Giáo trình Sử dụng thức ăn trong nuôi trồng thủy sản - Nghề: Nuôi trồng thủy sản nước ngọt

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN  
TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ, KỸ THUẬT VÀ THỦY SẢN  
GIÁO TRÌNH  
MÔ ĐUN: SỬ DỤNG THỨC ĂN TRONG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN  
NGHỀ: NUÔI TRỒNG THỦY SẢN NƯỚC NGỌT  
TRÌNH ĐỘ: CAO ĐẲNG  
(Ban hành theo Quyết định số:  
/QĐ-CĐKTKTTS ngày tháng năm 2020  
của Hiệu trưởng trường Cao đẳng Kinh tế, Kỹ thuật và Thủy sản)  
Bắc Ninh, tháng 9 năm 2020  
1
MỤC LỤC  
TRANG  
6
Bài 1. Gây nuôi thức ăn tự nhiên trong ao đầm nuôi thủy sản  
1 Những hiểu biết cơ bản về thức ăn tự nhiên  
2. Gây nuôi thức ăn tự nhiên trong ao, đầm  
Bài 2. Sản xuất thức ăn nhân tạo  
1. Khái niệm về thức ăn nhân  
6
13  
33  
33  
42  
48  
56  
58  
63  
64  
67  
67  
67  
71  
2. Nguyên tắc lựa chọn nguyên liệu sản xuất thức ăn  
3. Phương pháp lập công thức thức ăn  
4. Xử lý và chuẩn bị nguyên liệu  
5. Công nghệ sản xuất thức ăn  
6. Kiểm tra chất lượng thức ăn  
7. Bảo quản thức ăn  
Bài 3. Quản lý chế độ cho ăn  
1. Chuẩn bị dụng cụ  
2. Tính khẩu phần thức ăn  
3. Cho động vật thủy sản ăn  
3
GIÁO TRÌNH MÔ ĐUN  
Tên mô đun: Sử dụng thức ăn trong nuôi trồng thủy sản  
mô đun: MĐ 15  
Vị trí, tính chất, ý nghĩa và vai trò của mô đun:  
- Vị trí:  
Mô đun “Sử dụng thức ăn trong nuôi trồng thủy sản” là mô đun cơ sở ngành  
của chương trình đào tạo nghề Nuôi trồng thủy sản nước ngọt trình độ Cao đẳng.  
Mô đun này được giảng dạy sau khi sinh viên đã học xong các học phần Thủy  
sinh vật, Ứng dụng vi sinh trong nuôi trồng thủy sản, Phân loại học, Sinh lý động  
vật thủy sản, Quản lý chất lượng nước trong nuôi trồng thủy sản.  
- Tính chất:  
Mô đun cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản về thức ăn tự  
nhiên, kỹ thuật gây nuôi thức ăn tự nhiên trong ao đầm nuôi thủy sản; hiểu biết  
cơ bản về thức ăn nhân tạo, kỹ thuật chế biến, sử dụng thức ăn trong nuôi trồng  
thủy sản.  
- Ý nghĩa và vai trò của môn học/mô đun: Sử dụng thức ăn trong nuôi trồng  
thủy sản một cách khoa học và hợp lý là một chỉ tiêu rất quan trọng trong nuôi  
trồng thủy sản, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh tế, năng suất và chất lượng  
sản phẩm.  
Mục tiêu của mô đun:  
- Kiến thức:  
Nêu được khái niệm thức ăn tự nhiên, phân tích được kỹ thuật gây nuôi  
thức ăn tự nhiên và chế biến thức ăn nhân tạo cho động vật thủy sản.  
- Kỹ năng:  
+ Gây nuôi được các loại thức ăn tự nhiên trong ao đầm nuôi thủy sản, sản  
xuất thức ăn nhân tạo, lựa chọn thức ăn công nghiệp sử dụng trong nuôi trồng  
thủy sản  
+ Tính được khẩu phẩn ăn, lượng thức ăn, hệ số thức ăn; sản xuất và sử  
dụng hợp lý thức ăn trong nuôi thuỷ sản.  
- Năng lực tự chủ và trách nhiệm:  
4
Thực hiện đúng quy trình, nghiêm túc, chính xác, cẩn trọng trong sản xuất  
và chế biến thức ăn cho động vật thủy sản.  
Nội dung của mô đun:  
Số  
Tên chương, mục  
Thời gian (giờ)  
Thực  
TT  
Tổng  
Kiểm  
số thuyết hành, thí  
nghiệm,  
tra  
thảo luận,  
bài tập  
1
Bài 1: Gây nuôi thức ăn tự nhiên 14  
6
8
trong ao đầm nuôi thủy sản  
2
3
Bài 2: Sản xuất thức ăn nhân tạo  
Bài 3: Quản lý chế độ cho ăn  
Cộng  
23  
8
7
2
16  
5
1
45  
15  
29  
1
5
BÀI 1: GÂY NUÔI THỨC ĂN TỰ NHIÊN TRONG AO ĐẦM NUÔI THỦY  
SẢN  
Mục tiêu:  
- Trình bày được các biện pháp gây nuôi thức ăn tự nhiên làm thức ăn cho  
động vật thủy sản;  
- Sử dụng được phân bón để phát triển thức ăn tự nhiên trong ao, đầm.  
Nội dung chính:  
1. Những hiểu biết cơ bản về thức ăn tự nhiên  
1.1. Định nghĩa thức ăn tự nhiên, tính ăn của một số loài cá nuôi  
1.1.1. Định nghĩa thức ăn tự nhiên  
Thức ăn tự nhiên của cá chủ yếu bao gồm các nhóm sinh vật ở nước, sống  
cùng cá. Phần lớn các sinh vật thức ăn của cá có đời sống gắn chặt với nước; đó  
là những vi khuẩn ở nước, tảo, các động vật giáp xác thấp sống phù du như nhóm  
râu ngành (Cladocera), chân chèo (Copepoda), luân trùng (Rotifera); các động  
vật sống ở bùn đáy như giun ít tơ, trai, ốc và cuối cùng phải kể đến cả những loại  
cá con, cá tạp, làm thức thức ăn tự nhiên cho các loài cá dữ. Đây là những sinh  
vật sống ở nước điển hình. Chỉ có một số ít sinh vật thức ăn của cá sống ở nước  
một thời gian (thường là thời gian đầu của quá trình biến thái) đó là: ấu trùng  
muỗi, ấu trùng chuồn chuồn và ấu trùng của nhiều loại côn trùng khác.  
Do đời sống của các sinh vật thức ăn gắn chặt với nước nên những tính chất  
chung của nước và những tính chất riêng của từng loại vực nước có ảnh hưởng  
quyết định đến thành phần và số lượng, cũng như toàn bộ đời sống của các sinh  
vật thức ăn, kể cả cá.  
1.1.2. Tính ăn của một số loài cá nuôi  
Mỗi loài cá nuôi chọn những mồi ăn thích hợp khác nhau có trong vực  
nước, nói một cách khác mỗi loài cá có tính ăn riêng.  
Cá mè trắng hầu như chỉ ăn tảo phù du, ăn động vật phù du với số lượng  
không đáng kể. Cá mè hoa là loài cá điển hình ăn động vật phù du. Hai loài cá  
này nhờ có cơ quan lọc rất tinh tế ở mang nên đã lọc nước giữ lại được những sinh  
6
vật có cấu tạo hiển vi là thực vật phù du và động vật phù du. Ấu trùng côn trùng,  
giun, trai, ốc… là thức ăn thích hợp của cá chép, cá trắm đen. Cá trắm cỏ, cá  
bống… chỉ ăn cỏ, lá, rong bèo. Cá trôi ăn mùn bã hữu cơ ở đáy ao hồ. Những loài  
cá ăn tạp như cá rô phi, cá diếc, cá chép…rất dễ nuôi vì chúng ăn cả động vật và  
thực vật.  
Những tính ăn riêng biệt của một loài cá nuôi như đã kể trên đây chỉ đặc  
trưng ở giai đoạn cá trưởng thành. Ở tất cả các loài cá nuôi kể trên, kể cả những  
cá dữ như cá quả, cá măng... trong một thời kỳ nhất định sau khi tiêu hết noãn  
hoàng đều ăn chung một loại thức ăn đó là động vật phù du - những sinh vật nhỏ  
nhưng có giá trị dinh dưỡng cao. Trong nghề nuôi cá, giai đoạn này chính là giai  
đoạn ương cá bột lên cá hương. Chính vì vậy, hầu như với tất cả các loài cá nuôi  
trong giai đoạn ương này người ta thường áp dụng kỹ thuật chăm sóc, cho ăn như  
nhau.  
Tuỳ tính ăn, tập tính bắt mồi của các loài cá nuôi mà người ta chia các là cá  
nuôi thành 2 loại: cá hiền (dinh dưỡng chủ yếu bằng thực vật và động vật không  
xương ở nước) và cá dữ (ăn các loài cá khác). Tuỳ theo nơi sống của các sinh vật  
thức ăn tự nhiên, lại có thể chia cá thành loại cá ăn nổi và cá ăn đáy. Tuy nhiên  
những cách phân chia trên cũng chỉ là tương đối vì khi không có những thức ăn  
ưa thích hoặc thiếu thức ăn một số loài cá có thể tạm thời thay đổi tập tính ăn vốn  
có của chúng.  
1.2. Các loại thức ăn tự nhiên và ý nghĩa thức ăn của chúng  
Thức ăn tự nhiên của cá bao gồm nhiều loài sinh vật ở nước, kể từ vi khuẩn  
cho đến tảo và thực vật bậc cao, các loại động vật không xương sống sống trôi nổi  
trong tầng nước hoặc ở trong đáy bùn và cả một số loài động vật có xương sống.  
Ngoài ra còn toàn bộ các sản phẩm phân giải sau khi chúng chết đã tạo nên một  
loại "thức ăn" gồm nhiều thành phần và mang một tên gọi chung là mùn bã hữu  
cơ.  
1.2.1. Vi khuẩn  
Vi khuẩn có số lượng lớn cả ở trong lòng nước, cả ở trong bùn đáy. Nhờ  
sinh sản bằng cách cắt ngang cơ thể, một vi khuẩn sau 6 giờ có thể cho hơn 4000  
7
cá thể, sau 24 giờ cho 8 triệu cá thể. Nếu không có gì cản trở, con cháu của 1 vi.  
khuẩn qua một ngày đêm sẽ là 115 triệu triệu cá thể.Trong 1ml lít nước sông có  
từ 100 - 1000 vi khuẩn, (có khi lên đến hàng vạn). Ở hồ, con số này thay đổi từ 1  
đơn vài triệu cá thể. Trong 1ml nước ao nuôi cá có thể có 19 triệu tế bào vi khuẩn.  
Tính ra 1 lít nước như thế sinh khối của chúng là 31,6 mg. Ở những ao bón phân  
hữu cơ số lượng vi khuẩn càng phong phú: 1 gam bùn đáy ao có thể có 5,9 tỉ tế  
bào vi khuẩn, nặng 6,8 mg.  
Với kích thước của vi khuẩn dao động trong khoảng từ 1 đến 5 mỉcon,  
chúng là thức ăn rất cần thiết cho các loại động vật nguyên sinh, luân trùng, giáp  
xác thấp, giun, trai ốc, ấu trùng. côn trùng và nhiều loài cá khi còn nhỏ.  
Khi trong nước có đủ ôxy, nhờ hoạt động sống của vi khuẩn mà các chất  
hữu cơ phân huỷ tương đối mạnh. Vai trò phân huỷ chất hữu cơ của vi khuẩn càng  
tăng trong những ao nuôi cá dày có bón phân và cho cá ăn thức ăn tinh.  
Sau khi vi khuẩn chết, chúng bị phân huỷ, vô cơ hoá và một lần lữa tham  
gia vào chu trình sinh vật biến đổi vật chất.  
1.2.2. Tảo  
Tảo là nhóm sinh vật thức ăn cực kỳ quan trọng của bất cứ vực nước nào.  
Chúng là nguồn chủ yếu tạo ra chất hữu cơ trong các vực nước.  
Trong nước ngọt có 7 ngành tảo: tảo khuê, tảo lục, tảo lam, tảo mắt, tảo  
giáp, tảo vàng và tảo vàng ánh. Ba ngành tảo: tảo khuê, tảo lục, tảo lam có số  
lượng phong phú và đa dạng nhất về thành phần loài. Tuy tảo có kích thước hiển  
vi nhưng khi chúng phát triển mạnh sẽ nhuộm nước có chúng được mang một tên  
chung là tảo phù du (còn gọi là thực vật phù du); một số lại chọn cách sống bám  
ớ đáy và ở các giá thế khác, được gọi là tảo đáy.  
Tảo có vai trò đặc biệt quan trọng trong các vực nước, chúng là những sinh  
vật chủ yếu thải ra oxy thông qua quá trình quang hợp để chuyển các chất vô cơ  
trong nước thành chất hữu cơ của cơ thể.  
Tảo còn có khả năng sinh sản rất nhanh, nhờ thế chúng sống trong nước với  
mật độ đông đúc.  
Tảo có khả năng tổng hợp trong cơ thể mình một sinh khối giá trị dinh  
8
dưỡng cao khi có đủ các muối dinh dưỡng cần thiết. Ở tảo lượng protein có  
khoảng 30 - 60% trọng lượng khô. Đạm có trong cơ thể tảo có tưong đối đầy đủ  
những acid amin quan trọng và thường được các loại động vật tiêu hoá từ 60 -  
80% nghĩa là hơn hẳn nhiều loại thức ăn thực vật khác. Lượng mỡ ở tảo có khoảng  
20 - 35% trọng lượng khô. Lượng đường từ 20 - 40% bao gồm những loại đường  
kép dễ tan và động vật dễ hấp thụ.  
Bảng 1.1. Nhiệt lượng của 100 gam chất hữu cơ thuộc ba ngành tảo chính  
ở nước ngọt  
Tảo  
Đạm (%)  
Đường (%)  
Mỡ (%)  
Nhiệt lượng  
(Calo)  
472  
Tảo lục  
45  
30  
40  
43  
64  
30  
12  
6
Tảo lam  
Tảo khuê  
441  
30  
525  
Trong tảo còn có một lượng lớn Vitamin C, E, carotin, nhiều clorophyn,  
những nhóm phytophyn mà từ đó cho Vitamin K.  
Với những thành phần trên, tảo thuộc nhóm sinh vật thức ăn quan trọng vào  
bậc nhất và là thành phần thức ăn cơ bản của tất cả các loại vực nước. Ở đây cần  
nhắc lại câu đánh giá chính xác của giáo sư G.G.Vinbe về vai trò quan trọng của  
tảo: “Không có tảo sẽ không có nghề cá!”.  
Tuy nhiên cũng có một số loài tảo lam độc có thể gây nguy hại cho cá và  
môi trường nước, nhất là khi chúng phát triển dày đặc gọi là "hoa nước”.  
1.2.3. Động vật không xương sống ở nước  
Các loại động vật không xương sống ở nước có hai dạng: dạng chuyên sống  
trôi nổi trong lòng nước (gọi là động vật phù đu) và dạng chuyên sống ở đáy các  
vực nước (gọi là động vật đáy). Chúng là những sinh vật thức ăn có giá trị, giàu  
chất dinh dưỡng và vitamin cho cá. Các chất dinh dưỡng chủ yếu (đạm, mỡ,  
đường) có chứa trong cơ thể chúng với lượng tốt nhất cho cá. Vì vậy, chúng là  
thành phần thức ăn bắt buộc có giá trị nhất của cá, hoàn toàn không thể thay thế  
chúng bằng thức ăn nhân tạo.  
9
Bảng 1.2. Thành phần hóa học của một số nhóm động vật  
không xương sống ở nước  
Nhóm sinh vật  
Thành phần hoá học (% khối lượng tươi)  
Nước  
Đạm  
Mỡ  
Đường  
Tro  
Động vật phù du:  
Râu ngành  
90,0  
88,5  
5,0  
0,7  
2,0  
0,1  
0,1  
1,7  
0,8  
Chân chèo  
6, 7  
Động vật đáy:  
Ấu trùng muỗi lắc  
Giun ít tơ  
87,9  
88,0  
61.7  
7,0  
6,8  
6,0  
0,7  
0,6  
0,9  
3,6  
1,2  
1,8  
1,4  
1,1  
Nhuyễn thể  
29.0  
1.2.4. Mùn bã hữu cơ  
Mùn bã hữu cơ, còn gọi là chất vẩn đêtrit, được hình thành trong vực nước  
do hoạt động sống của sinh vật và các sản phẩm phân giải của chúng sau khi chết,  
chủ yếu là nhờ thực vật. Ở các vực nước ngọt có đến 90% chất hữu cơ thực vật là  
do tảo đơn bào hiển vi. Lượng mùn bã hữu cơ ở đây thường rất cao, nhất là ở ven  
bờ, có khi lên đến vài mg/ l lít nước.  
Những nghiên cứu về bản chất của mùn bã hữu cơ đã cho thấy đây là cả  
một phức hệ sống. Phần cơ bản của chất vẩn vẫn là một giá thể (có thể là vô cơ,  
có thể là hữu cơ). Nhờ khả năng hấp phụ trên bề mặt của giá thể mà tạo ra một  
lớp màng chất hữu cơ. Màng này là môi trường tốt cho vi khuẩn, động vật nguyên  
sinh, luân trùng và tảo. Bọt khí do hoạt động sống của vi khuẩn tạo ra đã giúp cho  
chất vẩn lơ lửng ở trong nước.  
1.3. Mối quan hệ giữa các sinh vật thức ăn trong vực nước  
1.3.1. Chu trình chuyển hoá vật chất  
Mối quan hệ chặt chẽ qua lại giữa các sinh vật thức ăn được thể thiện trong  
chu trình chuyển hoá vật chất trong các vực nước (sơ đồ 8).  
Sự chuyển hoá vật chất trong vực nước được tiến hành thứ tự theo các bước như  
sau:  
10  
1. Các chất hữu cơ có trong bùn đáy được vi sinh vật phân huỷ thành các muối vô  
cơ làm giàu cho nước.  
2. Vi khuẩn và tảo hấp thụ các muối dinh dưỡng vô cơ và các chất hữu cơ từ nước.  
3. Động vật phù du và động vật đáy dùng tảo và vi khuẩn làm thức ăn.  
4. Toàn bộ chất hữu cơ của các sinh vật ở nước kể trên được dùng làm thức ăn  
cho các loài cá.  
5. Ngoài ra, ở tất cả các bước chuyển hoá trên đều có những sản phẩm chết và thải  
của sinh vật. Những sản phẩm này được các sinh vật sống trong bùn đáy và vi  
khuẩn sử dụng và phân huỷ thành muối vô cơ và các hợp chất hữu cơ hoà tan  
trong nước.  
Sơ đồ 1.1. Sơ đồ tổng quát về chuyển hóa vâth chất trong vực nước  
và mối liên quan của nó với bên ngoài  
Muối  
khoáng  
Các sản phẩm  
Các chất  
hữu cơ  
CO2  
khác  
Chất  
vẩn  
Muối dinh  
dưỡng vô cơ  
hòa tan  
Thực vật  
Động vật  
Chất hữu cơ  
hòa tan  
Vi  
khuẩn  
Với các bước chuyển hoá này, trong vực nước không ngừng diễn ra quá  
trình tạo thành, phân hủy rồi lại tạo thành vật chất, từ dạng vô cơ sang dạng hữu  
cơ, rồi lại trở về dạng vô cơ. Chu trình chuyển hoá vật chất trong vực nước còn  
có mối quan hệ chặt chẽ với các yếu tố bên ngoài vực nước.  
Trong chu trình chuyển hoá vật chất cần lưu ý đặc biệt đến vai trò quan  
trọng của lớp bùn đáy ở các vực nước. Bùn là một hỗn hợp các hợp chất hữu cơ  
và vô cơ, duy trì một lớp bùn vừa phải trong ao hồ thường cho năng suất cá cao.  
1.3.2. Quan hệ về thức ăn  
11  
Một chu trình chuyển hoá vật chất trong vực nước luôn luôn có sự tham gia  
của một số lớn nhóm sinh vật ở nước, bắt đầu từ vi khuẩn, tảo, động vật nguyên  
sinh đến các động vật khác ở nước có cấu tạo tổ chức từ thấp (động vật phù du,  
động vật đáy) đến cao (cá).  
Có thể chia các sinh vật thức ăn ở nước làm 3 loại :  
1. Các thực vật tự dưỡng là những " Sinh vật sản xuất”, còn gọi là sinh vật sinh  
sản.  
2. Các sinh vật dị dưỡng sử dụng các chất hữu cơ có sẵn, chúng là những " sinh  
vật tiêu thụ”. Thức ăn của các sinh vật tiêu thụ là thực vật, động vật với các sản  
phẩm phân giải khác.  
3. Các sinh vật làm nhiệm vụ phân giải các sinh vật, cả sinh vật sản xuất cũng như  
sinh vật tiêu thụ và các sản phẩm thải của chúng được gọi là " sinh vật phân hủy".  
Tuỳ theo ý nghĩa của chúng là sinh vật sản xuất, sinh vật tiêu thụ hay sinh  
vật phân huỷ mà các nhóm sinh vật ở nước được xếp vào các bậc dinh dưỡng khác  
nhau.  
Tuỳ theo chất lượng, cũng như quá trình tạo thành sản phẩm trong chu trình  
chuyển hoá vật chất người ta phân chia thành 2 dạng:  
1. Lượng chất hữu cơ dưới dạng thực vật (do thực vật tổng hợp nên từ các chất vô  
cơ nhờ quang hợp) được gọi là sức sản xuất sơ cấp.  
2. Lượng chất hữu cơ dưới dạng động vật (do động vật sử dụng các sản phẩm sơ  
cấp làm thức ăn) được gọi là sức sản xuất thứ cấp.  
Theo cách phân chia này, có thể thấy sức sản xuất thứ cấp của một vực  
nước bao gồm không phải chỉ là một bậc mà là nhiều bậc khác nhau về mặt chuyển  
hoá. Nếu chu trình càng cần đến nhiều bậc dinh dưỡng thì lượng vật chất và năng  
lượng càng bị giảm, nói một cách khác hiệu quả chuyển hoá càng thấp.  
Sự hao hụt to lớn về vật chất và năng lượng ở các chuỗi thức ăn bao gồm  
nhiều khâu như thế đã dẫn đến sự lựa chọn tất yếu trong nuôi cá. Cần phải tạo ra  
trong ao hồ nuôi cá những chuỗi thức ăn ngắn, có như thế mới mang lại hiệu quả  
kinh tế cao. Cá mè (ăn tảo) và cá trắm cỏ (ăn rong, cỏ) là những loài có chuỗi thức  
ăn ngắn nhất trong các loài cá hiện nuôi ở nước ta. Trên thế giới, công việc tìm  
12  
kiếm trong thành phần đàn cá vốn có hoặc di nhập vào những loài cá có chuỗi  
xích thức ăn ngắn để thu được lợi ích kinh tế cao hiện vẫn đang tiếp tục ở nhiều  
nước trên qui mô rộng lớn.  
1.3.3. Sản phẩm sơ cấp, thứ cấp hao hụt từ bậc thấp lên bậc cao  
Tùy theo chất lượng, quá trình tạo thành sản phẩm trong chu trình chuyển  
hóa vật chất, người ta phân chia thành 2 dạng:  
- Lượng chất hữu cơ dưới dạng thực vật, do thực vật tổng hợp từ các chất  
vô cơ nhờ quang hợp được gọi là sức sản xuất sơ cấp  
- Lượng chất hữu cơ dưới dạng động vật, do động vật sử dụng các sản phẩm  
sơ cấp làm thức ăn được gọi là sức sản xuất thứ cấp.  
Theo cách phân chia này, có thể thấy sức sản xuất thứ cấp của một vực  
nước bao gồm nhiều bậc khác nhau về mặt chuyển hóa, tạo thành tháp dinh dưỡng.  
Nếu chu trình càng cần đến nhiều bậc dinh dưỡng thì lượng vật chất và năng lượng  
càng bị giảm.  
2. Gây nuôi thức ăn tự nhiên trong ao, đầm  
2.1. Bón phân cho ao, đầm nuôi cá  
2.1.1. Mục đích, tác dụng của bón phân  
Trong vực nước các sinh vật tự dưỡng (chủ yếu là tảo) muốn tổng hợp lên  
các chất hữu cơ từ C, H, O chúng cần nhiều yếu tố N, P, Si, K, Mg... những yếu  
tố này gọi là những yếu tố Biogen ("chất tạo sự sống"). Đạm và lân là hai yếu tố  
mà tảo có nhu cầu rất lớn và trong ao hồ thường không có đủ để thoả mãn nhu cầu  
khi tảo phát triển mạnh.  
Ở các vực nước tự nhiên, hàm lượng Biogen trong đất và nước chỉ ở mức  
thấp tảo và các sinh vật thức ăn phát triển kém; ứng với nó trong vực nước cũng  
chỉ có một chu trình vật chất ở mực thấp. Vì thế bón phân cho ao hồ làm tăng hàm  
lượng Biogen nhờ đó tảo phát triển, kéo theo sự phát triển của các sinh vật thức  
ăn khác. Ảnh hưởng của phân bón đến cá được thực hiện qua mắt xích đầu tiên  
của chuỗi xích thức ăn là tảo và được truyền đến mắt xích cuối cùng là cá. Nói  
một cách khác, nhờ bón phân cho ao hồ mà chu trình chuyển hoá vật chất ở đó trở  
nên mạnh mẽ hơn, từ mức thấp lên mức cao, làm tăng năng suất và sản lượng cá  
13  
nuôi trong ao.  
Có một vấn đề cần được làm rõ là cá có ăn phân hay không? (nhiều trại cá  
vẫn gọi việc bón phân cho ao hồ là "cho cá ăn phân"). Thực ra chỉ có một số ít  
loài cá nuôi như trê lai, rô phi… mới có thể ăn trực tiếp phân hữu cơ (phân chuồng,  
phân bắc…) còn đa số các loài cá nuôi khác như mè, trắm, chép... hầu như không  
có khả năng này. Phân bón chỉ có ý nghĩa với chúng về mặt thức ăn thông qua sự  
phát triển của các sinh vật thức ăn tự nhiên.  
Nghề nuôi cá đã sử dụng tất cả các nguồn phân bón của nông nghiệp để bón  
cho ao hồ: phân vô cơ, phân hữu cơ và phân hỗn hợp vô cơ - hữu cơ.  
Tác dụng của bón phân:  
+ Bổ sung vật chất dinh dưỡng cho vùng nước.  
+ Thúc đẩy sự phát triển của các sinh vật thức ăn  
+ Cải tạo chất nước, chất đáy ao nuôi  
+ Nâng cao năng suất cá nuôi.  
2.1.2. Bón phân cho ao, đầm  
a. Phân bón hóa học (phân vô cơ)  
* Đặc điểm của phân vô cơ  
1. Phân vô cơ thường hoà tan rất nhanh trong nước, vì vậy phân vô cơ bổ  
sung muối dinh dưỡng vào nước rất nhanh.  
2. Sau khi bón phân vô cơ vào nước có hiện tượng một số phân bị đáy ao  
hấp phụ.  
3. Tác dụng của từng loại phân vô cơ có tính chất phiến diện.  
4. Thao tác bón phân vô cơ nhẹ nhàng.  
5. Ít tiêu hao oxy hòa tan trong nước  
* Các loại phân vô cơ thường dùng trong nghề nuôi trồng thủy sản  
+ Phân đạm  
Trong thành phần của các loại phân đạm có thể gồm nhiều chất nhưng  
nguyên tố chủ yếu vẫn là nitơ (N). Chúng ta có thể gặp ở thị trường nhiều loại  
phân đạm như phân urê, phân sunphat amôn, phân clorua amon, phân nitrat natri,  
phân nitrat canxi, phân nitrat kali... trong đó có 4 loại thường dùng là:  
14  
1. Phân đạm urê CO(NH2)2 có màu trắng, tỉ lệ đạm có trong phân này là  
46%, tan nhanh trong nước. Đây là loại phân tốt vì trong thành phần có cả hai yếu  
tố dinh dưỡng cơ bản là C và N. Đạm urê là loại phân hoá học tồn tại ở dạng hợp  
chất hữu cơ.  
2. Phân đạm sunphat amôn (NH4)2SO4 có màu xám xanh hoặc hơi vàng,  
chứa khoảng 21% N nguyên chất. Dễ tan trong nước. Nhiều nơi gọi loại phân đạm  
này là “đạm một lá” do trong cấu tạo hoá học chỉ có một gốc N.  
3. Phân đạm nitrat amôn (NH4NO3) có màu như loại đạm sunphát nhưng  
nhạt hơn, chứa từ 20 - 34% N nguyên chất. Dễ tan trong nước. Vì trong cấu tạo  
có hai gốc đạm NH4 và NO3 nên còn gọi là “ đạm hai lá".  
4. Phân đạm clorua amon (NH4Cl) có chứa 25% N. Ít dùng hơn ba loại  
phân đạm trên vì chỉ tan trong nước khoảng 1/5.  
+ Phân lân  
Là loại phân chứa nguyên tố P dưới nhiều dạng khác nhau, thường là dạng  
phốt phát. Các loại phân lân nội địa đang dùng phổ biến là supe-phốt phát (lân  
Lâm Thao), phân lân nung chảy (lân Văn Điển), phôtphát nội địa (lân Vĩnh Thịnh)  
và apatit Lào Cai.  
Một số tính chất cơ bản của từng loại phân lân như sau  
1. Supephốt phát (còn gọi là lân bông 1úa, lân Lâm Thao) thường ở dạng  
bột hoặc viên màu trắng xám hoặc màu tro, được chế biến từ apatit và axit  
sunphuric. Công thức hoá học là Ca(H2PO4)2.CaSO4. 2H2O (đối với supe lân đơn)  
và CaH4(PO4)2. 2H2O (supe lân kép). Vì phân này có chứa nhiều axít nên thường  
có vị chua, dễ hút ẩm, chảy nước và ăn thủng bao bì đựng. Lượng lân nguyên chất  
P2O5 là 15-20%, tan khoảng 90% trong nước.  
2. Lân Văn Điển (gòn gọi là lân nung chảy, lân cao nhiệt). Phân được chế  
bằng cách nung apatít với than cốc, đá sa vân và đồng thời làm bay đi chất độc  
Fluo có trong apatit. Phân ở dạng bột có màu trắng xám tan chậm hơn supe phốt  
phát. Tỷ lệ lân nguyên chất P2O5 là 18-19%, ngoài ra còn có vôi (30%) manhê  
(18%). Phân này để lâu không bị chảy nước dễ bảo quản.  
3. Apatít Lào Cai được chế biến từ quặng mỏ sấy khô, nghiền nhỏ, có tỷ lệ  
15  
P2O5 khá cao: 34 - 35%, công thức hoá học là Ca3(PO4)2, ít tan trong nước.  
4. Phốt phát nội địa (còn gọi là lân Vĩnh Thịnh, bột phốt pho rit) là loại  
phân lân thiên nhiên: sấy khô quặng phối pho rít rồi nghiền thật nhỏ. Tỷ lệ P2O5  
là 10 - 25 %, tan chậm trong nước.  
Trong thành phần của apatit và phốt phát nội địa còn có nhiều vôi, có tác dụng  
khử chua rất tôt.  
* Kỹ thuật trộn và bảo quản phân vô cơ  
- KT trộn:  
Khi trộn các loại phân vô cơ với nhau (hoặc do để lẫn lộn trong kho) có thể  
xảy ra mấy trường hợp sau :  
1. Chúng kết hợp với nhau và làm mất các chất đạm, lân cần thiết. Ví dụ  
phân sun phát amôn, Nitrat amôn đem trộn với vôi sẽ bị mất đạm.  
NH4SO4 + CaO  
2NH3 + CaSO4 + H2O  
2NH4NO3 + CaO  
2NH3 + N2O5 + H2O + Ca(NO3)2  
2. Có loại sau khi trộn với nhau đem bón ngay thì được, nhưng nếu trộn  
rồi để lâu không dùng tự sẽ bị biến chất và bị mất đạm. Ví dụ: Có thể trộn Nitrat  
amôn với phân lân sunpe phốtphát, nhưng nếu để lâu sẽ xảy ra phản ứng.  
NaNO3 + Ca(H2PO4)2  
Ca(NaH)2(PO4)2 + H2O + N2O5  
3. Có trường hợp sau khi trộn phân không bị mất chất nhưng lại làm cho  
chúng có hiệu quả chậm lại hoặc đóng thành cục, khó bón. Ví dụ: khi trộn vôi, tro  
với phân supe phốt phát sẽ làm lân từ dạng dễ tan sang dạng khó tan.  
Nói chung có thể trộn phân đạm với phân lân, hoặc trộn các loại phân đạm  
với nhau. Không được trộn phân đạm hoặc phân lân với vôi. Với những loại  
phân có thể trộn được, trước khi trộn cần nhặt sạch rác, sỏi... nhặt những cục to  
và ẩm để nghiền kỹ hoặc sàng kỹ. Sau khi nghiền đem trộn phân vô cơ theo cách  
sau: nếu ít, có thể trộn bằng tay; nếu nhiều, ta rải các loại phân lên một nền gạch  
hoặc mặt đất bằng phẳng. Sau đó lấy xẻng xúc đào từ dưới lên trên vun vào giữa  
thành đống rồi lại rải ra... cứ làm như vậy đến khi nhìn đống phân không phân  
biệt được phân đạm hay phân lân nữa thì thôi.  
- Bảo quản:  
16  
+ Chống nóng  
+ Chống ẩm, chống gió  
+ Chống lẫn lộn các loại phân  
+ Bảo đảm an toàn người sử dụng  
* 8 biện pháp tăng hiện quả sử dụng phân vô cơ cho ao nuôi cá  
1. Cần biết chính xác hàm lượng N, P nguyên chất của từng loại phân.  
2. Cần bón cho 1m3 nước ao đạt 2 gam N và 0.5 gam P thì hiệu quả mới  
cao. Nếu sau khi bón thấy nước ao có màu xanh sẫm hoặc ao nổi váng màu xanh  
lá cây, trong ao có nhiều động vật phù du bơi lội, cá nổi đầu ngớp khí một thời  
gian ngắn vào đầu buổi sáng... thì đấy là những dấu hiệu tin cậy về cơ sở thức ăn  
của cá phong phú.  
3. Khi bón tăng lượng đạm đồng thời cũng phải tăng lượng phân lân tương  
ứng.  
4. Hòa tan vào nước rồi té đều khắp ao.  
5. Bón kết hợp các loại phân vô cơ với phân chuồng, phân xanh, vôi.  
6. Từ cuối tháng 4 đến tháng 10, nhất là từ tháng 5 đến tháng 8 ưu tiên sử  
dụng phân vô cơ, nhất là phân đạm vào thời kỳ này.  
7. Bảo quản phân vô cơ, nhất là phân lân, cần được chú ý để giảm bớt hao  
hụt về số lượng và chất lượng.  
8. Nên ghi chép theo dõi tình hình sử dụng và hiệu quả của phân vô cơ trong  
nuôi cá để có thể dùng trao đổi khi cần thiết, nhằm rút kinh nghiệm và nâng cao  
hiệu quả sử dụng phân vô cơ trong nuôi cá.  
b. Phân hữu cơ  
* Đặc điểm phân hữu cơ:  
+ Thành phần vật chất dinh dưỡng phức tạp: N, P, VTM nhưng với hàm  
lượng thấp  
+ Quá trình phân giải chịu ảnh hưởng của yếu tố nhiệt độ và vi sinh vật.  
+ Thời gian phân giải chậm, tác dụng chậm, hiệu quả sử dụng bền hơn phân  
vô cơ.  
+ Số lượng bón nhiều  
17  
+ Dễ gây bẩn vùng nước, tiêu hao nhiều oxy.  
* Ưu điểm:  
+ Dễ sản xuất, dễ khai thác  
+ Có tác dụng toàn diện  
+ Có tác dụng cải tạo chất nước, chất đất lớn.  
+ Khi bón kết hợp với phân vô cơ có tác dụng tăng hiệu quả phân vô cơ.  
+ Là thức ăn trực tiếp của một số loài cá.  
* Các loại phân hữu cơ thường dùng:  
- Phân chuồng:  
+ Đặc điểm: có giá trị dinh dưỡng cân đối hơn so với các loại phân khác;  
Lượng mùn bã hữu cơ lớn, có tác dụng cải tạo ao tốt; tiêu hao nhiều oxy khi bón  
xuống ao; thúc đẩy mạnh sinh vật phù du phát triển,thích hợp ao ương cá.  
+ Cách bón phân chuồng:  
Bón nhiều lần, mỗi lần với lượng ít  
Sử dụng bón lót cho ao: 35-50 kg/100m2.  
Bón định kỳ: thường bón 15-20 kg/sào (tùy theo tình hình ao), có thể bón thành  
đống nhỏ ở góc ao, xung quanh bờ ao sao cho đống phân không chìm suống bùn  
đáy. Hoặc hòa tan vào nước rồi té đều nước phân lên mặt ao.  
Yêu cầu: Bón phân không để oxy hòa tan trong ao < 3mg/lít  
+ Bảo quản: Tốt nhất ủ phân trong nước trong bể xây chìm có mái che. Hoặc  
có thể ủ với phân xanh, nhưng sẽ bị mất đạm, mất nhiều sức lao động.  
+ Các loại phân chuồng thường dùng  
Phân lợn  
Là loại phân hữu cơ rất phổ biến, có chứa nhiều chất hữu cơ và các yếu tố  
dinh dưỡng khác như đạm, lân và kali.  
Bảng 1.3. Các yếu tố dinh dưỡng trong phân lợn  
Loại  
Chất hữu cơ  
Chất vô cơ (%)  
N
P2O5  
K2O  
(%)  
18  
Phân tươi  
15,00  
2,00  
0,60  
0,30  
2,12  
0,40  
0,12  
0,98  
0,44  
1,00  
2,45  
Nước tiểu  
Phân để khô trong không khí  
34,32  
Phân lợn có chứa nhiều đạm hơn các loại phân chuồng khác (tỉ lệ C:  
N=14:1), phần chủ yếu của nước tiểu lợn là đạm ở dạng urê dễ phân huỷ.  
Trung bình một con lợn 50 kg thải ra mỗi ngày 10 kg chất thải, bằng 20%  
trọng lượng cơ thể. Nuôi từ lợn giống thành lợn thịt, một con lợn thải ra 1000 kg  
phân và 1200 kg nước tiểu.  
Phân bò: Các thành phần của phân bò cũng tương tự như phân lợn.  
Bảng 1.4. Các yếu tố dinh dưỡng trong phân bò  
Loại  
Chất hữu cơ  
(%)  
Chất vô cơ (%)  
N
P2O5  
K2O  
Phân tươi  
Nước tiểu  
14,0  
0,3  
1,0  
0,2  
0,1  
0,1  
1,4  
2,3  
Phân bò có chứa ít đạm hơn phân lợn (tỷ lệ C:N = 25:l). Nước tiểu của bò  
có chứa nhiều đạm hơn nước tiểu lợn (dưới dạng acid hippuric  
C6H5CONHCH2COOH). Chính vì thế chất thải của bò phân huỷ chậm. Một con  
bò mỗi ngày trung bình thải 25 kg, trong đó tỉ lệ giữa phân và nước tiểu là 3:2.  
Mỗi năm, một con bò thải ra tổng cộng 9000 kg.  
* Phân gà vịt: Là loại phân giàu cả chất hữu cơ và chất vô cơ.  
Bảng 1.5. Các yếu tố dinh dưỡng trong phân gà vịt  
Loại  
Chất hữu cơ  
Chất vô cơ (%)  
(%)  
N
P2O5  
K2O  
Phân gà  
25,5  
26,2  
23,4  
1,63  
1,14  
0,55  
1,54  
1,44  
0,50  
0,83  
0,62  
0,95  
Phân vịt  
Phân ngỗng  
Điều đang chú ý là đạm của phân gà vịt chủ yếu ở dạng axid uric, không  
được thực vật hấp thu. Nhưng phân gà sau khi ủ lại có hiệu quả hơn. Lượng thải  
tổng cộng hàng năm của gà là 5,0 - 5,7 kg, của vịt 7,5 - 10 kg, của ngỗng 12,5 -  
19  
15,0 kg. Mặc dù tổng lượng thải của mỗi con đều tương đối nhỏ, nhưng do lượng  
gà vịt thường nuôi nhiều nên lượng phân này tổng cộng là rất đáng kể.  
Phân bắc: Thành phần của phân bắc (phân người) phụ thuộc rất lớn vào chất  
và lượng thức ăn hàng ngày.  
Bảng 1.6 - Các yếu tố dinh dưỡng trong chất thải của người  
Loại  
Chất hữu cơ  
Chất vô cơ (%)  
N
1,0  
P2O5  
0,5  
K2O  
0,4  
(%)  
20,0  
Phân  
Nước tiểu  
3,0  
0,5  
0,1  
0,2  
Tỷ lệ đạm trong phân bắc khá phong phú (tỷ lệ C:N = 3: 1) và 70 - 80%  
trong đó là ở dạng urê, nhờ thế việc phân huỷ diễn ra nhanh.  
Tính trung bình một người lớn thải ra 790 kg/năm tương đương với 22 kg  
phân sunfat ammôn (NH4)2SO4/ năm.  
Bảng 1.7. Lượng chất thải mỗi năm của một người lớn  
Loại  
Tổng cộng  
(kg)  
Tương đương (kg/năm)  
Sunfat ammon Supe photphát canxi Sunfat kali  
Phân  
90  
4,5  
2,25  
0,7  
Nước tiểu  
Tổng cộng  
700  
790  
17,5  
22,0  
4,55  
6,80  
2,8  
3,5  
Trước khi dùng, phân bắc cần được ủ kỹ ở điều kiện kỵ khí 2 - 4 tuần để  
triệt trùng. Ngoài ra việc dùng vôi bột (l - 2 %) sẽ diệt các mầm bệnh có trong  
phân bắc một cách có hiệu quả.  
- Phân xanh  
+ Đặc điểm phân xanh: có tác dụng toàn diện; hàm lượng VTM nhiều hơn  
các loại phân khác; khi bón vào ao đạm dễ tiêu hơn trong phân chuồng, nước  
chóng béo; tiêu hao nhiều oxy; bón nhiều, để lâu ao dễ bị chua, thối gây bệnh cho  
cá. Nên chọn cây phân xanh ở giai đoạn bánh tẻ (nhiều khối lượng, chất lượng  
cao, dễ phân hủy).  
Có hai cách bón:  
+ Cánh thứ nhất: thường áp dụng đối với ao ương có thời gian tháo cạn  
nước tương đối dài. Sau khi thán cạn nước, người ta gieo hạt hay cấy cây phân  
20  
xanh xuống đáy ao. Khí cây đã cao, cắt sát gốc, bó lại ngâm xuống ao hoặc vùi  
cây xuống đất rồi đưa nước vào ao, sau đó thả cá vào ương nuôi. Việc gieo trồng  
cây phân xanh xuống đáy ao, sau đó tháo nước vào ao phân xanh đã có tác dụng  
tốt đến ao là do:  
- Cây phân xanh mọc lên sẽ làm giàu chất hữu cơ cho ao.  
- Vi khuẩn nốt sần cộng sinh trong rễ cây họ đậu sẽ lích luỹ đạm, làm tăng  
lượng đạm ở dạng dễ hấp thụ..  
- Rễ cây phân xanh ăn sâu vào đất hút những chất dinh dưỡng tiềm tàng từ  
lớp đất sâu mang lên mặt đáy ao.  
- Khi cày xới đáy ao để trồng hoặc thu hoạch cây phân xanh sẽ thúc đẩy  
quá trình vô cơ hoá chất hữu cơ ở các lớp đáy, giải phóng các chất dinh dưỡng  
cho nước. Những ao đáy trơ cứng nhờ trồng cây phân xanh mà lớp đáy dần dần  
được cải tạo (nhất là trồng muống, điền thanh...) mùn dần dần được hình thành và  
tích luỹ thêm.  
+ Cách thứ hai (áp dụng rộng rãi cả đối với ao ương, ao nuôi cá thịt, cá bố  
mẹ).  
Cắt thân, lá xanh của cây mọc ở trên cạn để dầm xuống nước: sau một thời  
gian chúng bị rữa nát và làm giàu chất hữu cơ cho ao.  
Ở nước ta có nhiều loại lá có thể dùng làm lá dầm như dây khoai lang; các  
cây họ cúc như cúc tần, cỏ lào, cây cứt lợn; các cây họ đậu như cây điền thanh,  
muống, cốt khí; các loại cây khác như mò, lá các loại rau như bắp cải, rau dền,  
rau muống, lá su hào, lá khoai tây, râm bụt...  
Cách bó dầm tốt nhất là bó thành những bó nhỏ, gọn nhưng bó lỏng tay.  
Dùng cọc xuyên qua bó lá rồi cắm xuống dưới đáy ao sao cho nước ngập bó lá.  
Không nên dầm sâu dưới 1,50 m vì ở sâu nhiệt độ thấp, cành lá lâu phân huỷ. Nên  
đặt bó dầm cách đáy ao 10 - 20 cm để giúp vi sinh vật phát triển thuận lợi. Chọn  
chỗ thoáng gió để bỏ dầm, tốt nhất là ở chỗ đầu gió để nhờ gió phân tán đều các  
chất hữu cơ trong ao.  
Sau khi dầm 3 - 4 ngày, cần đảo bó lá thường xuyên. Tránh tình trạng để  
nửa bó dưới đã rữa, nửa bó trên vẫn còn xanh. Khi cành lá dầm phân huỷ hết thì  
21  
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 72 trang baolam 04/05/2022 5680
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Sử dụng thức ăn trong nuôi trồng thủy sản - Nghề: Nuôi trồng thủy sản nước ngọt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_su_dung_thuc_an_trong_nuoi_trong_thuy_san_nghe_nu.pdf