Chủ đề “bản địa” - “ngoại lai” và sự suy ngẫm về căn tính văn hóa trong tiểu thuyết G. G. Márquez và M. V. Llosa

TP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN  
TP 6 S4  
CHỦ ĐỀ “BẢN ĐỊA” - “NGOẠI LAI”  
VÀ SỰ SUY NGẪM VỀ CĂN TÍNH VĂN HÓA  
TRONG TIỂU THUYẾT G. G. MÁRQUEZ VÀ M. V. LLOSA  
Lê Ngọc Phương  
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Tp. HCM  
Nhn bài ngày: 6/6/2019; Ngày duyệt đăng: 27/08/2019  
Tóm tắt  
Gabriel Garcia Márquez và Mario Vargas Llosa là hai nhà văn danh tiếng, được đánh giá như  
là những tiểu thuyết gia quan trọng bậc nhất của văn học viết bằng tiếng Tây Ban Nha thế kỷ XX,  
đặc biệt khi họ đạt giải thưởng Nobel Văn học năm 1982 và 2010. Một mặt, tiểu thuyết của hai ông  
đã kế thừa những truyền thống của văn học Mỹ Latinh, mặt khác, chúng vượt ra khỏi những quan  
điểm chung về nền văn hóa châu lục. Chủ đề xuất hiện thường xuyên trong tác phẩm của Márquez  
và Llosa là “bản địa” - “ngoại lai”, và thông qua cặp vấn đề này, họ đã thể hiện những suy ngẫm  
độc đáo về căn tính văn hóa của châu lục.  
Từ khóa: “bản địa”, “ngoại lai”, căn tính văn hóa, văn học Mỹ Latinh…  
The themes of indigene and exoticism: thinking about cultural identity  
in novels of G. G. Márquez and M. V. Llosa  
Abstract  
Gabriel García Márquez and Mario Vargas Llosa were two famous writers and considered the  
most significant Spanish-language authors of the 20th century, especially won the Nobel Prizes in  
Literature in 1982 and in 2010. Many of their novels have inherited traditions of Latin American  
literature. On the other hand, they were somewhat rebellious from the general point of view of Latin  
America culture. The themes regularly appeared in Márquez and Llosa's novels as "indigene" and  
"exoticism", from which they showed unique reflections on the cultural identity of Latin America.  
Keywords: “indigene”, “exoticism”, cultural identity, Latin American literature…  
Nhắc đến giai đoạn thịnh vượng của tiểu  
thuyết mới Mỹ Latinh (được mệnh danh là Latin  
American Boom) nghĩa là nhắc đến hàng loạt  
tác giả nổi danh nhất. Trong đó hai tiểu thuyết  
gia tiêu biểu trong giai đoạn này là Gabriel  
García Márquez (Colombia) và Mario Vargas  
Llosa (Peru) được gọi là “hai con sư tử của thế  
hệ/ giai đoạn Bùng nổ” khi họ mang về cho châu  
lục hai giải Nobel văn học năm 1982 và năm  
2010. Đến từ hai quốc gia khác nhau, nhưng  
Márquez và Llosa có nhiều tiểu thuyết thành  
công cùng mang chủ đề và cấu trúc nghệ thuật  
vừa giống lại vừa khác nhau rõ nét. Họ xứng  
đáng trở thành một cặp nhà văn song hành độc  
đáo trong lịch sử văn học Mỹ Latinh.  
Tại Việt Nam, các tác phẩm của Márquez và  
Llosa đã được dịch từ sớm (thập niên 80 của thế  
kỷ trước), tuy nhiên Márquez được dịch liên tục  
và trở thành một trong số những nhà văn nước  
ngoài được dịch nhiều và nghiên cứu sâu rộng  
nhất ở Việt Nam. Cho đến nay, đã có nhiều công  
trình chuyên luận, nhiều bài báo, bài viết ngắn,  
và cả luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ nghiên cứu  
về tác phẩm Márquez, đặc biệt tập trung vào tiểu  
thuyết Trăm năm cô đơn của ông. Trong khi đó,  
trường hợp Llosa mới chỉ có những bài báo giới  
thiệu về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Peru  
này. Ở cấp độ quy mô thì chúng tôi tìm thấy luận  
văn thạc sĩ tập trung vào tiểu thuyết Trò chuyện  
trong quán La Catedral. Theo chúng tôi, nhiều  
33  
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE  
VOLUME 6 NUMBER 4  
tiểu thuyết của Márquez và Llosa vẫn còn bỏ  
ngỏ, gọi mời sự tiếp tục nghiên cứu. Hơn nữa,  
việc tìm hiểu mang tính chất so sánh cặp nhà văn  
y vẫn chưa được thực hiện công phu.  
Khu vc này trthành cuc hợp lưu của  
nhng chng tộc: người da đen châu Phi, người  
da vàng châu Á, và người lai gia các chng tc  
này. Không khó hiểu khi văn học nơi đây chứa  
đựng trí tưởng tượng sôi sc, tình yêu âm nhc,  
sự tín ngưỡng nguyên thy của người da đen,  
tính duy cm và nhng câu chuyn huyn bí  
phương Đông của ngưi da vàng, sthông minh  
và tư duy duy lý của người da trng. Tt chòa  
vào nhau khiến MLatinh trở thành nơi gặp gỡ  
vừa sôi động, vừa đau thương giữa nhng sc  
tộc, nơi hợp lưu nhng dòng văn hoá thế gii.  
Thế nhưng, trong khi đẩy lùi văn hóa bản địa,  
văn minh Âu châu tràn vào thống trị các nước Mỹ  
Latinh nhiu thế klin. Lch sbtrị đã khiến  
người bản địa luôn day dt chiêm quan vci  
ngun và bn sắc văn hóa của mình, từ đó hình  
thành nên mt tâm thế nước đôi ở h: va mang  
ơn mẫu quc Tây Ban Nha, va cgng trthành  
mt cái khác vi mu quc. Mt tâm thế có nhiu  
dn vặt, “vừa gn kết, vừa cách ly” không chỉ vi  
Tây Ban Nha mà còn cvi châu Âu trong ý  
nim MLatinh, sâu vào trong tim thc.  
Bước vào thế kXIX, nhiu quốc gia đã  
vùng lên thoát được ách thng trthc dân và  
tuyên bhình thành nhng quốc gia độc lp, thế  
nhưng truyền thng dân chnon yếu đã khiến  
hgp rt nhiều khó khăn. Những quc gia này  
vẫn chưa xóa được cm giác rng hchcó quá  
kh, mà không có mt lch shoàn chnh. Lch  
sca hchlà nhng mnh vn, là mt nhánh  
ghép vào lch scu mu quc Tây Ban Nha.  
Ngôn nghsdụng cũng không phải ngôn  
ngbản địa, mà là ngôn ngthc dân.  
Một vấn đề mà Márquez và Llosa thường  
xuyên đặt ra trong tác phẩm chính là việc thể  
hiện và suy ngẫm về căn tính văn hóa dân tộc.  
Thực chất đây cũng là câu hỏi của nền văn học  
Mỹ Latinh nói chung. Márquez thuộc nhóm nhà  
văn ủng hộ cho khuynh hướng viết về nền văn  
học Mỹ Latinh như nó vốn thế và ông đã thành  
công rực rỡ khi thể hiện được thực tại Mỹ  
Latinh, tìm kiếm, khám phá bản sắc vốn có của  
Mỹ Latinh. Trong khi đó Llosa đại diện cho  
khuynh hướng biểu hiện một thực tại Mỹ Latinh  
như nó cần thế, nên thế. Llosa ủng hộ xu hướng  
quốc tế hóa, hiện đại hóa. vượt ra khỏi tính bản  
sắc dân tộc, thể hiện những cách tân thi pháp  
tiểu thuyết. Cả Márquez và Llosa đều đã soi  
chiếu thực tại Mỹ Latinh dưới những góc độ  
nghệ thuật khác nhau. Trong bài viết này, chúng  
tôi chọn tập trung vào vấn đề được xem là đặc  
trưng nhất của văn học Mỹ Latinh: sự tìm kiếm  
và giải đáp cho câu hỏi về căn tính văn hóa của  
dân tộc/ châu lục, thông qua những vấn đề trở đi  
trở lại trong các sáng tác nơi đây, đặc biệt tiểu  
thuyết của Márquez và Llosa.  
1. Từ phức cảm lưu vong đến cuộc tìm kiếm  
căn tính văn hóa trong văn học Mỹ Latinh  
Trước khi thực dân châu Âu xâm lược (vào  
thế kXV), châu Mỹ Latinh đã là nơi cư ngụ  
của hàng trăm cộng đồng thtộc mà trong đó  
người da đỏ chiếm đa số. Nhng btc này vn  
xây dựng được nhng nền văn hoá riêng biệt,  
độc đáo như: Aztec, Inca và Maya có lịch slâu  
đời trên 2000 năm và gắn bó nhau sâu sc. Thế  
nhưng, khi người Tây Ban Nha mang theo bnh  
đậu mùa và cuc xâm ln, thdân không chng  
cni và sdân bản địa đã bị gim mnh. Theo  
gót chân chinh pht, nền văn hóa châu Âu bước  
vào vùng đất mi và dồn người da đỏ bản địa  
vào thế bi trn, khiến htrthành kẻ cư trú tạm  
btrên mảnh đất quê hương của mình. “Họ là  
kẻ cô đơn lang thang suốt ba trăm năm và đến  
ngày nay, hvẫn cô đơn trong xã hội hiện đại”  
(Paz, 1998: 111).  
Để xóa bstự ti, các nước MLatinh luôn  
tìm kiếm bn sắc để chng thực được shin tn  
của mình. Văn học trở thành nơi phản ánh kinh  
nghiệm, nơi tưởng tượng và sáng to nên mt  
châu lc mi. Trên thc tế, vi mc cm dân tc  
và thái độ dè dt với văn hóa ngoại lai, vic khng  
định bn sắc (đôi khi cực đoan) là một phn ng  
dhiu các khu vc cu thuộc địa. Thế nhưng,  
bn sc ca hlà gì? Là nền văn hóa bản địa tin  
thc dân hay nền văn minh thực dân? Bn sc là  
điều có tht hay chảo tưởng? MLatinh slà  
nền văn hc chy trn hay là mt nền văn hc tìm  
34  
TP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN  
TP 6 S4  
kiếm và trv(chca Octavio Paz)? Nhng câu  
hi gian nan khiến các nhà văn Mỹ Latinh đôi khi  
đứng gia nhng la chn trong cuộc đời và  
trong sáng tác văn chương.  
hóa”, phủ bnhững định kiến cũ kỹ về các nước  
thuc thế gii thứ ba. Đôi lúc, những sáng tác  
ca MLatinh vn n cha mt tâm thế nước  
đôi: họ vừa ngưỡng vng quá khứ, đồng thi,  
va hiu rõ trong quá khứ ấy có nhng hn chế  
cần đưc khc phc, mt mt hkththc dân,  
nhưng mặt khác, hbhp dn bi phm cht  
hiện đại và nền văn minh ánh sáng ấy. Điều đấy  
dẫn đến tâm lý lưỡng tính: va yêu thích va tự  
kháng c, vừa ra đi lại va trv. Tâm lý này rõ  
ràng đã chi phối quan điểm chính trln quan  
điểm văn chương.  
Các tác phm của nhà văn Mỹ Latinh thường  
thhin tính chất “nhân dạng kép/ nhân dng  
song song” (double identity) ở người viết, biu  
hin ở hình tượng nhân vt mang ngun gc lai,  
spha trộn văn hóa trong bối cnh xã hi, biu  
hin nghthut tscủa nhà văn, một cách ý  
thc hoc vô thc. Chng như, tác phẩm ca  
Cortázar (tiu thuyết Trò chơi ô lò cò) được dt  
nên tschuyển động, sxuyên sut, xê dch  
giữa các không gian văn hóa khác nhau. Trong  
đó, ta thoáng thấy một người đàn ông luôn ở  
gia hai khong không gian, hai lục địa, không  
thnào phân định được nơi chốn. Đặc tính  
“nhân dạng kép/ nhân dạng song song” này biểu  
hin nhiu sáng tác của văn học khu vc châu  
Phi, châu Á tng bị đô hộ, nhưng theo chúng tôi,  
có lkhu vc Mỹ Latinh là đậm đặc nht.  
Dường như việc tìm kiếm đâu là căn tính văn  
hóa ca MLatinh là câu hi trng tâm nht,  
cũng là một định mnh ám ảnh các nhà văn nơi  
đây. Trong cuốn Gabriel García Márquez the  
early years, Stavans (2010) dn li li ca  
Rodriguez Monegal rằng: “Các nhà văn Mỹ  
Latinh sphi chng minh họ là người Mỹ  
Latinh đích thực, trước khi minh chng hlà  
một nhà văn. Chẳng ai li than phin xem Pound  
li có nhiu cht Bc Mỹ hơn mà ít chất  
Provencal? Chng ai li phàn nàn rng Nabokov  
đã bỏ quên scâm lng ca nhng tho nguyên  
rng ln của nước Nga trong tiu thuyết ca ông?  
Ti sao không có bt cai công kích Lawrence  
khi dám viết cun tiu thuyết có tên là Kangaroo?  
Nhưng với các nhà văn Mỹ Latinh, hbbuc  
phi chng minh ngun gốc, trước khi thhin  
Trên thc tế, nhiều nhà văn đã quay vtìm  
kiếm bn sc châu lc thông qua vic tìm kiếm  
cht huyn o, tâm linh và thế gii diu kca  
người da đỏ bản địa, chng hn Asturias,  
Carpentier, Márquez… Bi ttrong sâu xa ca  
cuc sinh tn, htin rng càng bhudit, nn  
văn hoá bản địa càng tn ti dai dẳng hơn và trở  
thành nn tng của đời sống tâm linh con người.  
Trong khi đó, một số nhà văn khác thể hin  
khuynh hướng “hướng ngoại”, tính đa văn hóa,  
hiện đại hóa, quc tế hóa trong sáng tác ca  
mình, chng hn Borges, Fuentes, Llosa… Sự  
hp dn ca khoa hc kthut, stdo dân ch,  
tư tưởng cá nhân và sphát triển văn học mnh  
mtcác quc gia hùng mạnh Tây Âu đã mra  
chân tri mới đối với các nhà văn Mỹ Latinh,  
đặc biệt đối với các nhà văn từng sinh sng lâu  
dài ti các trung tâm châu Âu, hcàng dmang  
khuynh hướng quc tế hóa hơn nữa.  
Trong bi cảnh đa văn hóa, đa chủng tc và  
sc tộc như khu vực MLatinh, hành trình tìm  
kiếm bn sc qutht không hề là điều ddàng,  
bi nó chạm đến tâm thức xa xưa của dân tc và  
cả đường hướng phát trin của tương lai. Tìm về  
vi nền văn minh tiền thc dân liu có làm trì  
trmt châu lc vốn đã nghèo khó và lạc hu?  
Tìm đến văn minh phương Tây, liệu có dẫn đến  
tình trng mt gc và thậm chí đánh mất quê  
hương? Ngay trong từng nhà văn, đôi khi sáng  
to tiu thuyết là mt cách thc hòa gii hai tâm  
y, mt mặt nhà văn cách tân thi pháp bằng  
li viết mi mnhằm đuổi kp tiến trình văn học  
thế gii, mt khác hli quay vbản địa để tìm  
kiếm nhng chủ đề truyn thng và riêng bit  
ca châu lc.  
Đứng trước bng giá trtừ lâu đã tồn ti các  
nước cu mu quc lẫn các nước cu thuộc địa  
(nếu thực dân đại din cho strt tự, văn minh,  
duy lý, hùng mạnh, đẹp đẽ và tt lành thì thuc  
địa li là hn lon, mông mui, cm tính, bn  
năng, yếu ớt, “nhược tiểu”…) văn học Mỹ  
Latinh thế kỷ XX đã cố gắng để “giải thc dân  
35  
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE  
VOLUME 6 NUMBER 4  
kỹ năng. Trong việc nhận xét các nhà văn Mỹ  
Latinh, nhng nhà phê bình có vbn tâm nhiu  
hơn đến vấn đề địa lý và lch sử hơn các vấn đề  
văn học” (Stavans, 2010: 105).  
Macondo thực chất là sự suy tàn của nhánh  
Aureliano - dòng máu Buendía bản địa thuần  
huyết. Hai Aureliano cuối cùng của dòng họ này  
là Aureliano Babilonia và Aureliano có cái đuôi  
lợn - những người không còn mang họ  
Aureliano mà là họ Babilonia. Họ là hậu duệ của  
Meme Buendía với Mauricio Babilonia - một  
anh chàng thợ máy làm công cho Công ty Liên  
hiệp hoa quả Mỹ. Mauricio Babilonia là đại diện  
cho tư bản Mỹ, là yếu tố ngoại lai khiến sự thuần  
chủng của người bản địa bị đánh mất.  
Không chỉ các nhà phê bình và độc gi, mà  
ngay các nhà văn Mỹ Latinh cũng luôn băn  
khoăn về vấn đề về căn tính của châu lc mình  
khi bước ra tmt khu vực “ngoại vi” thế gii.  
Sau độc lp, bên cnh vic tìm kiếm con đường  
chính trhợp lý để phát trin, thì tìm kiếm văn  
hóa để định nghĩa châu lục họ là ai cũng là một  
bài toán trở đi trở lại. Đâu là diện mo bn sc  
văn hóa của h? Câu hỏi này làm trăn trở tt cả  
nhà văn lớn ca Mỹ Latinh, dù con đường tìm  
kiếm và lời đáp của hcó skhác bit.  
Bên cạnh ngôi làng Macondo (là biểu tượng  
thu nhỏ của xứ sở Mỹ Latinh huyền thoại mà  
nhiều công trình nghiên cứu đã phân tích),  
chúng tôi chú ý đến hình tượng Công ty Liên  
hiệp hoa quả Hoa Kỳ xuất hiện nhiều lần trong  
văn chương của Asturias và Márquez. Ở  
Asturias, hình tượng này rõ nét trong tiểu thuyết  
Ngài tổng thống, ở Márquez là trong tiểu thuyết  
Trăm năm cô đơn Sống để kể lại. Trong hồi  
Sống để kể lại, Márquez nhắc lại chuyến trở  
về quê cùng với mẹ để bán căn nhà cũ. Môi  
trường bao quanh thời thơ ấu của ông xuất hiện  
như một thế giới biệt lập với đầy rẫy những nỗi  
sợ hãi vô hình, với thế giới người chết cũng  
nhiều như thế giới người sống. Aracataca với thị  
trấn bé nhỏ nằm bên dòng nước trong leo lẻo  
chảy qua các ghềnh đá trắng, cái nóng hầm hập  
vào buổi trưa, bầu trời quang quẽ vào buổi chiều  
sau cơn mưa rào. Đó là một nơi tốt lành để sống.  
Tuy nhiên, với Márquez, dường như thị trấn  
này “được xây dựng theo cảm hứng tối cao của  
Công ty Liên hiệp hoa quả Hoa Kỳ”: từ những khu  
nhà thờ ở quãng trường trung tâm, dãy lều trại của  
công nhân, đến những khu phố dành riêng cho  
người Mỹ ở Aracataca và Sevilla… Công ty này  
đã tạo ra những thứ rất riêng cho thị trấn nhỏ bé  
này: sự trù phú, làn gió se lạnh trong tiết tháng  
Chạp hàng năm, tiếng sấm đì đoành giữa ba giờ  
chiều, hương phảng phất của hoa nhài… Khi công  
ty này không còn đóng đô ở Aracataca, người Mỹ  
sẽ không quay lại nữa nhưng đồng thời, thị trấn từ  
đấy cũng trở nên trơ trọi.  
2. Chủ đề “bản địa” và “ngoại lai” trong  
tiểu thuyết của Márquez và Llosa  
Theo chúng tôi, một đặc điểm nổi bật ở tiểu  
thuyết Mỹ Latinh là thường xuyên xuất hiện cặp  
hình tượng/ cặp chủ đề đối lập mang ý nghĩa và  
bề sâu văn hóa, những cấu trúc tư tưởng mang  
hệ hình đối lập về văn hóa mà Márquez và Llosa  
đã thể hiện.  
Ở Márquez, các tiểu thuyết Giờ xấu, Trăm  
năm cô đơn, Tướng quân giữa mê hồn trận, Ký  
sự về một cái chết được báo trước, Tin tức về  
một vụ bắt cóc (đã xuất bản tại Việt Nam) đều  
là những tiểu thuyết trở đi trở lại với đề tài lịch  
sử và văn hóa, quá khứ và hiện tại, kẻ thống trị  
và bị trị, bản địa và ngoại lai… Độc giả có thể  
đọc tác phẩm với góc nhìn về số phận và tâm  
trạng của cá nhân con người, hoặc có thể đọc  
dưới góc nhìn rộng hơn bằng văn hóa học, dân  
tộc học. Ngay như tác phẩm có chủ đề về tình  
yêu (như Tình yêu thời thổ tả) hay các tác phẩm  
có yếu tố tự thuật, hồi ký (Hồi ức về những cô  
gái điếm buồn của tôi, Sống để kể lại) Márquez  
cũng luôn mở rộng các vấn đề lớn lao của văn  
hóa, xã hội - vốn thuộc về nỗi bận tâm khó dứt  
bỏ của ông.  
Trong tác phẩm của Márquez, ta thường thấy  
có sự hiện diện của cặp mã ngôi làng – đại diện  
cho những yếu tố bản địa, nội sinh và hình ảnh  
ngôi làng bị đô thị hóa, bị xâm lăng bởi những  
yếu tố ngoại lai khác. Trong Trăm năm cô đơn,  
sự suy vong của dòng họ Buendía và ngôi làng  
Có thể xem Công ty Liên hiệp hoa quả Hoa  
Kỳ là sự hiện diện của tư bản Bắc Mỹ lại  
Colombia. Nó mang đến sự giàu có, phồn thịnh  
36  
TP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN  
TP 6 S4  
với những đồn điền, đường sắt, trạm điện tín,  
cảng, bệnh viện, và các đội tàu, đôi khi nó mang  
đến cả những quang cảnh “tai ương trời giáng”  
của chủ nghĩa đế quốc Bắc Mỹ (Yankee). Những  
công ty liên hiệp Bắc Mỹ có một “sức mạnh lịch  
sử” quyết định, một “cảm hứng cứu thế” mang  
đến công việc và niềm hy vọng cho hàng ngàn  
người (trong số đó có ông bà ngoại của  
Márquez), đồng thời, nó đã làm nhơ bẩn sông  
biển của thiên đường độc đáo này, quấy rối nếp  
sống thanh bình, bóc lột tàn tệ nhân dân lao động.  
Tuy nhiên, cơn đại dịch thảm khốc nhất  
chính là dịch người. Sự phát triển điên rồ của  
Công ty Liên hiệp hoa quả đã gây nên nạn bùng  
nổ dân số và cảnh hỗn loạn xã hội không có cách  
nào kìm hãm được nữa. Những người lạ mặt  
xuất hiện tràn ngập các nơi công cộng khiến  
người dân sống phấp phỏng. Márquez viết:  
“Chúng tôi bỗng nhiên trở thành những người  
nước ngoài, những người hoàn toàn xa lạ…”  
(Márquez, 2002: 64). Họ trở nên xa lạ ngay trên  
quê hương của mình.  
Những cuộc mâu thuẫn giữa người bản địa  
và ngoại lai bộc lộ qua những cuộc bắn giết nhau  
vì cãi cọ, xô xát, những cuộc thách đấu đẫm  
máu… “Bất cứ chiều nào, khi nghe tiếng hò hét  
ngoài đường thì chúng tôi cũng nhìn thấy một  
người không đầu cưỡi lừa đi ngang qua. Chắn  
chắn đó là người bị chặt đầu trong các cuộc  
thanh toán đẫm máu vì tranh chấp chuối…”  
(Márquez, 2002: 64). Mâu thuẫn đáng sợ đó còn  
thể hiện rõ rệt qua câu chuyện trong Sống để kể  
lại: người nước ngoài đã dùng súng bắn chết đứa  
trẻ con trai người thổ dân hiền lành khi hai cha  
con đến xin cốc nước lã. Câu chuyện này đã trở  
thành nỗi sợ hãi của tất cả người dân, và cũng là  
một bóng ma ám ảnh tuổi thơ Márquez.  
chết hàng trăm người vô tội. Suốt nhiều tháng  
sau đó, hàng loạt người âm thầm bị thủ tiêu” (Lê  
Huy Bắc, 2009: 101). Tất cả những sự kiện này  
không được đưa vào sử sách, nhưng gắn với trí  
nhớ của cư dân bản địa, trở thành nỗi u buồn  
không bao giờ phai.  
Như vậy, cặp hình tượng song hành xuyên  
suốt tác phẩm của Márquez là ngôi làng  
Macondo huyền hoặc đầy tính bản địa và hình  
tượng công ty Liên hiệp hoa quả Bắc Mỹ như là  
biểu hiện của sự ngoại lai. Những mâu thuẫn,  
xung đột mang tính dân tộc từ đây nảy sinh  
không ngừng, biểu hiện qua những cuộc biểu  
tình, những cuộc đình công, nổi loạn, thậm chí  
biểu hiện ngấm ngầm trong từng mạch sống của  
nhân vật trong tiểu thuyết. Trên thực tế nền quân  
phiệt thân Hoa kỳ không chỉ diễn ra ở Colombia,  
mà các quốc gia khác của Mỹ Latinh, suốt thế  
kỷ XX, cho dù sự thân thiện này biểu hiện rõ  
một cách thô thiển hay che giấu tinh tường.  
Mối bận tâm của Márquez liên quan đến  
những vấn đề cốt lõi của chủ nghĩa dân tộc  
(nationalisme): đâu là con đường đi, là sức  
mạnh mang tính nền tảng của dân tộc ông, cái gì  
làm nên bản sắc dân tộc, dân tộc tính, cấu trúc  
tư tưởng của dân tộc ông? Và Colombia hay Mỹ  
Latinh sẽ như thế nào trước những đối đầu với  
ngoại lai và những xung đột mang tính nội tại?  
Theo chúng tôi, đây chính “trục chính” về mặt  
tư tưởng của tiểu thuyết Márquez.  
Tâm lý của Márquez đối với Công ty Liên  
hiệp hoa quả là một cảm xúc vừa yêu vừa ghét,  
điển hình cho thái độ vùng Caribbean đối với  
người Mỹ. Công ty này giải quyết nguồn lao  
động Colombia, đem đến sự giàu sang từ nguồn  
xuất khẩu hoa quả, nhưng đồng thời bỏ rơi nhân  
dân thành phố, đối xử bất công đối với người lao  
động. Thích và ghét các nước thực dân, đế quốc,  
đó là nỗi niềm có tính nước đôi hiện diện trên  
nhiều tiểu thuyết Márquez. Ngược lại, đối với  
vùng đất đậm chất tâm linh, Márquez đã không  
ít lần bị dày vò bởi cảm giác vừa luyến lưu, vừa  
muốn rời bỏ.  
Thực tế ở Colombia, sự xuất khẩu cà phê và  
chuối phụ thuộc vào công ty Liên hiệp hoa quả  
do Bắc Mỹ nắm độc quyền về kinh doanh. Công  
ty này có một quyền lực kinh tế không giới hạn  
và sự ảnh hưởng chính trị vô cùng lớn đối với  
người dân Colombia. Khi những cuộc biểu tình  
diễn ra, những ông chủ Hoa kỳ phớt lờ những  
yêu cầu của họ. Thậm chí “chính phủ Đảng Bảo  
thủ đã đưa lính tới xả súng vào đám đông, làm  
Một biểu hiện rõ là Márquez viết rất hay và  
đầy cảm xúc về những con người thổ dân bản  
địa, những tập quán, những huyền thoại, và cả  
37  
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE  
VOLUME 6 NUMBER 4  
tính dục nội hôn trong truyền thống xa xưa. Tập  
quán nội hôn này có nguồn gốc sâu xa từ tất cả  
những bộ lạc nguyên thủy, đồng thời là một tấm  
gương phản ánh đặc điểm tính dục nam: những  
con người yếu đuối luôn tìm một “anima” mạnh  
mẽ (kinh nghiệm) cho mình. Họ tìm kiếm chính  
mình qua người mẹ, người chị, người cháu,  
người em của mình - những người gần gũi nhất  
và an toàn nhất đối với họ. Điều này cho thấy  
nỗi cô đơn và sự mong muốn “đóng kín” trong  
chính mình, bộ tộc của mình. Cảm giác “nhớ  
quê nhà” và quan hệ tính dục cùng dòng họ luôn  
đi cùng với cảm giác cô đơn hoài cổ. Chúng luôn  
lẩn quẩn trên nhiều tiểu thuyết của Márquez với  
vẻ đẹp đậm chất thơ mộng, ít nhiều cho thấy  
Márquez thỉnh thoảng đã bị kẹt lại trong niềm  
nhớ nhung quá khứ. Quá khứ đối với ông là  
những vàng son đẹp đẽ, nó kiến tạo lịch sử Mỹ  
Latinh và lịch sử của số phận ông. Márquez yêu  
thích những gì hiện đại, nhưng cũng sợ rằng  
hiện đại hay văn minh sẽ làm phai nhạt những  
giá trị riêng thuộc về châu Mỹ Latinh. Đặc trưng  
tư tưởng này đã làm nên dấu ấn của Márquez,  
chi phối toàn bộ cấu trúc các tác phẩm như Bão  
lá, Trăm năm cô đơn, cả những truyện ngắn như  
Người chết trôi đẹp nhất trần gian, Biển của thời  
đã mất và khiến ông mang dáng vẻ “bản địa”  
hơn hết thảy những nhà văn Mỹ Latinh khác.  
Đi từ tâm lý này, hầu hết các tiểu thuyết  
mang phong cách hiện thực huyền ảo của  
Márquez đều thể hiện đẹp đẽ không khí lãng  
mạn ảo diệu của nền văn hóa dân gian vẫn hiện  
tồn trong tập quán và tâm linh vùng ven biển  
Caribbean. Cách kể của Márquez có nhiều điểm  
tương đồng với cách kể những câu chuyện thần  
thoại và cổ tích. Người kể mặc nhiên thừa nhận  
các yếu tố hoang đường mà không giải thích,  
phân tích hay hoài nghi.  
quan tâm văn hóa từ cổ chí kim, từ phương Tây  
sang phương Đông, ủng hộ phương hướng hiện  
đại hóa, quốc tế hóa. Trong khi đó, Márquez và  
Llosa sở trường với việc tái hiện nền văn hóa  
của người da trắng và người lai, thỉnh thoảng  
bộc lộ tình thế lưỡng lự/ lưỡng phân, trạng thái  
nước đôi khi đứng giữa tính chất hiện đại của  
văn minh phương Tây và sự lung linh huyễn  
hoặc của văn hóa bản địa.  
Thế nhưng, tư tưởng của Márquez và Llosa  
vẫn có nhiều sự khác biệt. Márquez có một tuổi  
thơ gắn bó chặt với vùng ven biển Caribbean, khu  
làng huyền bí với những người phụ nữ nhạy cảm  
và phong phú đời sống tâm linh. Trong ông đã dần  
hình thành nên nguyên tắc sống cũng như nguyên  
tắc sáng tác: Tin vào những gì mình tin là thực.  
Điều đó khiến tác phẩm của Márquez luôn có  
khuynh hướng sáng tạo nên cặp hình ảnh mang  
tính biểu tượng giữa cái nội sinh và ngoại sinh, đặc  
biệt là cặp mã “làng Macondo” và “Công ty Liên  
hiệp hoa quả”. Nỗi u hoài và sự giễu nhại trên các  
tác phẩm của Márquez gắn với sự tàn phai của nền  
văn hóa bản địa, sự xâm lấn dữ dội của văn hóa  
phương Tây trên quê hương ông.  
Cùng giai đoạn văn chương với Márquez,  
Llosa là một trường hợp có phần khác biệt. Llosa  
yêu thích nền văn hóa đậm màu sắc địa phương  
như ông từng viết: “Trong thế kỷ này, cái thế giới  
chúng ta sống sẽ kém sinh động và không có  
nhiều màu sắc như là cái thế giới mà chúng ta đã  
bỏ lại phía sau. Những buổi lệ hội, đồ trang sức,  
phong tục, nghi lễ, nghi thức và tín ngưỡng, tức  
là những thứ đã tạo cho nhân lọai sự khác biệt  
mang màu sắc dân tộc và văn hóa dân gian, đang  
dần dần biến mất hoặc sẽ thu mình vào trong  
những nhóm thiểu số” (Llosa, 2009). Nhưng với  
Llosa, hiện đại hóa là quá trình tất yếu không thể  
tránh được, từ các quốc gia tân tiến cho đến các  
quốc gia đang phát triển. Hoàn toàn bản sắc chỉ  
là trường hợp một đất nước sống trong tình trạng  
cô lập hoàn toàn, chấm dứt mọi trao đổi với các  
dân tộc khác và thực hiện một nền kinh tế tự cấp  
tự túc – giống như một vài bộ lạc ở châu Phi hay  
những bộ lạc sống trong rừng già Amazon. Với  
Llosa, “bản sắc văn hóa dưới hình thức như thế  
sẽ đưa xã hội trở lại với cách sống của thời tiền  
Mỹ Latinh là vùng đất của nền văn hóa lai,  
vì thế mối quan tâm và quan niệm của các nhà  
văn về bản sắc văn hóa cũng có phần khác biệt.  
Asturias thường xuyên thể hiện hình ảnh nền  
văn hóa của người da đỏ và nỗi niềm hoài cổ.  
Amado lại có mối quan tâm sâu sắc đến văn hóa  
người da đen và vấn đề phân biệt chủng tộc.  
Borges và Paz thể hiện tầm cỡ của sự uyên bác,  
38  
TP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN  
TP 6 S4  
sử” (Llosa, 2009).  
minh hay man rợ.  
Chết trong dãy Andes là một minh chứng cho  
tư tưởng của ông. Ai là kẻ gây ra tội ác? Đáp án  
đã sáng tỏ: nghi phạm giết người hóa ra là du  
kích Con Đường Sáng và một cặp nọ vốn là  
người bán quán trong vùng kiêm biểu diễn  
những màn lạ lùng gợi nhớ tập tục của người  
Inca. Những vụ giết người tàn bạo mang tính  
chất chính trị ở địa phương luôn gắn với các  
nghi lễ hy sinh của người Inca cổ. Cảnh quan  
hoang dã của dãy Andes cũng chính là sự hoang  
dã của những tập tục nguyên thủy. Cuốn sách  
tràn ngập những huyền thoại nguyên thủy với  
hình tượng cổ thần, sơn tinh, ma quỷ và phù  
thủy. Chết trong dãy Andes là một trong những  
tác phẩm nói lên rằng Llosa ngưỡng mộ nền văn  
hóa bản địa - bất cứ ở một khu vực nào, nhưng  
ông cũng nghi ngờ sự tồn tại tích cực của nó  
giữa thời hiện đại. Trong bài viết: “Mario  
Vargas Llosa versus barbarism” (tạm dịch:  
Mario Vargas Llosa chống lại sự man rợ), De  
Castro phân tích: Llosa luôn ở vị trí đứng giữa:  
sự văn minh khai hóa và sự hoang dã, cổ sơ và  
tầm nhìn thế giới đặt ở dưới nó. Nhưng sự thực  
là những gì ông thể hiện về tính lưỡng phân  
không giống về căn bản với bản dịch thế kỷ XIX  
trong ô giá trị chính của thực dân (De Castro,  
2010: 5-21). Tính lưỡng phân (dichotomy  
between civilization and barbarism) đối với  
Vargas Llosa là sự mâu thuẫn giữa chủ nghĩa  
văn minh và chủ nghĩa bản địa không chỉ liên  
quan đến Argentina, Peru, rộng hơn là Mỹ  
Latinh mà thậm chí là các khu vực khác trên thế  
giới như châu Phi, châu Á. Khác với quan điểm  
của “các ô giá trị của thực dân”, Llosa không có  
cái nhìn chia rẽ và phân biệt xấu - tốt, cao quý -  
thấp hèn… Ông luôn có niềm tin về mối quan  
hệ giữa giá trị tự do và văn minh, một văn hóa  
dân chủ, khoan dung, đa nguyên, nhân quyền  
mới là điều con người cần thiết. Con người cá  
nhân cần nhất là sự tự do rời bỏ những tôn ti trật  
tự, những tập quán đã đặt lên họ những thiết chế  
vô hình và khủng khiếp. Không có gì ngạc nhiên  
nếu Llosa đưa ra những tuyên bố đặt trên sự  
nhận diện con người cá nhân, nhóm, những trào  
lưu chính trị, vượt lên cả những chủ nghĩa văn  
Vì vậy, chúng tôi cho rằng trên tác phẩm của  
Llosa, hiếm có cặp mã mang tính đối lập về mặt  
văn hóa như trường hợp Márquez. Tác phẩm của  
Llosa thường hòa lẫn, đan xen nhiều biểu tượng,  
nhưng tựu trung vẫn là hình ảnh của một Peru  
chuyển mình trong nền đô thị hóa, tư bản hóa.  
Ở giai đoạn thịnh vượng của tiểu thuyết, với sự  
nhiệt thành của tuổi trẻ, Llosa phê phán mạnh  
mẽ nạn phân biệt chủng tộc, nạn tôn sùng quyền  
lực, tôn sùng những vị trưởng lão nhiều tuổi  
nhiều quyền thế… Thành phố và lũ chó là một  
xã hội Peru hậu thực dân thu nhỏ, ở đó người ta  
thấy một nền giáo dục quân phiệt, một cách ứng  
xử theo lối quyền lực và phân biệt chủng tộc,  
phân biệt giai cấp xã hội. Tác phẩm cho thấy con  
người đã tiếp tục “di sản” lạc hậu đáng thương:  
triết lý quyền lực chi phối mọi ngóc ngách.  
Trong tác phẩm Thành phố và lũ chó, ta cũng  
bắt gặp rất nhiều nhân vật da màu bị mọi người  
khinh rẻ gọi bằng “thằng da đen”, “gã da đen”,  
“tên da đen” hoặc “đồ dân rừng rú”, “quân rừng  
rú hèn nhát”, “thằng miền thượng”. Tính cách  
của họ cũng được mặc định bởi những tính từ  
như: “mông muội”, “xấu xa”, “dơ bẩn”, “phản  
trắc và hèn nhát”, “vẹo vọ ngay đến cả linh  
hồn…”. Peru của nửa sau thế kỷ XX vẫn là xã  
hội của nạn phân biệt chủng tộc, phân biệt đẳng  
cấp xã hội hết sức sâu sắc.  
Tác phẩm là thế giới của những cô gái da màu  
làm điếm. Họ là công cụ làm thỏa mãn bản năng  
tính dục của đàn ông, mỗi ngày “tiếp” hàng chục  
những học viên trốn ra từ trường quân sự. Giống  
với Márquez trong Sống để kể lại, Hồi ức về  
những cô gái điếm buồn của tôi hay Tình yêu thời  
thổ tả…, Llosa cho thấy nỗi cay đắng của những  
cô gái điếm - luôn luôn là những cô gái lai da màu  
- tầng lớp bị xếp vào loại hạ đẳng và làm những  
nghề thấp kém nhất xã hội. Cũng giống với  
Márquez, Llosa nghiêng về việc mô tả người da  
trắng trong xã hội, nhưng đồng thời tiểu thuyết  
của ông vẫn luôn cho thấy nạn phân biệt chủng  
tộc còn tồn tại trong văn hóa Mỹ Latinh.  
Ta đọc thấy những đối thoại giữa các thế hệ  
lịch sử, giữa các nền văn hóa, các chủng tộc  
khác nhau. Ta thấy những y phục rực rỡ của thổ  
39  
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE  
VOLUME 6 NUMBER 4  
dân da đỏ miền núi, những vẻ nhếch nhác của  
người da đen trong khu ổ chuột, và cả vẻ kiêu  
kỳ của người da trắng giữa những tòa cao ốc đồ  
sộ. Toàn bộ tác phẩm là một xã hội bị phân rã  
sâu sắc giữa giàu - nghèo, đẹp đẽ - xấu xí, văn  
minh - lạc hậu… Đi từ cảm quan này, Llosa đã  
sử dụng bút pháp tự sự tương ứng: phân mảnh  
cốt truyện, sự kiện, nhân vật, điểm nhìn… để  
làm rã hết mọi ranh giới, tiêu chí phân biệt của  
hậu thực dân.  
Trong cuộc sống và hành trình viết, Llosa  
tìm cách thoát khỏi tình trạng mắc kẹt vào bản  
sắc của ngôn ngữ, chính quyền, phong tục, nhà  
thờ, thói quen nơi ông sinh ra. Ông muốn kiến  
tạo cái bản sắc của cá nhân, không phải là bản  
sắc chung của cộng đồng. Đứng trước câu hỏi  
về bản sắc châu Mỹ Latinh, Llosa cho rằng  
“phong cách Tây Ban Nha” hay “phong cách da  
đỏ” đều là những câu trả lời đậm màu sắc phân  
biệt chủng tộc. Châu Mỹ Latinh không có một  
mà có nhiều bản sắc văn hóa, không có bản sắc  
nào có thể tuyên bố là hợp pháp hơn hay trong  
sạch hơn những bản sắc khác.  
Trong tác phẩm của mình, Llosa phản ánh xã  
hội hiện đại còn nhiều di chứng “man rợ”  
(barbarism). Sự man rợ không phải ở những  
nghi lễ cổ xưa, bí hiểm mà là ở man rợ trong  
cách đối xử giữa con người khác tầng lớp, sự  
man rợ ở thiết chế văn hóa, chế độ chính trị ở  
thời hiện đại. Trên một diện rộng, một hệ thống  
nhân vật của Llosa được thể hiện phong phú  
bằng một giọng văn u buồn nhưng quyết liệt.  
Nhiều thiên tiểu thuyết của ông đều là những  
bản cáo trạng hết sức đanh thép.  
nghĩa toàn cầu là mt cách mrộng đáng kể chân  
tri cho tdo cá nhân. ng hộ cho khuynh hưng  
liên văn hóa này, Llosa được/bị xem là nhà văn ít  
tính MLatinh nhất, ngược với người cùng thi  
ca ông là Márquez.  
Kết luận  
Có thể nói thông qua việc thể hiện chủ đề về  
căn tính văn hóa và cặp hình tượng “bản địa” -  
“ngoại lai”, Márquez và Llosa đã đề xuất những  
tư tưởng, quan điểm khác nhau về việc xây dựng  
và phát triển đời sống văn hóa của châu lục  
mình. Tuy nhiên, cho dẫu những quan niệm và  
phong cách viết của hai nhà văn này có sự khác  
biệt hay đối nghịch thì những đóng góp của họ  
đối với phương diện tư tưởng, văn hóa, và văn  
học đều lớn lao. Họ xứng đáng là những nhà văn  
dấn thân đối với sứ mệnh của chính mình, của  
châu lục. Theo chúng tôi, sự đóng góp lớn của  
các nhà văn Mỹ Latinh còn nằm ở chỗ họ đã nối  
kết được tính truyền thống và hiện đại, tính bản  
địa và quốc tế. Nói cách khác, họ đã viết bằng  
tiếng nói của địa phương để lan tỏa vào khung  
cảnh văn chương thế giới, họ đi đến cái chung  
mà không mất đi những chủ đề riêng, những  
quan niệm cá nhân của chính mình.  
Tài liệu tham khảo  
Lê Huy Bắc (2009). Chủ nghĩa Hiện thực huyền ảo  
và Gabriel García Márquez. Hà Nội, Nxb  
Giáo dục Việt Nam.  
De Castro J. E. (2010). Mario Vargas Llosa versus  
barbarism. Latin American Research Review,  
45 (2), pp. 5-26. doi: 10.2307/27919193.  
Llosa, M. V. (2009). The culture of liberty, Foreign  
Policy, November 20. Phạm Nguyên Trường  
(dịch) (2012), Nền văn hóa của tự do.  
Có thể nói, hệ quả của cuộc giao lưu chính trị  
- văn hóa ở đất nước này vẫn để lại những hệ lụy  
sâu sắc. Llosa từng băn khoăn đứng giữa những  
lựa chọn: chủ nghĩa quốc tế hay chủ nghĩa dân  
tộc, chủ nghĩa hiện đại hay chủ nghĩa bản địa?  
Tiểu thuyết của ông nói lên nỗi băn khoăn đó, và  
nó cũng gợi ý câu trả lời: bất cứ sự lựa chọn nào  
cũng cần đặt trên chủ nghĩa tự do cho con người,  
đó mới là quan trọng nhất. Llosa cùng quan điểm  
với nhà văn giai đoạn Tin phong - Jorge Luis  
Borges khi cho rng: Chủ nghĩa hiện đại, chủ  
Márquez, G. G. (2002). Vivir para contaria. Edith  
Grossman's English translation 2003, Living  
to Tell the Tale. Lê Xuân Quỳnh (dịch)  
(2007). Sống để kể lại. Tp. Hồ Chí Minh, Nxb  
Tổng hợp.  
Paz, O. (-). Thơ văn và tiểu luận. Nguyễn Trung Đức  
(chọn và dịch) (1998). Đà Nng, Nxb Đà Nẵng.  
Stavans, I. (2010). Gabriel García Márquez: The  
early years, 1st ed. St. Martin's Press; 237 pp.  
40  
pdf 8 trang baolam 13/05/2022 2040
Bạn đang xem tài liệu "Chủ đề “bản địa” - “ngoại lai” và sự suy ngẫm về căn tính văn hóa trong tiểu thuyết G. G. Márquez và M. V. Llosa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfchu_de_ban_dia_ngoai_lai_va_su_suy_ngam_ve_can_tinh_van_hoa.pdf