Cái tôi cô đơn, lạc loài của Vũ Bằng trong tùy bút “Thương nhớ mười hai”

CÁI TÔI CÔ ĐƠN, LẠC LOÀI CỦA VŨ BẰNG TRONG  
TÙY BÚT “THƯƠNG NHỚ MƯỜI HAI”  
Nguyễn Thị Thúy Nga  
Khoa Ngữ văn – Khoa học xã hội  
Email: ngantt74@dhhp.edu.vn  
Ngày nhận bài: 08/5/2019  
Ngày PB đánh giá: 25/5/2019  
Ngày duyệt đăng: 31/5/2019  
TÓM TẮT: “Thương nhớ mười hai” là một tùy bút xuất sắc, là tác phẩm kết tinh tài năng nghệ thuật  
của Vũ Bằng. Bên cạnh những nhớ thương đầy vơi về bốn mùa Bắc Việt, tác phẩm còn thể hiện rõ nét  
chân dung cái tôi cô đơn, lạc loài của tác giả. Chân dung ấy được bộc lộ qua cảm giác xa lạ, bất hòa  
với không gian, môi trường, hoàn cảnh; qua cảm nhận sâu đậm về chia lìa, ly biệt và qua mặc cảm, nỗi  
buồn về thân phận.  
Từ khóa: Vũ Bằng, “Thương nhớ mười hai”; tùy bút; cái tôi cô đơn.  
THE MISFIT AND LONELY SELF OF VU BANG IN “THUONG NHO MUOI HAI”  
ABSTRACT: “Thuong nho muoi hai” is a remarkable collection of reflective essays – a crystallization  
of Vu Bang’s artistic talent. Besides the pure nostalgia for the four seasons of Northern Vietnam, the  
work clearly illustrates the portrait of a lonely and misfit self of the author. That portrait is reflected  
through a sense of distance and alienation from settings and circumstances; through intense feelings of  
seperation and a sense of inferiority.  
Keywords: Vu Bang, “Thuong nho muoi hai”, reflective essays, lonely self.  
1. MỞ ĐẦU  
thế trong lịch sử văn học Việt Nam... Văn  
Vũ Bằng, ở những trang viết tiêu biểu  
nhất, có cái buồn xa vắng, nỗi nhớ đất đai  
và năm tháng, có nỗi buồn trong trẻo mà  
thấm thía của người xa xứ. Đó là nỗi buồn  
nhớ đặc thù thuở đất nước chia đôi. Đọc  
“Thương nhớ mười hai”, một tùy bút xuất  
sắc của nhà văn, chúng tôi nhận thấy, bên  
cạnh nỗi buồn nhớ dằng dặc về Hà Nội,  
về Bắc Việt, luôn hiện diện một cái tôi cô  
đơn, lạc loài của Vũ Bằng. Cái tôi ấy khắc  
khoải và day dứt trên mỗi dòng văn, mỗi  
câu chữ của cuốn tùy bút viết về “mười  
hai tháng thân phận một đời người” (Chữ  
dùng của Tô Hoài) [2; 115].  
Vũ Bằng là một hiện tượng văn học có  
nhiều uẩn khúc, éo le cả trong đời và trong  
văn. Người ta nói rằng, suốt cuộc đời, Vũ  
Bằng đã đánh đổi tất cả chỉ để xin lấy về  
phận mình cái đích thực, cái chân chính  
của Nghệ thuật. Mong ước và nỗ lực của  
nhà văn giờ đã được đền đáp: những nghi  
vấn, khuất lấp về tiểu sử dần được làm  
sáng tỏ; tác phẩm của ông được khôi phục,  
công bố và được giới nghiên cứu phê bình  
quan tâm; Vũ Bằng được đánh giá không  
chỉ là nhà báo bậc thầy mà còn là một nhà  
văn tài năng, có một vị trí không thể thay  
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020  
59  
2. NỘI DUNG  
Bắc bộ, vì thế, đã ăn sâu vào máu thịt, ám  
ảnh trong tâm thức và trở thành thứ năng  
lượng cần thiết cho sự tồn tại, phát triển  
nhân cách, tâm hồn nhà văn. Kháng chiến  
chống Pháp kết thúc, được sự phân công  
của tổ chức tình báo cách mạng, thực hiện  
nhiệm vụ mới, Vũ Bằng chia tay vợ con,  
nhập vào đoàn người nhốn nháo kéo nhau  
vào Nam. Định cư tại Sài Gòn, chấp nhận  
hi sinh danh tiết trong tình thế ngặt nghèo,  
Vũ Bằng đã có sự lựa chọn và nhập cuộc  
đẹp đẽ của một người nghệ sĩ, người trí  
thức yêu nước. Tuy nhiên, có một sự thực  
là, hi vọng của ông cũng như nhiều chiến  
sĩ cách mạng khác về ngày Hiệp thương  
thống nhất, Bắc Nam sum họp lại kéo dài,  
khiến ông có lúc hoang mang, lo lắng,  
bất an. Cơ hội đoàn tụ gia đình, trở về  
nơi chôn nhau, cắt rốn càng lúc càng như  
bóng chim tăm cá. Do đó, “Thương nhớ  
mười hai” đã trở thành “bản sầu ca đằng  
đẵng của một kiếp sống tha hương, khắc  
khoải nỗi nhớ thương về miền viễn xứ”  
[2;151]. Với tâm lí của kẻ ăn đợ, ở nhờ  
nên sống giữa Sài Gòn hoa lệ, nhộn nhịp,  
trung tâm của Nam Việt lúc ấy, Vũ Bằng  
luôn cảm thấy mình như một người xa lạ,  
thừa thãi. Dù từng bảo “cùng là đất quê  
hương mình, đi đâu mà chẳng thế?” nhưng  
ông vẫn không thể không nhận ra những  
cái khác biệt, những điểm khó thích nghi,  
không dễ hòa hợp của một vùng đất cho  
đến lúc bấy giờ vẫn lạ lẫm với mình. Đó  
là một không gian thiên nhiên đặc trưng  
ở vùng nhiệt đới gần xích đạo, với thời  
tiết nắng nóng và mưa nhiều; là một môi  
trường sinh thái với nhà cửa thấp tè, chật  
chội, phố xá luôn ồn ào, náo nhiệt:  
2.1. Cảm giác xa lạ, bất hòa với không  
gian, môi trường, hoàn cảnh sống  
Đặc trưng cơ bản nhất của ký là thông  
tin sự thật, sự thật của sự kiện và sự thật  
của tâm trạng. Trong ký, tuỳ bút là thể tài  
đậm chất trữ tình nhất vì tuỳ bút là kiểu  
trần thuật bám sát vào mạch cảm xúc của  
cái tôi trữ tình bằng một lời văn giàu liên  
tưởng, giàu xúc cảm, nội dung cô đọng,  
ngôn ngữ giàu hình ảnh và nhịp điệu.  
Bởi vậy, với gần ba trăm trang sách, tùy  
bút “Thương nhớ mười hai” được viết  
ra với mục đích mà theo nhà văn “không  
có gì cao rộng, chẳng qua chỉ là đánh dấu  
những ấn tượng hiện ra trong trí óc những  
buổi mây chiều gió sớm, sầu biệt ly vơi  
sáng đầy chiều” và khơi “những mối cảm  
hoài” của “những người khách thiên lý  
tương tư” [1;17]. Tức là, “Thương nhớ  
mười hai” đậm đặc chất trữ tình, chất thơ  
và đau đáu những tâm sự, nỗi niềm riêng  
của một người đang sống cảnh ngày Nam  
đêm Bắc. Cái tôi của Vũ Bằng, hiển nhiên,  
sẽ được phơi trải đủ đầy, rõ nét trong tùy  
bút này qua những cảm xúc, những thức  
nhận về sự sống, con người trong không  
gian ngoài ấy, trong này, ở thời gian từ  
hiện tại mà hồi tưởng về quá khứ.  
Ở “Thương nhớ mười hai”, trạng thái  
cô đơn, lạc loài, trước hết, được hình thành  
từ cảm giác xa lạ, bất hòa của Vũ Bằng với  
không gian, môi trường, hoàn cảnh sống  
của hiện tại.  
Sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, toàn bộ  
tuổi thơ, tuổi trẻ, con đường lập thân, lập  
nghiệp trong 40 năm của Vũ Bằng đều  
gắn với môi trường tự nhiên xã hội của Hà  
Nội nói riêng, Bắc Việt nói chung. Không  
gian thiên nhiên, văn hóa truyền thống  
“Ở đây, từ tháng 1, trời nắng chói  
chang, làm cho đôi mắt mờ, đầu nhức”  
[1; 24].  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG  
60  
“Đêm tháng Giêng ở Sài Gòn nóng  
quá, có khi đến sáng mà người nằm ngủ  
còn lã chã mồ hôi” [1; 32].  
điên cuồng cho ông via, bà cụ, chàng trai,  
cô gái đều rú cả lên muốn “vặn mình xà”  
nhảy điệu vũ “cha cha cha” rồi thoát y vũ  
trong “sô” Trương Minh Giản” [1; 26]; là  
lối sống mà những tập tục truyền thống như  
lễ Tết không còn được mong đợi, nó đôi  
khi trở thành gánh nặng và sự phiền phức:  
“Liền ba ngày Tết mà cứ tái diễn cái trò như  
thế (chúc rượu) thì sức mấy mà không quỵ,  
mà không chán mớ đời. Vì thế, có nhiều  
người ở đây sợ Tết, cứ sắp hết năm thì lại  
xếp một số tiền đem cả gia đình đi Đà Lạt  
hay Vũng Tàu, Nha Trang với thâm ý “bế  
môn môn tạ khách” [1; 290].… Không thể  
hòa đồng với không gian văn hóa đô thị  
Sài Gòn, cái tôi nhà văn trở thành kẻ lạc  
lõng, chơ vơ, lạc loài nơi đất khách, triền  
miên trong trạng thái cô đơn, “cô chích”.  
Dị ứng với những điều lạ lùng trong lối  
sống của con người vùng Nam Việt mà bao  
năm định cư tại Sài Gòn, Vũ Bằng được  
chứng kiến, trải nghiệm, thành ra, cảm giác  
tha hương, nỗi niềm hoài niệm về Bắc Việt  
của tác giả trong tùy bút này lại càng khắc  
khoải và mãnh liệt hơn bao giờ hết. Nó  
tràn ra thành nỗi nhớ dằng dặc, “đầy sáng  
vơi chiều”, thành tình yêu sâu nặng mà tác  
giả “Thương nhớ mười hai” dành cho quê  
hương, xứ sở.  
“ Lòng đã nóng như thiêu, nhà lại thấp,  
bức cứ điên lên” [1; 24].  
“Tháng Giêng ở miền Nam ngà ngọc  
có một vẻ đẹp “li kì” làm cho người ta  
háo hức, khiến cho cổ họng khô teo, muốn  
uống nước cả ngày” [1; 26].  
“Vào cữ Tết, nắng ở đây vỡ đầu xát  
tai”[1; 290].  
“Nhưng cái mưa ở miền Nam, lạ lắm.  
Chính vào lúc mình cầu mưa như thế  
thì chọc thủng trời ra cũng chẳng mưa;  
nhưng lại cũng vào lúc mình không ngờ  
và không mong mưa nhất thì mưa, nhiều  
khi không kèn không trống, trút xuống  
ầm ầm làm người đi đường không kịp tìm  
chỗ ẩn” [1; 115] …  
Cố gắng để thích nghi với những cái  
lạ, những cái bất thường, trái ngược ấy mà  
không thành, người ta thường gặp trong  
tùy bút “Thương nhớ mười hai” một cái  
tôi thấm thía nỗi chán chường, cô đơn.  
Không chỉ đối mặt với những cái khác  
lạ thuộc cảnh quan môi trường sinh thái,  
nhà văn còn phải đối mặt với những trái  
ngược thuộc lối sống đô thị bị lai căng kiểu  
Mỹ. Đó là nhịp sống nhanh, vội vàng hối  
hả của những đô thị đang lên: “trong đây,  
người ta vội quá: người tử tế lo làm lụng  
vội vàng để kiếm sống đã đành, ngay các  
cô tứ thời lấy ngoại kiều “ngồi lên đống  
tiền” cũng vội; các xe hơi chạy vội, cái kèn  
xe bóp vội, uống rượu cũng vội, xoa mạt  
chược cũng vội” [1; 25]; là cuộc sống văn  
minh mà bát nháo, xô bồ của một đô thị  
hiện đại: “nhà nào dù kiết xác đến đâu cũng  
có một tủ lạnh để vài ba chai nước lọc, một  
cái radio, một cái tivi hò hét những điệu vũ  
2.2. Cảm nhận về sự chia lìa, li biệt  
Cảm nhận sâu đậm về chia lìa, li  
biệt thường đưa đến nét tâm lí cô đơn,  
cô quạnh cho con người. “Thương nhớ  
mười hai” cũng ở trong trường hợp đó.  
Các nhân vật dù xưng anh, xưng tôi hay  
được gọi là người khách xa nhà, người  
xa quê… trong thiên tùy bút này, lúc nào  
cũng thường trực ý thức về nông nỗi cách  
biệt, chia li của phận mình. Bởi lẽ ấy,  
trong tác phẩm mới xuất hiện một loạt  
các trạng ngữ chỉ không gian được chia  
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020  
61  
thành hai vế khác biệt: ở Sài Gòn, ở miền  
Nam, ở đây, ở trong đây, trong này… ở  
Hà Nội, ở Bắc, ở miền Bắc, ở Bắc Việt…  
Đây có thể xem là minh chứng cho thấy  
nỗi day dứt của nhà văn về tình trạng tha  
hương của mình, đồng thời, nó chính là  
cách giúp nhà văn tạo ấn tượng rõ nét về  
khoảng cách không gian trùng trùng sông  
núi của sự chia xa, cách trở.  
còn thơm mát hơn cả hoa cau hoa bưởi.  
Người ta nhớ heo may, giếng vàng, người  
ta nhớ cá mè, rau rút, người ta nhớ trăng  
bac, chén vàng.  
Nhớ quá, bất cứ cái gì của Hà Nội  
cũng nhớ, bất cứ cái gì của Bắc Việt cũng  
nhớ, nhớ từ cánh đồng lúa con gái mơn  
mởn nhớ đi, nhớ từ tiếng hát người mẹ  
ru con buổi trưa hè mà nhớ lại, nhớ hoa  
sấu rụng đầu đường Hàng Trống, nhớ quả  
bàng ở Hải Hậu rụng xuống bờ sông đào,  
nhớ sen Linh Đường thơm ngào ngạt cả  
bầu trời mà nhớ lên, nhớ nhãn Hưng Yên,  
vải Vụ Bản, cá anh vũ Việt Trì, na Láng,  
bưởi Van Phước, cam Bố Hạ, đào Sa Pa,  
mà nhớ xuống…”[1;13].  
Mở đầu “Thương nhớ mười hai”, phần  
Tự ngôn, Vũ Bằng chẳng phải đã tìm thấy  
một hình ảnh so sánh rất đúng và trúng để  
diễn tả tâm tư vụn vỡ và nỗi đau đớn, giày  
vò trong tâm hồn của con người phải lìa  
quê hay sao. Đoạn văn sau đây chẳng phải  
đã nói hết được tâm trạng cô đơn, trống  
rỗng của cái tôi tác giả hay sao:  
Cánh cánh nỗi đau chia lìa, rưng rưng  
nỗi nhớ thương trong xa cách, Vũ Bằng  
đã có những dòng hoài niệm đẹp đẽ, lấp  
lánh về một không gian thiên nhiên xứ  
Bắc trong trẻo mà diễm tình. Hình ảnh cố  
hương, vì thế, sống động, có hình, có nét  
trên những trang văn Vũ Bằng.  
“Lòng người xa xứ y như thể là khúc  
gỗ bị mối ăn, mục nát từ lúc nào không  
biết. Trông bề ngoài thì không có gì khác  
lạ, nhưng cầm một cánh hoa khẽ đập vào  
thử mà xem: tiếng gỗ kêu nghe mệt mỏi, u  
buồn, mà nếu gõ mạnh thêm chút nữa, ta  
sẽ thấy gỗ vỡ tan, để lộ ra những tảng mục  
lỗ chỗ như tổ ong, tiết ra một thứ bụi vàng  
hanh hao, nhạt nhẽo. Con tim của người  
khách tương tư cố lí cũng đau ốm y như  
gỗ mục. [1; 10].  
Như một quy luật tất yếu của trái tim,  
nhớ về cố hương, tác giả không thể không  
nhớ tới cố nhân. Người phụ nữ gieo nhớ  
và thương, để lại cả những mong ngóng  
và dày vò, mang đến ám ảnh về cả sum  
vầy và li biệt cho Vũ Bằng, không ai khác,  
đó chính là Quỳ, người vợ tấm mẳn, tào  
khang ở đầu kia đất nước. Nhắc hay gọi  
tên Quỳ chỉ vài lần nhưng bóng dáng một  
người đàn bà đẹp như trong mộng, một  
người bạn đời tri kỉ, chu đáo, một tình  
nhân quyến luyến, một người mẹ tảo  
tần, người vợ ân cần, chiều chuộng, một  
người phụ nữ gia đình biết chăm lo, quán  
xuyến… lại đậm đặc và in bóng trên hầu  
hết các chương của cuốn tùy bút. Nó làm  
thành những đoạn, những trang hay nhất  
và xúc động nhất của Vũ Bằng:  
Trong một đoạn khác, cái tôi cô đơn,  
lẻ loi được kết tụ và bầm lại, trở thành nỗi  
đau, khi nhức nhối, lúc âm ỉ, khiến kẻ ly  
hương chẳng thể yên lòng. Chữ nhớ lặp đi  
lặp lại mấy chục lần không chỉ diễn tả nỗi  
nhớ vơi đầy, dằng dặc của tác giả mà còn  
cho thấy niềm khắc khoải li biệt trong tâm  
trạng người xa quê:  
“Người ta nhớ nhà, nhớ cửa, nhớ  
những nét mặt thương yêu, nhớ những  
con đường đã đi về năm trước, nhớ người  
bạn chiếu chăn dắt tay nhau đi trên con  
đường vắng vẻ ngào ngạt mùi hoa xoan  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG  
62  
“Người đàn bà đẹp mặc áo xanh nói  
tới đó thì vòng tay ta khép lại, làm cho  
trăng non ở ngoài cửa sổ cũng phải thẹn  
thùng. Đôi mắt đẹp lung linh sầu. Ta thấy  
như cả một mảnh vườn thơm ngát hương  
cau nghiêng xuống mé giường xô lệch”.  
[1; 34].  
rơi trên giàn hoa thiên lý, anh khóc vợ,  
khóc cho chính mình, khóc không cho  
ai biết… Thôi thế là hết, đợi chờ gì nữa,  
bây giờ thì cầu xin gì nữa? Vợ chồng lấy  
nhau từ lúc hàn vi, đến lúc chết tưởng là  
được vuốt mắt cho nhau, ai ngờ đâu lại vô  
duyên đến thế” [1; 202].  
“Thương nhớ mười hai” với những  
con chữ thấm nhiều nước mắt, những  
dòng văn như rỉ máu, đã cho ta thấu cảm  
với nỗi tương tư cố hương và cố nhân của  
tác giả, cho ta hiểu và trân trọng, nâng niu  
những mảng màu của tập tục, lễ nghi trong  
bức tranh văn hóa của Hà Nội và Bắc Việt,  
nó cũng đem tới cho ta một cơ hội được  
trở về nguồn cội, nhập hồn vào với thiên  
nhiên, cảnh sắc, sản vật, con người… ở  
đó, tất thảy đều toát lên vẻ đẹp thanh tao,  
tinh tế, hồn hậu mà vẫn đậm hồn vía của  
quê hương Bắc Việt.  
“Tôi nhớ những buổi tối đi trên con  
đường tòa án ngan ngát mùi hoa sữa, nhớ  
những đêm trăng hai đưa dắt nhau đi trên  
đường Giảng Võ, những đêm mưa ngâu,  
thức dậy nổi một nồi cơm gạo vàng ăn với  
thịt con gà mái ấp…” [1; 40].  
“Nhớ quá chừng là nhớ, thương quá  
chừng là thương. Thương nhất là người  
vợ bé nhỏ yêu chồng, mùa nào thức nấy,  
không bao giờ đợi cho chồng nói phải lên  
sự ước mơ” [1; 46].  
“Quỳ ơi, giờ này em ở đâu? Em có  
biết tại cái xứ có nhiều loại kèn xe hơi cực  
kì tối tân này, em có biết rằng có người  
chồng thỉnh thoảng trông ra nắng tháng tư  
lại nhớ đến một buổi trưa tiền kiếp, chúng  
ta đang dựa gốc cây thiêm thiếp, sực nghe  
thấy tiếng chim tu hú đậu ở đâu mà kêu to  
như thể ở chính bên tai vậy”[1; 85 ]…  
2.3. Tâm lí mặc cảm và nỗi buồn thân phận  
Ở “Thương nhớ mười hai”, cái tôi cô  
đơn, lạc loài còn lẩn khuất đâu đó qua tâm  
lí mặc cảm và nỗi buồn thân phận của  
người viết. Trong những năm chống Pháp,  
Vũ Bằng nghe không ít những quy kết,  
sỉ vả về mình là kẻ quay lưng với kháng  
chiến khi ông hồi cư về thành Hà Nội để  
hoạt động tình báo. Sau năm 1954, ông  
di cư vào Nam vẫn là để thực hiện công  
tác tình báo do cấp trên phân công, nhưng  
cuộc ra đi ấy phải núp dưới hình thức một  
cuộc trốn chạy. Lần thứ hai trong đời, Vũ  
Bằng bị người đời khinh ghét, bị đồng  
nghiệp trong giới văn chương, báo chí  
dò xét, nghi ngờ về thái độ chính trị. Ông  
chấp nhận tất cả những tai tiếng ấy chỉ để  
tạo ra một vỏ bọc chắc chắn, an toàn cho  
các hoạt động phục vụ cách mạng. Tuy  
thế, về mặt tâm lí, có thể nói, Vũ Bằng  
hoặc vẫn mang trong mình khuynh hướng  
Người đàn bà thuần hậu mang tên Quỳ  
được nhà văn miêu tả gắn với không gian  
thuộc về gia đình, nàng tượng trưng cho  
gia đình, cho tổ ấm, cho hạnh phúc trong  
quá khứ của Vũ Bằng. Điều đó có nghĩa là,  
nỗi đau của tác giả ở đây không chỉ là nỗi  
đau cách xa đôi lứa mà nó còn là nỗi đau  
gia đình ly tán nên nó trở nên khắc khoải,  
giày vò. Trong hoàn cảnh kẻ Bắc người  
Nam, nỗi nhớ thương của tác giả luôn đi  
liền với cảm thức chia lìa, li biệt, thậm chí  
nhớ thương sóng đôi với tang thương. Hình  
tượng cái tôi Vũ Bằng, vì vậy, thấm đẫm  
nỗi cô đơn, trống trải và tuyệt vọng:  
“Trong bóng đêm lạnh, có tiếng mưa  
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020  
63  
muốn thanh minh, muốn khẳng định phẩm  
giá hoặc sẽ cam chịu những lời buộc tội  
nhưng sẽ đau đáu cả đời nỗi mặc cảm và  
sự chua chát cho thân phận. Việc không  
hề trở lại Hà Nội, không quay lại Bắc Việt  
lần nào từ ngày bước chân ra đi cho đến  
khi đất nước độc lập, giang sơn thu về một  
mối (dù trên những trang văn Vũ Bằng,  
tình yêu với đất Bắc mãnh liệt, da diết,  
cuộn chảy đến nhức nhối tâm can), chính  
là lời giải thích về nét tâm lí thường trực  
ở nhà văn. Nó nghiêng nhiều hơn về phía  
sự mặc cảm thân phận của con người luôn  
phải gắn với điều tiếng, về phía nỗi đau  
đau thân phận con người phải sống kiếp  
con chim lìa đàn. Tuy nhiên, đấy là cách lí  
giải trên phương diện yếu tố đời tư, yếu tố  
bên ngoài tác phẩm. Nó quan trọng nhưng  
không hoàn toàn chi phối tư tưởng của  
nhà văn. Nhìn trên phương diện tác phẩm,  
“Thương nhớ mười hai” có những dấu hiệu  
về hình thức giúp ta nhận diện nỗi buồn,  
nỗi mặc cảm thân phận của tác giả. Trong  
cuốn tùy bút này, Vũ Bằng nhiều lần tự  
gọi mình là “người xa quê”, “người khách  
xa nhà”, “người xa nhà”, “người mắc bệnh  
lưu lý”, “người ly hương”, “du khách đa  
xuân tứ”, “người đàn ông oan khổ lưu ly”,  
“người khách tương tư cố lý”, “người sầu  
xứ”… Lối định danh vừa cụ thể vừa trữ  
tình như thế tạo ra cách giới thiệu nhân vật  
không chỉ duyên dáng, mềm mại mà còn  
hàm ẩn những day dứt về thân phận chia  
lìa, ly tán. Lối định danh ấy cũng cho thấy  
rất rõ ý thức, mặc cảm của nhà văn về thực  
trạng cô đơn, bơ vơ, lạc loài của mình.  
trong văn học, trong thơ ca kháng chiến,  
vì thế, sẽ là cái tôi công dân hòa hợp trọn  
vẹn với cái ta nhân loại trong niềm vui bất  
tuyệt của những tháng ngày khói lửa. Để  
trở thành nền văn học xung kích, nhà văn  
sẽ tránh nhắc đến buồn đau, càng tránh nói  
về nỗi cô đơn. “Thương nhớ mười hai”  
thuộc về thành tựu của Văn học đô thị  
miền Nam giai đoạn 1954-1975, “một bộ  
phận văn học tồn tại với những nội dung,  
đặc điểm, quy luật riêng, khác với văn  
học cách mạng” [3; 17]. Điều đó lí giải vì  
sao cách cảm thụ cuộc sống và con người  
của Vũ Bằng trong tùy bút này đi chệch  
khỏi quỹ đạo thông thường của nền văn  
học phục vụ và cổ vũ chính trị. Cần thấy  
rằng, tâm lí cô đơn là trạng thái thường  
trực của cái tôi tác giả trong “Thương nhớ  
mười hai”, nó trở thành động lực đưa Vũ  
Bằng trở về, đắm đuối trong những hoài  
niệm ấm áp, tươi xanh. Nó cũng là động  
lực để nhà văn dệt gấm hoa lên không gian  
thiên nhiên, không gian sinh tồn và không  
gian văn hóa Bắc Việt. Từ đây, thiên tùy  
bút truyền cho người đọc những hiểu biết  
thú vị, tình yêu và sự gắn bó máu thịt với  
mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình.  
3. KẾT LUẬN  
Vũ Bằng bắt đầu viết “Thương nhớ  
mười hai” vào đầu năm 1960, năm 1965  
ông viết tiếp và đến năm 1971, cuốn sách  
mới có hình hài. Vậy là phải cần đến hơn  
chục năm để nhà văn hoàn thành bản thảo  
của mình. Quãng thời gian 11 năm dài  
đằng đẵng ấy đủ để thấy nỗi nhớ thương  
đất Bắc oằn nặng và khắc khoải thế nào  
trong ông. Áng văn độc đáo, tài hoa này  
đâu chỉ là những hoài niệm da diết, mãnh  
liệt của kẻ ly hương muốn tìm về nguồn  
cội mà nó còn làm hiển hiện thật rõ hình  
tượng cái tôi tác giả mang tâm trạng cô  
Con người trong văn học Việt Nam  
1945-1975 là con người quần chúng được  
đặt trong một đoàn thể, một đội ngũ, đặt  
vào dòng chảy chung của đời sống và các  
sự kiện lớn lao của cộng đồng. Cái tôi  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG  
64  
đơn, lạc loài nơi đất khách. Hình tượng  
ấy cho chúng ta hiểu hơn về tâm tư người  
viết trong những ngày tháng đất nước biến  
động, về những éo le của hoàn cảnh cắt  
chia và về tình yêu thuần khiết nhưng cao  
ngần mà Vũ Bằng dành cho quê hương đất  
nước. Thiên tùy bút này ra đời không vì  
mục đích nghệ thuật. Nhưng vượt ra ngoài  
chủ định của người viết, “Thương nhớ  
mười hai” đã trở thành tác phẩm kết tinh  
tài năng nghệ thuật sáng chói trong cuộc  
đời cầm bút Vũ Bằng. Hoàng Phủ Ngọc  
Tường từng cho rằng, những trang kí gây  
xúc động bởi trước khi chảy qua ngòi bút  
đã chảy qua trái tim của anh như một dòng  
máu. Với ý nghĩa ấy, thiết nghĩ, “Thương  
nhớ mười hai” chính là một tùy bút có khả  
năng lay động hồn người.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Vũ Bằng (2003), “Thương nhớ mười hai”,  
Mê chữ, Miếng ngon Hà Nội, Món lạ miền Nam,  
NXB Văn học, Hà Nội.  
2. Văn Giá (2000), Vũ Bằng, bên trời thương  
nhớ - NXB VHTT, Hà Nội  
3. Nguyễn Văn Long (CB)(2016), Văn học  
Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945,  
NXB ĐHSP, Hà Nội.  
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020  
65  
pdf 7 trang Hứa Trọng Đạt 09/01/2024 280
Bạn đang xem tài liệu "Cái tôi cô đơn, lạc loài của Vũ Bằng trong tùy bút “Thương nhớ mười hai”", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfcai_toi_co_don_lac_loai_cua_vu_bang_trong_tuy_but_thuong_nho.pdf