hiệu các hàng ghế ngƣời ta loại bỏ các  
chữ biến thể nhƣng lại thêm vào bốn chữ cái gốc Latin này. Cả bốn chữ đó nằm trong  
học vấn ở nhà trƣờng từ lâu với “lực F”, thang nhiệt độ F, các nguyên tố hóa học Flo,  
Fe, Wonfram, Zn, thời đại cổ sinh học “kỷ Jura” hay định luật “Jun-Len xơ”, với các  
bài toán tìm ẩn số x-y-z, các đơn vị đo công suất điện W hay kW hoặc đo sóng điện từ  
kHz, MHz và tên gọi của hàng loạt hóa chất nhƣ bazơ, saccarozơ, glucozơ, benzen...  
Chúng cũng chính thức hiện diện trong tên gọi tắt của các cơ quan, xí nghiệp của nƣớc  
ta: Fafilm, Fahasa, TFS, VFF, Z751, Z755, Z25... Chúng thƣờng xuyên xuất hiện trong  
các văn bản liên quan đến quan hệ quốc tế qua những tên gọi tắt của UNICEF, FAO,  
IMF, FIFA, AFC, WB, WTO, WHO... Trong đời thƣờng mọi ngƣời đã quá quen với tần  
số FM, máy fax, đèn flash, festival, quần jeans, nhạc jazz, võ judo, thịt jambon, khu vực  
WC... Chữ Z đƣợc dân ta đặc biệt ƣa thích nên một số ngƣời đã thêm nó vào tên của  
mình (Dzoãn, Dzếnh, Dzũng...), hoặc chêm vào từ thuần Việt (dzậy, dzũa, dzui dzẻ...) và  
thƣờng nói câu “từ A đến Z” thay cho câu “từ A đến Y”! Nếu kể cả những tên ngƣời,  
tên đất và tên các sản phẩm của nƣớc ngoài đƣợc viết đúng theo từ gốc trong các văn  
bản của nƣớc ta thì tần suất hiện diện của bốn chữ đó nhiều vô số kể. Đặc biệt là trong  
công nghệ thông tin, bốn chữ này đã trở thành những ký tự không thể thiếu và bắt buộc  
phải dùng. Theo đó, mọi website đều phải gắn liền với chùm ký tự “www” và phải viết  
đúng chuẩn quốc tế (chẳng hạn nhƣ website của Liên đoàn Bóng đá Việt Nam:  
www.vff.org.vn); trong khi các phím shift, page down, F1, F2, F3, F4... là những quy  
chuẩn quốc tế trên bàn phím của máy tính điện tử mà ai dùng cũng phải biết. Nói  
chung, F, J, W và Z đã trở thành những chữ cái thông dụng và cần thiết trong xã hội  
nƣớc ta. Sự khiếm khuyết các chữ này trong bảng chữ cái tiếng Việt đã làm việc sử  
dụng chúng không có cơ sở pháp lý, khiến chúng trở thành những chữ cái đƣợc dùng  
lậu.”[5] .  
Lp lun ca TS Quốc dƣờng nhƣ có thể tóm lƣợc nhƣ sau: 1) nhóm Ă, Â, Đ, Ê,  
Ô, Ơ, Ƣ có trong bảng chữ cái nhƣng không đƣợc dùng để đánh thứ tự các hàng ghế,  
các đề mục, gọi tên các hình ở môn hình học. Để khắc phục sự kì thị đó, ta nên đƣa  
chúng ra khỏi bảng chữ cái cơ bản; 2) nhóm F, J, W và Z đã đƣợc dùng thông dng  
trong tiếng Việt nhƣng chúng li không có mt trong bng chcái chính thc (chữ  
“ngoài luồng”) thành ra việc dùng chúng thiếu đi cơ sở pháp lí (dùng lu). Vì vy cn  
bổ sung đƣa vào bảng chcái (và tính ngay ti vic chun bị để đối phó h/hu quthay  
thế Z thay D, F thay PH).  
Tóm lại là, để cho 7 chữ Ă, Â, Đ, Ê, Ô, Ơ, Ƣ tránh đƣợc “kì thị” thì yêu cầu  
bng chcái tiếng Việt “tái định cƣ” chúng vào khu riêng (xem ra tình hình có vẻ để  
tránh kì thị “màu da” thì lại biến thành phân biệt “chủng tộc” vậy). Đồng thời, để chm  
841  
dứt “dùng lậu” thì đề nghbng chcái tiếng Việt “cơi nới” thêm chỗ cho bn chF, J,  
W và Z. Nói gn lại là, trƣờng hp bị “kì thị” không đƣợc dùng thì xđƣa ra ô riêng,  
còn trƣờng hợp đƣợc “dùng lậu” thì đề nghđƣa vào1. Kê dn ca chính tác gicho ta  
thấy “giải pháp chuẩn hóa” bảng chcái tiếng Vit – đơn giản thay hãy quay li hc  
tp bng chữ cái “Quốc văn Giáo khoa thƣ, 1925” hoặc làm nhƣ bảng chcái tiếng  
Pháp... Thc ra, clẽ thƣờng mà xét, “kì thị” và “dùng lậu” là con một nhà. Đƣa F, J, W  
Z vào cho khỏi “dùng lậu” thì dẫn đến “kì thị” những chkhác. Giữ để không “kì  
thị” chữ khác thì đến lƣợt bn chữ đó lại bxếp vào hàng bị “kì thị”.2 Trƣờng hợp “đƣa  
vào” tƣởng để rộng đƣờng hòa nhp quc tế thì vp chữ “chập đôi” vốn có, trƣờng hp  
“đƣa ra” tƣởng để không kì thdân tc thì ri li thành ra phân bit nhng chữ “đội mũ  
thêm râu có đuôi” với chữ “nguyên” Latin3. Lp lun ca TS Lê Vinh Quc vcâu  
chuyn Alechxandre de Rhodes “loại bbn chữ cái” F, J, W và Z khi “sáng tạo chữ  
quc ngữ” tạo cm giác bn chữ đó sở dĩ ngày nay ra nông nỗi lâm vào tình trạng “dùng  
lậu” ấy chvì trt sớm chúng đã bị tiếm quyn bởi PH, GI, D và Đ: “Đến nay, các nhà  
ngôn ngữ học vẫn không hiểu vì sao khi sáng tạo ra chữ quốc ngữ, linh mục Alexandre  
de Rhodes đã loại bỏ bốn chữ cái gốc Latinh nêu trên (tức bốn chữ F, J, W, Z) để rồi  
phải dùng PH thay cho F, dùng GI thay cho J và dùng D để ghi cái âm đáng lẽ thuộc về  
Z; rồi lại phải chế ra chữ Đ để ghi cái âm vốn thuộc về D?”, “Rất có thsbchữ Đ để  
trli vai trò chính xác ca chD (tức dùng D thay cho Đ), rồi dùng Z thay cho D hin  
hành” [4 tr.156]4. Vviệc này ông An Chi đã góp ý rất cthể trong bài “Có bị kì thhay  
không5. Ở đây chúng tôi chỉ muốn lƣu ý thêm rằng, tuy nói “rất có thể” nhƣng tới lúc  
đề xut bng chcái chun hóa ca mình thì tác giả đã thực sbchữ này đi. Vậy là,  
dù thế nào đi nữa, việc ông “đuổi” chữ Đ ra khỏi bng chcái chng phải cũng là một  
skì thhay sao?  
Bng chcái là cmột đại đề tài. Bàn bc vvấn đề này cn mt tm nhìn ngữ  
học bao quát “từ A đến Z” (hoặc “lẽ ra phi nói từ A đến Y” – li ca chính tác gi6).  
Tiếc rằng trình độ a bcvnghọc nhƣ chúng tôi không cho phép bản thân lp lun  
đƣợc thành hthng luận điểm a bê xê rành mch. Vy thì cách tt nht là clần lƣợt  
men theo các luận điểm ca tác gibài báo vậy. Trƣớc tiên thử xét trƣờng hợp đánh thứ  
thàng ghế bng các chcái. Có ththấy trong trƣờng hợp này, ngƣời ta đã dùng các  
chcái (mu t/con ch/chữ) nhƣ những kí hiu/hình hiu7. Khi dùng để đánh thứ tự  
hàng ghế, ta có thxem xét chữ cái nhƣ một hình hiu tri giác bng mắt (tƣơng tự nhƣ  
đánh số vy). Chúng tôi tin rng những ngƣời nghĩ bảng chữ cái trƣớc hết nhắm “khả  
năng ghi lại đủ chân thực, đủ chân xác bmt ngâm ca các tngữ”[2] tiếng ta và nó  
có “đặc thù” riêng khiến đáng để gọi là “bảng chcái tiếng Việt” sẽ thấy chẳng có gì là  
kì thị khi những chữ Ă, Â, Đ, Ê, Ô, Ơ, Ƣ ghi âm tiếng Việt này không đƣợc dùng để  
đánh thứ tự. Sự thực là dãy chữ Latin A, B, C, D, E, G,... với truyền thống xƣớng/gọi  
tên con chữ kiểu Pháp a, bê, xê, đê, en lờ,.. ... vê đúp, dét (lẫn cả cách gọi tên chữ kiểu  
842  
Việt i dài Y) khi điểm hàng ghế trong hội trƣờng cũng chẳng làm ny sinh vấn đề gì c.  
Nếu phân bit hàng ghế vi bng chthiếu “7 chữ kì thị” đó mà vn sln khi  
xƣớng/nói thì dùng chsố (nhìn hay đọc “thứ nhất”/“số một”, “thứ nhì/hai”/“số hai”)  
vy. Chng qua kí hiu thì nm trong hthng, khi chữ cái đã dùng cho cả hàng hay dãy  
thì con số dành để đánh cho từng ghế.8 Có ththy dãy không có các “biến thể” “đội mũ  
thêm râu” A, C, D, E, F, G, H, I, K, L, M, N, O, P, Q, R, S, T, U,... tbản thân chúng đã  
thành mt hthng kí hiệu “tối ƣu” cho việc đánh thứ thay to du hiu phân bit. Cách  
làm đó có lợi cho tri giác. Quan trọng hơn câu chuyện đánh thứ tthun bng chcái  
Latin hay đánh thứ ttheo bng chcái tiếng Vit, ở đây vấn đề chyếu là kí hiu giúp  
phân bit và nhn din tốt hơn.9 Mt cách gin d, câu chuyện nên đƣợc nhìn nhận nhƣ  
vy. Vì vy, có thể nói việc nhìn nhận hiện tƣợng gọi là "những chữ cái bị kỳ thị" là cách  
nhìn không đúng vấn đề. Không phải một số chữ cái không đƣợc dùng (trong những  
trƣờng hợp mà tác giả kê dẫn) thì kết luận thành "chúng bị kì thị" rồi liền đề nghị có biện  
pháp với bảng chữ cái tiếng Việt.  
Nhóm các chữ “dùng lậu” ít hơn về số lƣợng so vi nhóm các chữ “bị kì thị”. Tuy  
vy thc tế “sử dụng” chúng nhƣ ta thấy qua kê dn ca tác gilà khá phc tạp. Để có thể  
thc sự có đƣợc mt phn biện xác đáng cho luận điểm “cần đem chúng vào bảng chcái  
để chm dt tình thế dùng lậu” ta cần lần lƣợt tho lun từng trƣờng hp cth.10 Bn  
thân sự khái quát hóa thành ba trƣờng hợp (i), (ii) và (iii) nhƣ thế cũng cần đƣợc coi li và  
trong mỗi trƣờng hp thì tng cách nói kiểu “xut hin ttiếng Vit”, “tviết tt ngƣời  
Vit tự đặt”, “nm trong tphiên âm sang tiếng Vit”, “từ nƣớc ngoài đích thực” đều phi  
đƣợc gii thuyết rõ thì thì mới mong có đƣợc mt sự đối thoi tích cc. Chng hn, ta  
thy tác gixếp benzene vào trƣờng hợp (i) “gc từ nƣớc ngoài nhƣng phiên âm sang  
tiếng Vit” nhƣng độc gicó thể cho đó là từ tiếng Anh, thm chí là danh tviết đúng  
theo quy định ca IUPAC. Độc giả cũng có thể hi ti sao tác gilại đƣa từ cafe vào  
trƣờng hp (iii) từ nƣớc ngoài đích thực nhƣng không có từ Vit thay thế, hoc nếu dch  
hay phiên âm sang tiếng Vit strnên rc ri, thiếu chính xác so vi dùng tnguyên  
gc”. Đó phải chăng là café tiếng Pháp? Viết tiếng Vit cà phê (đã Việt hóa tới độ bình  
dân nghĩ rằng đó cũng là một loi ) thì có trnên rc ri, thiếu chính xác hay dùng  
tiếng Anh coffee thì chính xác hơn? Trong trƣờng hp (iii) này ta còn thy có tjambon.  
Thc tế không ít ngƣời viết giăm bông, thậm chí nhƣ lời ông An Chi viết kiểu “đầu gà  
đít vịt” jambông. Nói chung các hiện tƣợng đó chứa đựng nhiu vấn đề yêu cầu đƣợc mổ  
xẻ đến nơi đến chốn trƣớc khi đặt gii pháp này nêu kiến nghkia11. Khi phi nói trong  
các trƣờng hp mà tác ginêu ra, phiên âm luôn là mt câu chuyn hết sc phc tp.  
Nhƣng chúng tôi tin rằng nếu ngày nay chcòn ai phân vân vi phiên âm tHán Vit hay  
chê trách nói café, frein, chambre, enveloppe thành cà phê, phanh, săm/xăm, lp thì cũng  
chng có gì mà phi yêu cu đƣa ngay những chcái gọi là “dùng lậu” ấy vào bn chcái  
843  
tiếng Vit c. Phiên âm là mt vấn đề phc tạp, chúng tôi không đủ sc bàn. Chxin dn  
li ý kiến ca GS Cao Xuân Hạo và xin đƣợc tỏ thái độ n đồng:  
Mt khi "tiếng" đã đƣợc tháo rời ra thành âm, các văn bản tiếng Vit có thể  
sao đúng chính tả ca bt ctngữ nào (đặc bit là các tên họ) đƣợc viết bng chLa  
Tinh hoặc đã đƣợc chuyn tsang hchữ La Tinh. Điều này làm cho vic phiên âm các  
tên hcủa ngƣời nƣớc ngoài trnên hoàn toàn vô ích và thm chí rt có hi, nht là  
khi ta biết rng theo thống kê sơ bộ hơn 90% các tên họ nƣớc ngoài (kcả ngƣời Pháp  
và ngƣời Anh) bphiên âm sai chỉ vì ngƣời viết không biết đọc các tên họ ấy (chkhông  
phi vì quy tc chính ttiếng Việt không cho phép phiên âm đúng). Vả li làm sao có  
thbiết đọc cho đúng tên họ của dăm trăm thứ tiếng trong nhân loi? Trong tình hình  
văn hoá của thế gii ngày nay, vic truyền thông, trao đổi đƣợc thc hin chyếu là  
qua văn bản, cho nên chính tquan trọng hơn phát âm rất nhiu. Cái thói phiên âm  
sinh ra do một định kiến hoàn toàn vô căn cứ (chƣa bao giờ đƣợc kim nghim), cho  
rng qun chúng ít hc và hc sinh không thviết đúng và đọc đúng những từ nhƣ volt,  
watt, ampère hay những tên nhƣ Marx, Engels.” [3].  
Để tm gói li vấn đề, xin dẫn ra đây trƣờng hợp có khi là đã đồng thi liên quan  
đến chai chuyện “kì thị” và “dùng lậu” mà TS Lê Vinh Quốc đề cp: chW trong cách  
cách viết tt bt hTW. Có thlấy đó làm ví dcho việc “dùng lậu” (hiểu “lậu” theo  
nghĩa nào đi nữa - giu diếm, ngoài lung hay bt hp pháp) hay không? Chuyn thc ra  
có llà rt gin dị. Các văn bản hành chính đã đƣợc đánh máy bằng máy đánh chữ nhp  
ngoại và ngƣời ta dùng chữ W thay cho Ƣ không có trên bng phím. Tất nhiên cũng có  
cách gii thích khác cho rằng đó là kết quả “rút gọn” của “uwowng” tcách gõ kiu  
TELEX. Thậm chí có ngƣời cho rng W trong viết tt TW vmặt đánh máy chữ đƣợc to  
nên tvic gõ hai ln chV tạo thành VV “mô phỏng” Ƣ. Dù thế nào đi nữa thì tình tiết  
cơ bản ca câu chuyn vẫn là: “trung ƣơng” viết tắt là TƢ12 và W thay cho Ƣ tạo thành  
cách viết tt phbiến TW. Liu có thnhìn nhn chuyn này thành chuyện “kì thị” Ƣ và  
“dùng lậu” W đƣợc không? Để ri sau khi nhìn nhận thành nhƣ thế liền đi đến kết lun  
cn có gii pháp sửa đổi bng chcái tiếng Vit? Thc ra chuyn có thnói mt cách  
giản đơn rằng, ở đây W đã trở thành kí hiu ca chữ Ƣ trong cách viết tt TW thế thôi.  
Nói cách khác đó chỉ là câu chuyn gii pháp kĩ thut mà thôi.13  
Cách nói “những chcái bkì thị” và “những chữ cái đƣợc dùng lậu” có thể đƣợc  
xem là mt cách nói gây ấn tƣợng mnh và khá thú vị. Nhƣng suy cho cùng đó cũng chỉ  
là mt cách mô thiện tƣợng. Smô thiện tƣợng đó không dính dáng gì cho lm ti bn  
cht nghc ca vic nhn din trli bng chcái tiếng Vit. Chúng tôi không thy có  
gì là đích đáng khi đặt vấn đề đề nghchun hóa bng chcái do chcó hiện tƣợng gi là  
“kì thị” và “dùng lậu” hai nhóm chữ cái theo hình dung ca TS Lê Vinh Quc  
844  
Chú thích:  
1 Nghe nói Ý hai chữ J và W cũng đâu có chính thức đƣợc đƣa bảng chcái, thm chí  
bng chcái tiếng Ý còn “khuyết thiếu” cả vài ba “chữ cái Latin” na (X, K, Y). Không  
rõ dân Ý có thy bất an khi “dùng lậu” những tcó các chcái này không? Câu chuyn  
“chuẩn hóa” bảng chcái tiếng Vit mà TS Quốc đã nêu gọi gn lại cũng là chuyện  
“tách tách nhập nhập”. Ông An Chi nhận xét “sinh sự sự sinh”. Chắc không ít độc giả  
cm thy rt ấn tƣợng trƣớc một “đề tài ngiên cứu” nhƣ thế (chúng tôi cmn phép viết  
chữ “ngiên” đúng theo quan điểm mà chính tác gicó nêu trong bài - “Bỏ vn NGH,  
nht lot sdng vn NG (nge, xã hi chủ ngĩa)”.  
2
Có “lậu” suy cho cùng là do có “kì thị” hoặc quy định độc quyn (ví dthi Pháp  
thuộc có “rƣợu ty” thì rƣợu dân nấu thành “rƣợu lậu”).  
3 Đọc phn viết vnhng chcái bkì thnhững tƣởng tác gisẽ đề nghdùng Ă, Â, Đ,  
Ê, Ô, Ơ, Ƣ vào việc ghi kí hiu hàng ghế và đổi gọi “tam giác A-B-C” thành “tam giác  
A-Ă-”. Nhƣng rồi đến khi đề xut giải pháp “chuẩn hóa” bảng chcái thì tác gilại đề  
nghxem chúng chỉ là “phụ chú” của “bảng chữ cái cơ bản”.  
4 Không ngi xem thêm lí gii về Đ/D/Dz của Nguyên Nguyên (bài “Năm Mùi, thử tìm  
hiu chD (và Dz) trong tiếng Việt” - honque.com/HQ021/bKhao_nNguyen.htm). Các  
cắt nghĩa ngữ hc cn trng skhiến độc gilấy làm boăn khoăn trƣớc nhng cách nói  
đại loại “Chữ Z đƣợc dân ta đặc biệt ƣa thích nên một số ngƣời đã thêm nó vào tên của  
mình (Dzoãn, Dzếnh, Dzũng...), hoặc chêm vào tthun Vit (dzậy, dzũa, dzui dzẻ...)”.  
6 Cứ theo logic đó thì cũng nên chuyển cách nói “X-Y-Z” thành “V-X-Y”.  
7 Đƣơng nhiên các chữ cái tự thân chúng là để ghi âm mi con chlà mt kí hiệu “ghi  
âm” nói ra/đọc lên đƣợc. Đó vốn là “bản mệnh” ca chcái.  
8 Giả tƣởng tình hung có hội trƣờng dùng các chữ Ă, Â, Ê đánh dấu hàng ghế cùng ca  
ra vào và MC sgọi “mời nam đại biu ghế “á” một (Ă1) và nữ đại biu ghế “ớ”  
ba (Â3) ra cửa “ê” (Ê)...”! Không ngại giả tƣởng thêm tình hung nhng kí hiu chữ  
cái biến thnày bphai/m/mòn/bay mt phần “râu/mũ” – phần mà khi ta sơn/khắc/đúc  
chúng ngƣời ta cũng đã thấy “thêm công thêm việc”. Nhƣ là những hình nh tri giác từ  
845  
hthng, skhác bit hoàn toàn gia các kí hiệu giúp ngƣời ta phán đoán dễ dàng hơn  
cả trong trƣờng hp bhn chế hay trngi trong quan sát.  
9 Vlí mà nói nếu những ngƣời đánh dấu hàng ghế “nói thẳng” ra rằng hchn dùng  
dãy chLatin A, C, D, E, F, G, H, I, K, L, M, N, O, P, Q, R, S, T, U,... thì ta cũng  
không thquy ti kì thị Ă, Â, Đ, Ê, Ô, Ơ, Ƣ cho họ đƣợc. Chuyn không phi là họ đã  
không dùng bng chcái tiếng mình hay dùng bng chcái tiếng mình mà ctình gt  
bmy chữ “đội mũ mang râu” Ă, Â, Đ, Ê, Ô, Ơ, Ƣ. Câu chuyện tƣơng tự nhƣ việc –  
ví dụ ngƣời Trung Quc dùng dãy A, C, D, E, F, G, H, I, K, L, M, N, O, P, Q, R, S, T,  
U,... để đánh dấu hàng ghế trong nhà hát, hội trƣờng mà không nghĩ tới chuyện đó là  
mt skì thị đối vi - chng hạn dãy “甲乙丙丁(Giáp, Ất, Bính, Đinh,...) – 丑寅卯  
(Tí, Su, Dần, Mão,...)” của hthng can-chi truyn thng.  
10 Gạt trƣờng hợp “từ phiên âm” ra, ông Nguyễn Đức Dƣơng phân chia một cách rt dễ  
theo dõi các trƣờng hp còn li có cha các chF, J, W, Z thành 5 trƣờng hp (xem  
Cấp “giấy chứng minh” cho bốn chữ cái, Tuổi Trẻ, ngày 7/5/2012). Chúng tôi tán thành  
cách đặt vấn đề cấp “giấy chứng minh” và nghĩ rằng thực tế sử dụng bốn chữ F, J, W, Z  
(là nhng chữ không đƣợc dùng để ghi li âm vnào ca tiếng Vit) này chti mc  
khiến ta phi nêu yêu cu đƣa chúng vào bng chcái tiếng Vit.  
11 Cá nhân chúng tôi chng kì thgì sphn tp nhiễu nhƣơng hoặc dùng tmới hơn -  
“bựa” trong “thực tiễn” nói - viết gia xã hi. FAFILM rõ là mt li viết lai ghép hln  
mà cách nói/đọc (gi) GMT viết tt ca tiếng Anh thành “giê em-mờ tê” cũng là sự  
thƣờng. Nhƣng dù gì thì lúc nào cũng tồn ti mt ranh gii gia nhng cái thuc vtrí  
bên lề, “dùng lậu” thc svi nhng thchính thng, chun tc, miễn “kì thị”.  
12  
Viết tắt TƢ không có dấu chm cách gia hai chữ gây đọc liền thành “tƣ” (“của tƣ”  
và “bốn”).  
13 Chúng tôi tán đồng quan điểm chp nhn F, J, W, Z nhƣ là “yếu tngoại biên” (Trần  
Chút) và việc đƣa chúng vào từ điển chỉ là để “mở rng khả năng xử lý văn bản” (An  
Chi). Tƣơng tự, “Nếu chlà việc “thêm các ký tự này” dùng cho “công nghệ thông tin”  
thì không liên quan gì đến bng chcái tiếng Vit. Môn hc này, hay tài liu gii thiu  
về “công nghệ thông tin” chỉ cần nêu “phàm lệ” là đủ, không cn phải điều chnh bn  
chcái ca tiếng Việt làm gì.” (Trần Trí Dõi). Có ththeo dõi li các trích dn này từ  
846  
TÀI LIU THAM KHO  
1. An Chi (2011), “Xin để yên chquc ngữ”, Đƣơng Thi, (35) - 2011.  
2. Nguyễn Đức Dƣơng (2012), “Cấp “giấy chứng minh” cho bốn chữ cái”, Tui Tr,  
7/5/2012.  
3. Cao Xuân Ho (2003), My nhn xét vchQuc ngữ”, Tiếng Việt văn Việt ngƣời  
Vit, Nxb Tr, 2003.  
4. Lê Vinh Quốc (2013), “Một sbiện pháp để chun hóa bng chcái tiếng Việt”, Tp  
chí Khoa hc Trƣờng ĐHSP TPHCM, (46) 5/2013.  
5. Lê Vinh Quốc (2012), “Những chcái bkthị”, Tui Tr, 3/5/2012.  
847  
pdf 9 trang baolam 12/05/2022 5920
Bạn đang xem tài liệu "Bảng chữ cái tiếng Việt cần phải được “chuẩn hóa”", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfbang_chu_cai_tieng_viet_can_phai_duoc_chuan_hoa.pdf