Giáo trình Sản xuất giống và nuôi động vật thân mềm

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN  
TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ, KỸ THUẬT VÀ THỦY SẢN  
GIÁO TRÌNH  
MÔN HỌC/MÔ ĐUN:SẢN XUẤT GIỐNG VÀ NUÔI ĐỘNG VẬT  
THÂN MỀM  
NGHỀ: NUÔI TRỒNG THỦY SẢN  
TRÌNH ĐỘ: CAO ĐẲNG  
(Ban hành theo Quyết định số:  
/QĐ-CĐKTKTTS ngày tháng năm 2020  
của Hiệu trưởng trường Cao đẳng Kinh tế, Kỹ thuật và Thủy sản)  
Bắc Ninh, tháng 9 năm 2020  
LỜI GIỚI THIỆU  
Giáo trình ―Sản xuất giống và nuôi động vật thân mềm‖ là mô đun chuyên  
ngành bắt buộc của chương trình đào tạo cao đẳng nghề Nuôi trồng Thủy sản.  
Mô đun được giảng dạy sau khi sinh viên đã học các môn học cơ sở ngành và  
chuyên ngành như: Thực vật nước, Động vật không xương sống ở nước, Ngư  
loại; Sinh lý động vật thủy sản, Quản lý chất lượng nước trong NTTS, Thức ăn  
trong NTTS.  
Mô đun gồm 75 giờ, (Lý thuyết: 15 giờ; Thực hành, thí nghiệm, thảo luận,  
bài tập: 58 giờ; Kiểm tra: 2 giờ) 07 bài học:  
Bài mở đầu:  
1
2
3
4
5
6
7
Bài 1: Đặc điểm sinh học chủ yếu của động vật thân mềm  
Bài 2: Sản xuất giống động vật thân mềm hai mảnh vỏ  
Bài 3: Sản xuất giống động vật thân mềm chân bụng  
Bài 3: Nuôi động vật thân mềm thương phẩm trên bãi triều  
Bài 4: Nuôi động vật thân mềm thương phẩm trên biển  
Bài 5: Nuôi động vật thâm mềm thương phẩm trong ao, đầm  
3
MỤC LỤC  
Danh mục  
TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN  
Trang  
2
3
5
LỜI GIỚI THIỆU  
GIÁO TRÌNH MÔ ĐUN SẢN XUẤT GIỐNG VÀ NUÔI  
ĐỘNG VẬT THÂM MỀM  
Bài mở đầu:  
6
9
Bài 1: Đặc điểm sinh học chủ yếu của động vật thân mềm  
1. Đặc điểm hình thái cấu tạo  
2. Đặc điểm phân bố, sinh trưởng và dinh dưỡng  
3. Đặc điểm sinh sản  
Bài 2: Sản xuất giống động vật thân mềm hai mảnh vỏ  
1. Hệ thống công trình, thiết bị phục vụ cho sản xuất giống  
2. Tuyển chọn, nuôi động vật thân mềm hai mảnh vỏ bố mẹ và  
cho đẻ  
3. Kỹ thuật ươ ng nuôi ấu trùng  
Bài 3: Sản xuất giống động vật thân mềm chân bụng  
15  
61  
1. Thiết kế xây dựng trại giống  
2. Tuyển chọn, nuôi động vật thân mềm chân bụng bố mẹ và cho đẻ  
3. Kỹ thuật ư ơng nuôi ấu trùng  
Bài 4: Nuôi động vật thân mềm thương phẩm trên bãi triều  
1. Các yếu tố môi trường  
2. Lựa chọn và chuẩn bị bãi nuôi  
3. Chọn và thả giống  
4. Quản lý và chăm sóc  
5. Thu hoạch  
Bài 5: Nuôi động vật thân mềm trên biển  
1. Lựa chon vị trí nuôi, chuẩn bị công trình nuôi  
2. Kỹ thuật chọn giống và thả giống  
3. Kỹ thuật chăm sóc và quản lý  
4. Thu hoạch  
66  
69  
Bài 6: Nuôi động vật thâm mềm thương phẩm trong ao, đầm  
1. Lựa chon vị trí nuôi, chuẩn bị công trình nuôi  
2. Kỹ thuật chọn giống và thả giống  
3. Kỹ thuật chăm sóc và quản lý  
4. Thu hoạch  
73  
77  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
4
GIÁO TRÌNH MÔ ĐUN SẢN XUẤT GIỐNG VÀ NUÔI ĐỘNG VẬT  
THÂM MỀM  
Tên mô đun: Sản xuất giống và nuôi động vật thân mềm  
Tên mô đun: Sản xuất giống và nuôi động vật thân mềm  
Mã mô đun: MĐ 15  
Thời gian thực hiện mô đun: 75 giờ, (Lý thuyết: 15 giờ; Thực hành, thí  
nghiệm, thảo luận, bài tập: 58 giờ; Kiểm tra: 2giờ)  
I. Vị trí, tính chất mô đun:  
- Vị trí: Mô đun ―Sản xuất giống và nuôi động vật thân mềm‖ là mô đun  
chuyên ngành bắt buộc của chương trình đào tạo cao đẳng nghề Nuôi trồng  
Thủy sản. Mô đun được giảng dạy sau khi sinh viên đã học các môn học cơ sở  
ngành và chuyên ngành như: Thực vật nước, Động vật không xương sống ở  
nước, Ngư loại; Sinh lý động vật thủy sản, Quản lý chất lượng nước trong  
NTTS, Thức ăn trong NTTS.  
- Tính chất: Nội dung môn học cung cấp cho người học những kiến thức  
cơ bản về đặc điểm sinh học, kỹ thuật sản xuất giống và nuôi thương phẩm một  
số đối tượng thân mềm có giá trị kinh tế.  
II. Mục tiêu mô đun:  
- Kiến thức: Cung cấp cho sinh viên những kiến thức về vai trò của ngành  
thân mềm; triển vọng phát triển nghề nuôi động vật thân mềm; kỹ thuật sản xuất  
giống và nuôi thương phẩm một số loài động vật thân mềm có giá trị kinh tế:  
- Kỹ năng: Giúp sinh viên nhận dạng được một số loài động vật thân mềm  
có giá giá trị kinh tế; bước đầu làm quen với quy trình sản xuất giống, nuôi  
thương phẩm động vât thân mềm  
Năng lực tự chủ và trách nhiệm: Nghiêm túc, chịu khó trong học tập; cẩn  
thận trong lao động sản xuất và có khả năng liên hệ giữa lý thuyết và thực tiễn.  
III. Nội dung mô đun:  
5
BÀI MỞ ĐẦU  
Ngành Thân mềm (Mollusca, còn gọi là nhuyễn thể hay thân nhuyễn) là  
một ngành trong phân loại sinh học có các đặc điểm như cơ thể mềm, có thể có  
vỏ đá vôi che chở và nâng đỡ, tùy lối sống mà vỏ và cấu tạo cơ thể có thể thay  
đổi. Ngành Thân mềm có nhiều chủng loại rất đa dạng, phong phú và là nhóm  
động vật biển lớn nhất chiếm khoảng 23% tổng số các sinh vật biển đã được đặt  
tên. Trong các khu vực nhiệt đới, bao gồm Việt Nam, ngành này có hơn 90  
nghìn loài hiện hữu, trong đó có các loài như trai, sò, ốc, hến, ngao, mực, bạch  
tuộc. Chúng phân bố ở các môi trường như biển, sông, suối, ao, hồ và nước lợ.  
Một số sống trên cạn. Một số nhỏ chuyển qua lối sống chui rúc, đục ruỗng các  
vỏ gỗ của tàu thuyền như con hà. Có độ đa dạng cao, không chỉ về kích thước  
mà còn về cấu trúc giải phẫu học, bên cạnh sự đa dạng về ứng xử và môi trường  
sống. Ngành này được chia thành 9 hoặc 10 lớp, trong đó 2 lớp tuyệt chủng hoàn  
toàn. Cephalopoda như mực, cuttlefish bạch tuộc là các nhóm có thần kinh  
cao cấp trong tất cả các loài động vật không xương sống, và mực khổng  
lồ hay mực ống khổng lồ là những loài động vật không xương sống lớn nhất đã  
được biết đến. Năm 1877, người ta đã phát hiện xác củ oài này dạt vào ven  
bờ Đại Tây Dương, nó dài 18m (kể cả tua miệng), cả cơ thể nặng khoản một  
tấn. Động vật chân bụng (ốc sên ốc) là nhóm có số loài nhiều nhất đã được  
phân loại, chúng chiếm khoảng 80% trong tổng số loài động vật thân mềm.  
Nghiên cứu khoa học về động vật thân mềm được gọi là nhuyễn thể  
học (Malacology).[2]  
Sự đa dạng của ngành thân mềm  
Trước khi đi tìm hiểu những đặc điểm chung và vai trò của ngành thân mềm.  
Hãy cùng bài viết xem qua những thông tin cơ bản về ngành thân mềm. Ngành  
thân mềm có số loài rất lớn, khoảng 70 nghìn loài rất đa dạng và phong phú ở  
vùng nhiệt đới. Chúng sinh sống ờ biển, sông, suối, ao, hồ và vùng nước lợ. Một  
số loài thì sống trên cạn, số lượng nhỏ và chuyển sang lối sống chui rúc, đục  
ruỗng trong các vỏ của tàu thuyền như con hà.  
Ngành thân mềm hay còn được gọi là nhuyễn thể hay thân nhuyễn, tên trong  
khoa học là Mollusca. Đây là một ngành trong phân loại sinh học có những đặc  
điểm như cơ thể mềm, có thể có vỏ đá vôi nâng đỡ và che chở. Tùy thuộc vào  
lối sống mà vỏ và cấu tạo của cơ thể sẽ có những thay đổi.  
Ngành Thân mềm có nhiều chủng loại vô cùng đa dạng và phong phú. Đây là  
nhóm động vật biển lớn, chiếm khoảng 23% tổng số các sinh vật biển được đặt  
tên. Trong các khu vực nhiệt đới bao gồm cả Việt Nam, thì ngành này có hơn 90  
nghìn loài đang hiện hữu như trai, sò, ốc, hến, ngao, mực, bạch tuộc.  
Phân bổ của ngành thân mềm  
6
Các loài được phân bố ở những môi trường như biển, sông, suối, ao, hồ và nước  
lợ. Một số thì sống trên cạn và một số lượng nhỏ thì chuyển qua lối sống chui  
rúc, đục ruỗng vỏ gỗ của tàu thuyền như con hà.  
Ngành thân mềm có sự đa dạng không chỉ về kích thước, mà còn về cấu trúc giải  
phẫu học bên cạnh sự đa dạng về ứng xử hay môi trường sống. Ngành này được  
phân chia thành 9 hoặc 10 lớp, trong đó có 2 lớp đã tuyệt chủng hoàn toàn. Sự  
đa dạng là vậy, nhưng những đặc điểm chung và vai trò của ngành thân mềm  
cũng khá giống nhau.  
Như mực và bạch tuộc là những nhóm có hệ thần kinh cao cấp nhất trong tất cả  
các loài động vật không xương sống. Và mực khổng lồ hay mực ống khổng lồ là  
các loài động vật không xương sống lớn nhất được biết đến.  
Động vật chân bụng như ốc sên và ốc, là một nhóm có số lượng loài nhiều nhất  
đã được phân loại. Nhóm này chiếm khoảng 80% trong tổng số loài động vật  
thân mềm. Những nghiên cứu khoa học về động vật thân mềm được gọi là  
nhuyễn thể học.  
Động vật thân mềm nước ngọt và trên đất liền thuộc vào nhóm dễ bị tổn thương.  
Những ước tính về số loài động vật thân mềm không sống trong biển một phần  
là do nhiều khu vực không được khảo sát một cách kỹ lưỡng.  
Ngành thân mềm trong sách đỏ  
Ngoài ra, còn có sự thiếu hụt, các chuyên gia có thể xác định được tất cả các loài  
động vật trong bất kỳ khu vực nào đến cấp loài. Vào năm 2004, Sách đỏ IUCN  
về những loài động vật bị đe dọa, thì có gần 2.000 loài động vật thân mềm sinh  
sống trong môi trường nước ngọt và đất liền bị đe dọa.  
Phần lớn những loài động vật thân mềm sống trong biển, thì chỉ có 41 loài trong  
số này có mặt trong Sách Đỏ năm 2004. Có khoảng 42% các loài đã tuyệt chủng  
được ghi nhận là động vật thân mềm, bao gồm gần như toàn bộ những loài  
không sống trong môi trường biển. Vậy những đặc điểm chung và vai trò của  
ngành thân mềm là gì?  
Lợi ích của ngành thân mềm là gì?  
Hầu hết tất cả những loài thân mềm đều có những đặc điểm chung cùng vai trò  
của ngành thân mềm trong đời sống như:  
Làm thức ăn cho người như: mực, ngao, sò, ốc, hến…  
7
Làm thức ăn cho động vật khác như: ốc, ấu trùng của thân mềm.  
Làm đồ trang trí như: ngọc trai  
Làm sạch môi trường như: trai, vẹm, hàu.  
Có giá trị xuất khẩu như: bào ngư, sò huyết.  
Có giá trị về mặt địa chất như: hóa thạch các loài ốc, vỏ sò.  
Tác hại của ngành thân mềm là gì?  
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích thì ngành thân mềm cũng có một số tác hại  
như:  
Ngành thân mềm có hại cho cây trồng: ốc bươu vàng.  
Bên cạnh đó còn làm vật chủ trung gian truyền bệnh giun sán: ốc đĩa, ốc  
tai, ốc mút.  
8
Bài 1: Đặc điểm sinh học chủ yếu của động vật thân mềm  
Mục tiêu:  
- Hiểu được đặc điểm sinh học chủ yếu: hình thái, dinh dưỡng, phân bố,  
sinh trưởng và sinh sản của động vật thân mềm.  
- Có khả năng vận dụng từ đặc điểm sinh học vào kỹ thuật sản xuất giống  
và nuôi động vật thân mềm  
Nội dung:  
1. Đặc điểm hình thái cấu tạo  
Đặc điểm chung và vai trò của ngành thân mềm là gì? Ngành thân mềm có  
số lượng loài rất lớn, khác nhau về kích thước, môi trường và tập tính. Tuy sự  
thích nghi rộng như vậy, nhưng về cấu tạo cơ thể thân mềm vẫn có những đặc  
điểm chung.  
Một số loài đại diện như trai, nghêu, hến, ốc sên, ốc hương, ốc vặn, mực  
ống, bạch tuộc. Ngành thân mềm có số loài vô cùng đa dạng và phong phú ở khu  
vực nhiệt đới. Chúng thường sinh sống ở biển, sông, suối, ao, hồ và nước lợ, còn  
một số thì sống trên cạn. Đây cũng là một trong những đặc điểm chung và vai  
trò của ngành thân mềm.  
Những tập tính của ngành thân mềm như hệ thần kinh phát triển và tập  
trung hơn Giun đốt. Hạch não của chúng cũng rất phát triển. Mực có ―hộp sọ‖  
bảo vệ não là hiện tượng đặc biệt, duy nhất có ở động vật không xương sống. Hệ  
thần kinh phát triển là cơ sở cho những giác quan và tập tính phát triển.  
Kết luận về đặc điểm của ngành thân mềm:  
Thân mềm, không phân đốt  
Có vỏ đá vôi, có khoang áo  
Hệ tiêu hóa phân hóa  
Cơ quan di chuyển thường đơn giản  
Riêng mực và bạch tuộc dễ dàng thích nghi với lối sống săn mồi và di  
chuyển tích cực. Nên vỏ tiêu giảm và cơ quan di chuyển phát triển.  
9
Hình 1:Sơ đồ cấu tạo chung của đại diện thân mềm  
2.2. Đặc điểm phân bố, sinh trưởng và dinh dưỡng  
Bảng phân loại này gồm có 8 lớp thân mềm hiện hữu và 2 lớp đã tuyệt chủng.  
Số loài  
Lớp  
Hình thái đặc trưng  
hiện  
hữu  
Phân bố  
Những loài thân mềm dạng  
giun (Các loài thuộc nhóm  
này không có chân và cũng  
không có rãnh bụng. Tất cả  
các loài đều có một lưỡi  
sừng và một đôi mang lược,  
sống hoan toàn ở biển vùi  
mình trong đáy bùn).  
200 đến  
3.000m dưới  
đáy biển  
120  
200 đến  
3.000m dưới  
đáy biển  
Aplacophora (Không  
vỏ)  
Solenogasters, những loài  
thân mềm dạng giun  
200  
vùng đá thuỷ  
1,000 triều và đáy  
Polyplacophora (Nhiều  
tấm vỏ)  
Ốc song kinh (chitons)  
biển  
1.800 đến  
7.000m dưới  
đáy biển, có  
một tấm)  
Dạng ốc nón (limpet-like)  
31  
10  
loài ở độ sâu  
200m  
Gastropoda (Chân  
bụng)  
Biển, nước  
ngọt, trên cạn  
70,000  
Cephalopoda (Chân  
đầu)  
900  
Biển  
Biển, nước  
ngọt  
Bivalvia (Vỏ 2 tấm)  
Ốc ngà voi  
20,000  
Sống ở biển  
độ sâu từ 6m  
đến 7.000m  
500  
Hoá thạch; dạng vỏ 2 tấm  
Biển  
Biển  
Hoá thạch; dạng ốc (snail-  
like)  
đã tuyệt  
chủng  
Ước tính số loài còn sống đã miêu tả được chấp nhận trong nhóm động vật  
thân mềm dao động từ 50.000 đến tối đa 120.000.[1] Năm 1969 David Nicol đưa  
ra con số phỏng đoán 107.000 trong đó có khoảng 12.000 loài chân bụng nước  
ngọt và 35.000 loài trên cạn. Động vật hai mảnh vỏ (Bivalvia) có thể chiếm  
khoảng 14% tổng số và 5 nhóm khác chiếm ít hơn 2% trong số các loài động vật  
thân mềm còn sinh tồn.[4] Năm 2009, Chapman ước tính số loài còn sinh tồn đã  
được miêu tả là 85.000.[1] Haszprunar năm 2001 ước tính khoảng 93.000 loài đã  
được đặt tên, trong đó gồm 23% các loài ở biển đã được đặt tên.[5] Động vật thân  
mềm là nhóm xếp thứ 2 sau arthropoda (chân khờp) về số lượng loài còn sinh  
tồn[3]chúng cách rất xa so với arthropoda là 1.113.000, nhưng dẫn  
trước chordata với 52.000.[6] Có khoảng 200.000 loài còn sinh tồn theo ước tính  
trên tổng số,[1][7] and 70,000 loài hóa thạch, mặc dù số loài tổng cộng của động  
vật thân mềm đã từng tồn tại, hoặc không được bảo tồn phải lớn hơn nhiều so  
với số lượng còn sinh tồn ngày nay.[8]  
11  
Động vật thân mềm có nhiều dạng hơn so với bất kỳ nhóm nào khác trong  
ngành động vật. Chúng bao gồm ốc sên, ốc và các loài động vật chân  
bụng; clam và các loài bivalve khác; mực và các loài cephalopoda khác; và các  
loài ít được biết đến hơn nhưng là nhưng phân nhóm riêng biệt có tính tương  
đồng. Phần lớn các loài vẫn sống trong các đại dương, từ vùng ven bờ đến vùng  
biển thẳm, nhưng một số là thành phần quan trọng trong các hệ sinh thái nước  
ngọt và trên cạn. Động vật thân mềm cực kỳ đa dạng trong các vùng nhiệt đới và  
ôn đới, nhưng cũng có thể được tìm thấy ở tất cả các vĩ độ. Khoảng 80% trong  
số các loài động vật thân mềm đã được biết đến là động vật chân  
bụng.[3] Cephalopoda như mực, bạch tuộc là những động vật có hệ thần kinh tiến  
bộ nhất trong nhóm các loài động vật không xương sống.[9] Mực khổng lồ, cho  
đến gần đây đã không được quan sát còn sinh tồn ở dạng cá thể trưởng  
thành,[10] là một trong những động vật không xương sống lớn nhất, nhưng mẫu  
vật được bắt gần đây của loài Mesonychoteuthis hamiltoni dài 10m và nặng  
500 kg có thể đã vượt qua loài mực khổng lồ.[11]  
Động vật thân mềm nước ngọt và trên đất liền thuộc nhóm dễ bị tổn  
thương. Những ước tính về số loài động vật thân mềm không sống trong biển thì  
nằm trong một khoảng rộng, một phần là do nhiều khu vực không được khảo sát  
kỹ lưỡng. Ngoài ra còn có sự thiếu hụt các chuyên gia có thể xác định tất cả các  
loài động vật trong bất kỳ một khu vực đến cấp loài. Tuy nhiên, năm 2004 Sách  
đỏ IUCN về các loài bị đe dọa bao gồm gần 2.000 loài động vật thân mềm sống  
trong môi trường nước ngọt và đất liền bị đe dọa. Để so sánh, phần lớn các loài  
động vật thân mềm sống trong biển, nhưng chỉ có 41 trong số này có mặt trong  
Sách Đỏ năm 2004. Khoảng 42% các loài đã tuyệt chủng được ghi nhận từ năm  
1500 là động vật thân mềm, bao gồm gần như toàn bộ các loài không sống trong  
biển.[12]  
2 3. Đặc điểm sinh sản  
Sinh sản: Nghiên cứu về sự sinh sản của động vật thân mềm có ý nghĩa rất  
lớn trong sản xuất, bởi lẽ muốn nuôi chúng ta phải có giống, muốn có giống thì  
phải có sự hiểu biết về sự sinh sản của chúng. Vấn đề sinh sản của động vật thân  
mềm rất phức tạp, thay đổi tuỳ theo chủng loại, hoàn cảnh cư trú và điều kiện  
sinh sản.  
+ Tuổi và mùa vụ sinh sản: Phần lớn các loài động vật thân mềm chỉ  
trưởng thành sau khi đã được một tuổi và sau đó mới có thể sinh sản được,  
nhưng sau khi tuyến sinh dục đã thành thục thì chúng có thể đẻ mãi cho tới khi  
chết, không bị hạn chế về tuổi tác. Mùa vụ sinh sản cũng khác nhau tùy loài và  
điều kiện sống, có loài tuyến sinh dục thành thục quanh năm, nhưng cũng có  
một số tuyến sinh dục chỉ thành thục trong những mùa nhất định, hoặc chỉ có thể  
đẻ được trong những mùa nhất định tuỳ theo điều kiện chung quanh. Phần lớn  
động vật thân mềm sinh sản vào mùa xuân, nhưng cũng có một số loài sinh sản  
vào mùa hè, mùa thu. Mùa sinh sản không chỉ phụ thuộc vào chu kỳ năm mà  
còn phụ thuộc vào nhiều chu kỳ khác nữa. Trong mỗi tháng, sinh sản thường  
mạnh vào những kỳ trăng non hay trăng tròn. Khi thủy triều lên mạnh, vì khi đó  
lưu tốc nước lớn thuận tiện cho việc phân tán trứng. Trong một ngày thời gian  
12  
sinh sản thường tiến hành vào sáng sớm hoặc chiều tối. Qua đó cho ta thấy, sinh  
sản của động vật thân mêm có quan hệ chặt chẽ với sự biến đổi của hoàn cảnh  
bên ngoài.  
+ Giới tính và sự biến tính: Ở động vật thân mềm ta có thể thấy phân tính,  
đực cái riêng rẽ; lưỡng tính, đực và cái ở cùng một con. Giữa hai loại này có  
những dạng trung gian. Đại đa số động vật thân mềm nguyên thuỷ đều phân  
tính. Việc phân biệt đực cái có thể dựa vào cơ quan sinh dục hoặc cơ quan giao  
cấu, hình dạng và kích cỡ khác nhau của con đực và con cái. Theo nhiều nhà  
nghiên cứu tỷ lệ cái thường lớn hơn đực (chiếm 60%), tỷ lệ này thường thay đổi  
tù theo tuổi, có thể là do con cái sống lâu hơn. Theo quy luật chung, yếu tố đực  
thường thành thục trước rồi mới đến yếu tố cái. Sau đó hai yếu tố này lần lượt kế  
tiếp nhau xuất hiện ở cùng một cá thể tạo nên hiện tượng biến tính có chu kỳ, có  
khi yếu ố đực và cái xuất hiện riêng rẽ, có khi xuất hiện đồng thời, do đó ta có 3  
loại: con đực, con cái, con lưỡng tính. Hiện tượng biến tính xảy ra một cách có  
quy luật thể hiện ở tuổi và mùa, nghiên cứu quy luật biến tính này có ích cho  
nghề nuôi động vật thân mềm.  
+ Phương thức sinh sản: Phương thức sinh sản của động vật thân mềm rất  
phong phú. Có những loài tự thụ tinh, có những loại xử nữ sinh. Tuy nhiên, nhìn  
chung đều có sự phối hợp giữa yếu tố đực và cái. Hiện tượng giao phối giữa hai  
yếu tố đực cái có thể là thụ tinh trong hoặc thụ tinh ngoài. Thụ tinh ngoài là hình  
thức sinh sản của những loài không có cơ quan giao cấu, trứng chỉ được thụ tinh  
sau khi đẻ ra khỏi môi trường nước. Tuyến sinh dục của những loài này thường  
lớn và số lượng trứng nhiều. Thường thì con đực đẻ trước và sự có mặt của tinh  
trùng sẽ kích thích con cái đẻ trứng. Thụ tinh trong là hình thức sinh sản của các  
loài có cơ quan giao cấu như Cephalopoda.  
- Phát triển:  
+ Tế bào sinh dục: động vật thân mềm sinh sản hữu tính, nhờ sự phối hợp  
giữa tế bào sinh dục đực và tế bào sinh dục cái, tế bào sinh dục được  
tạo thành ở biểu bì tuyến sinh dục. Mỗi tế bào trứng mẹ, sau hai lần phân cắt chỉ  
có 1tế bào thành thục, mỗi tế bào tinh trùng mẹ cuối cùng lại tạo thành được 4  
tinh trùng, hình dạng của trứng rất biến đổi, đường kính trứng thường là 50-150  
micromet. Những con lưỡng tính, trứng và tinh trùng có thể thành thục cùng  
một lúc hoặc tinh trùng thành thục trước.  
+ Sự phân cắt trứng: Trứng sau khi thụ tinh tiến hành phân cắt. Lần thứ  
nhất tạo thành 2 tế bào, lần thứ hai thành 4 tế bào, lần thứ 3 thành 8 tế bào gồm  
có 4 cầu phân cắt bé ở cực động vật và 4 cầu phân cắt lớn ở cực thực vật. Lần  
thứ 4 thành 16 tế bào, lần phân cắt thứ 5 tạo thành 32 tế bào, lần thứ 6 thành 64  
tế bào. Khi trứng phân cắt tới một giai đoạn nhất định thì tạo thành phôi nang  
(hình cầu), trong là xoang rỗng gọi là xoang phôi nang. Một số loài do tính chất  
khác nhau nên đã hình thành cái gọi là phôi tang (Morula), không có xoang phôi  
và quá trình phát triển sau này mới có thể xuất hiện xoang rỗng. Trong các quá  
trình trên, phôi chỉ thay đổi về lượng một cách rất nhanh chóng; sau đó các tế  
bào có sự thay đổi vị trí, cách sắp xếp và phân hoá, và hình thành nguyên trường  
phôi. Khi mặt ngoài của phôi mọc các vòng tiêm mao thì phôi chuyển sang giai  
đoạn ấu trùng bánh xe (Trochophora) có cả các tiêm mao xoay tròn. Ấu trùng  
13  
bánh xe phát triển thành ấu trùng đĩa bơi (Veliger) có các vành tiêm mao dùng  
để chuyển động. Trải qua một giai đoạn sống phù du, ấu trùng đĩa bơi sẽ biến  
thành thành trùng.  
+ Ấu trùng: Ở ngành động vật thân mềm, những chủng loại không sống  
dưới nước hoặc phôi đã được cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng thì chúng không  
phải trải qua giai đoạn có tiêm mao (chân bụng ở cạn) và phát triển rất xa, gần  
giống như thành trùng (Cephalopoda). Còn phần lớn các loài sống ở nước sau  
giai đoạn nguyên trường phôi, chất dinh dưỡng trong trứng đã bị tiêu hao, ấu  
trùng cần phải kiêm mồi nên sinh ra các tiêm mao để vận động. Sự phát triển  
phôi qua giai đoạn ấu trùng bánh xe khiến ta nghĩ rằng động vật thân mềm có tổ  
tiên gần giống giun đốt (Annaelida). Còn sự phát triển qua giai đoạn ấu trùng  
Veliger là ấu trùng đặc biệt của động vật thân mềm.  
14  
Bài 2: Sản xuất giống động vật thân mềm  
Mục tiêu:  
- Hiểu được yêu cầu về công trình, thiết bị phục cụ cho sản xuất giống  
động vật thân mềm hai mảnh vỏ;  
- Hiểu được yêu cầu và ảnh hưởng của chất lượng bố mẹ, kỹ thuật cho  
đẻ, ương nuôi ấu trùng quyết định đến chất lượng con giống;  
- Xác định được các tiêu chí hoặc chỉ tiêu kỹ thuật tuyển chọn, nuôi bố  
mẹ, cho đẻ, ương ấu trùng.  
Nội dung:  
1. Hệ thống công trình, thiết bị phục vụ cho sản xuất giống  
1.1 Hệ thống bể  
Trong trại sản xuất giống nhuyễn thể (hàu Thái Bình Dương ) cần phải có  
một số loại bể xi măng như sau: bể chứa nước, bể lắng, bể lọc, bể ấp trứng và  
ương ấu trùng, bể nuôi tảo, bể xử lý nước thải…  
- Bể chứa nước:  
Bể chứa nước là bể dùng để chứa nước ngọt hoặc nước mặn khi được cấp  
từ nguồn vào trước khi đưa vào bể lọc.  
Tại bể chứa, nước được xử lý ban đầu hay gọi là xử lý thô trước khi đưa  
vào bể lọc nên nhiều nơi gọi là bể chứa và xử lý nước.  
Bể thường có dạng hình chữ nhật hoặc hình vuông, thường được chia  
thành 2- 3 ngăn để tiện cho việc xử lý.  
Thể tích của bể tùy vào qui mô sản xuất mà sử dụng bể chứa có thể tích  
khác nhau. Thông thường bể chứa nước biển có thể tích khoảng 40 – 45m3.  
Bể chứa phải được thiết kế cao hơn bể ương để dễ thực hiện việc cấp  
nước.  
Hình 1.4.2: Bể chứa nước  
- Bể lắng:  
15  
Bể lắng là công trình xây dựng kiểm soát nước được thiết kế đặc biệt để  
nâng cao chất lượng nước bằng cách loại bỏ những vật chất vô cơ, chẳng hạn  
như bùn, cát mịn của nước biển.  
Quá trình lắng thu được nhờ giảm vận tốc nước chảy vừa đủ cho phép  
những hạt đất sa lắng.  
Bể lắng có thể dùng bể hình vuông hay hình chữ nhật.  
Thể tích 20- 30m3, cao khoảng 1- 1,5m.  
- Bể lọc:  
Nước sau khi để lắng phải được lọc bỏ các thành phẩn độc hại rồi mới đưa  
vào sử dụng. Có thể dùng một trong 02 loại bể lọc: bể lọc cơ học hoặc bể lọc  
sinh học.  
+ Bể lọc cơ học: gồm có bể lọc trước bể chứa (thể tích khoảng 2m3, cao  
1,2- 1,5m) và bể lọc trong bể chứa (thể tích khoảng 0,5m3, cao khoảng 0,5m).  
Các thành phần vật liệu trong bể lọc được sắp xếp từ trên xuống dưới  
thành 5 lớp theo thức tự (từ 1 đến 5) như sau:  
Lớp thứ 5 là lớp lưới nilon  
Lớp thứ 4 là tầng đá lớn (kích thước khoảng 5- 20cm), dày khoảng 15cm  
Lớp thứ 3 là tầng đá nhỏ (kích thước khoảng 1 2cm), dày khoảng 20cm  
Lớp thứ 2 là tầng cát xây, dày khoảng 10cm.  
Lớp thứ 1 là tầng cát mịn, dày khoảng 30 – 40cm  
Giữa các lớp nên lót một lớp nilon  
+ Bể lọc sinh học: lọc sinh học là dùng các vi sinh vật (như Nitrosomonas  
Nitrobacter) để phân hủy các hợp chất độc hại có chứa Nitơ thành các chất  
vô hại.  
Bể lọc sinh học có dung tích khoảng 40m3, ngăn chứa san hô khoảng 5m3.  
Dùng nguyên liệu lọc là đá chiếm 5- 6% dung tích xử lý nước), kích thước 3-  
5cm, xếp thành lớp dày khoảng 0,5m.  
16  
Hình 1.4.3: Bể lọc nước  
- Bể ấp trứng và ương ấu trùng:  
Hình dạng của bể: có thể dùng bể hình chữ nhật, bể vuông bằng hay bể  
tròn đáy phẳng , bể tròn đáy hình chóp cụt làm bằng chất dẻo.  
Mỗi loại bể đều có ưu và nhược điểm riêng, tùy theo điều kiện và trình độ  
kỹ thuật mà chọn loại phù hợp.  
Thể tích của bể có thể tích từ 1- 6m3, cao khoảng 1- 1,2m.  
Màu sắc của thành trong bể cũng ảnh hưởng đến ấu trùng, do vậy cần phải  
sơn màu cho thích hợp.  
Với bể xi măng, có thể giữ nguyên màu xi măng hoặc sơn màu xanh nhạt.  
Với bể composite, sơn màu xanh nhạt hoặc xanh đậm.  
Theo kinh nghiệm của nhiều người thì bên trong bể có màu tối sẽ tốt cho  
ấu trùng hơn là màu sáng.  
17  
Hình 1.4.4: Bể ương ấu trùng  
Bể nuôi tảo:  
Mỗi bể nuôi tảo thường có thể tích 1m3, cao khoảng 0,7m, chứa khoảng  
60 lít tảo giống. Tổng thể tích bể nuôi tảo bằng khoảng 1/10 tổng thể tích bể  
ương nuôi ấu trùng.  
Bể phải được đặt nơi có nhiều ánh sáng, mặt trong bể nên sơn màu trắng.  
- Bể xử lý nước thải:  
Bể xử lý nước thải nên xây dựng cách xa trại sản xuất giống để đảm bảo  
vệ sinh. Bể có thể tích khoảng 5m3.  
1.2 xây dng hthng xử lý nước thi  
Nước thải của các cơ sở sản xuất giống thủy sản nói chung và sản xuất  
giống hàu Thái Bình Dương nói riêng trước khi thải ra môi trường bên ngoài  
phải được xử lý đạt TCVN 6986:2001.  
Nước thải sinh hoạt phải được xử lý theo quy định đạt TCVN 6772:2000.  
Các chất thải rắn và chất thải hữu cơ trong sản xuất và sinh hoạt phải  
được thu gom, phân loại trong các thùng chứa đảm bảo an toàn, đặt ở vị trí quy  
định, thuận tiện cho các hoạt động xử lý, không gây ô nhiểm môi trường và ảnh  
hưởng xấu đến nguồn nước.  
Bể xử lý nước thải phải có nắp đậy và đặt cách xa khu sản xuất hoặc  
nguồn nước ngầm để tránh lây nhiễm chéo.  
Hệ thống đường ống dẫn nước thải đến nơi xử lý phải kín, có độ dốc nhất  
định, thoát nước tốt, dễ làm vệ sinh, không gây mùi khó chịu và ô nhiễm môi  
trường.  
Hệ thống bể xử lý và cống thoát nước thải được thiết kế phù hợp với công  
suất hoạt động của các cơ sở sản xuất.  
18  
Hình 1.4.10: Hố gom nước thải  
1.3 Hệ thống sục khí  
1.3.1 Giới thiệu  
- Theo tiêu chuẩn ngành thủy sản Việt Nam về cơ sở sản xuất giống, các  
hạng mục trang thiết bị liên quan đến hệ thống sục khí của một trại sản xuất  
giống bao gồm:  
Bảng 1.6.1. Các hạng mục của hệ thống cung cấp khí cho trại sản xuất giống  
TT  
Hạng mục  
Quy cách  
0,3kg/cm2  
Đơn vị  
Số lượng  
1 Máy thổi khí  
Máy  
1
Lưu lượng  
2 Máy sục khí  
Máy  
m
2
2,15/cm3/phút  
Ống dẫn khí trục  
Nhựa cứng,  
F48-60mm  
3
4
Không có định  
Không cố định  
chính  
Ống dẫn khí nhánh  
đến bể  
Nhựa cứng,  
F34-42mm  
m
Ống phân phối khí  
trong bể  
Nhựa mềm,  
F5mm  
5
6
m
Không cố định  
Không cố định  
Cái  
Van điều chỉnh khí  
Bằng nhựa,  
19  
ống nhánh  
F34-42mm  
Van phân phối khí  
trong bể  
Bằng nhựa,  
F5mm  
7
Cái  
Không cố định  
Không cố định  
8 Đá sục khí  
F15mm  
Viên  
- Dựa theo tiêu chuẩn cần cung cấp khí của hệ thống trại sản xuất giống  
để tiến hành vẽ sơ đồ hệ thống sục khí cho trại sản xuất giống như sau:  
+ Vẽ tổng thể hệ thống dây dẫn khí của toàn bộ trại.  
+ Xác định vị trí đặt máy sục khí, nén khí.  
+ Ghi chú qui cỡ, kích thước máy sục khí, nén khí, dây dẫn khí, đá bọt....  
1.3.2. Lắp đặt  
- Hệ thống sục khí là một phần quan trọng và cần thiết cho trại sản xuất  
hàu giống.  
Hệ thống sục khí bao gồm: hệ thống sục khí chính (máy thổi khí), hệ  
thống sục khí dự phòng (máy nén khí) và hệ thống ống dẫn.  
- Tiến hành lắp đặt hệ thống sục khí chính:  
+ Lắp máy thổi khí đúng vị trí nơi tiếp xúc với nguồn điện và thuận tiện  
lắp ống dây dẫn khí.  
+ Lắp ống dẫn khí:  
Cách bố trí ống dẫn khí  
Bước 1: Đặt ống dẫn chạy dọc  
hệ thống bể  
Bước 2: Lắp đặt hệ thống dây  
căng bạt (có tác dụng làm giá thể cho  
ống sục khí và để phủ bạt)  
Bước 3: Khoan từ 6 – 8 lỗ tại  
ống dẫn, khoảng cách giữa các lỗ từ  
50 60cm.  
Hình 1.6.7: Bố trí ống dẫn khí trong  
trại  
20  
Bước 4: Lắp đá bọt vào đầu  
ống dẫn khí thả xuống bể và tiến  
hành đấu nối dây sục khí vào ống dẫn  
khí  
Bước 5: Đấu nối ống dẫn từ  
máy sục khí vào ống dẫn khí  
Hình 1.6.8: Bố trí ống dẫn khí  
2. Tuyển chọn, nuôi động vật thân mềm hai mảnh vỏ bố mẹ và cho đẻ  
2.1. Tuyn chọn động vt thâm mm làm bmẹ  
2.1.1 Tuyn chn da vào mùa vsinh sn  
- Mùa vụ sinh sản dựa theo đặc điểm sinh học  
Hầu TBD là loài lưỡng tính, lúc mới sinh ra là đực, trong quá trình sống  
thì giới tính thay đổi phụ thuộc vào môi trường sống. Trong vùng thức ăn phong  
phú thì đàn hầu cái chiếm ưu thế. Khi môi trường nước có nguồn thức ăn nghèo  
về số lượng và thành phần loài thì chúng lại chuyển thành đực. Ở châu Âu, quá  
trình hình thành giao tử bắt đầu tại 10oC, độ mặn 15 - 32‰, sự hình thành giảm  
đi khi độ mặn cao hơn. Sự đẻ trứng diễn ra ở 18oC, đặc biệt ở Canada gặp  
trường hợp sinh sản ở 15oC.  
Trong mùa sinh sản, tuyến sinh dục phát triển mạnh, trọng lượng có thể  
đạt 50% trọng lượng cơ thể, hầu cái đẻ 50 - 200 triệu trứng/lần đẻ. Trứng có thể  
tồn tại trong nước 10 - 15h sau 3 - 4 tuần phát triển thành Spat. Cũng như loài  
hầu sông của Việt Nam, thời gian đầu, ấu trùng sống phù du trong cột nước, sau  
thời gian biến thái sẽ lắng đáy và bám vào vật bám. Lúc này kích thước ấu trùng  
đạt 300 - 330µm. Thời gian biến thái của hầu phụ thuộc vào nhiệt độ, thức ăn,  
độ mặn (FAO, 2003).  
Mùa vụ sinh sản rộ nhất của hàu Thái Bình Dương: miền bắc từ tháng 4  
đến tháng 7 và miền nam sinh sản quanh năm,  
Ở vùng nhiệt đới sau một năm hàu đã thành thục và tham gia sinh sản.  
Mùa vụ sinh sản xảy ra quanh năm nhưng tập trung từ tháng 4 - 6. Mùa vụ sinh  
sản ở vùng nhiệt đới thường ít tập trung và kéo dài hơn so với vùng ôn đới. Tác  
nhân chính kích thích đến quá trình thành thục và sinh sản của hàu là nhiệt độ,  
nồng độ muối và thức ăn có trong môi trường (Trương Quốc Phú, 1999).  
Theo Ngô Thị Thu Thảo et al. (2002), khi nghiên cứu mùa vụ sinh sản  
hàu Thái Bình Dương Crassostrea gigas được nuôi ở Vịnh Gosung, Hàn Quốc  
kết luận rằng mùa vụ sinh sản của hàu kéo dài tài giữa tháng 6 đến cuối tháng 9,  
đỉnh cao là tháng 6 và tháng 8. Sự phát triển của tuyến sinh dục hàu phụ thuộc  
21  
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 76 trang baolam 04/05/2022 10761
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Sản xuất giống và nuôi động vật thân mềm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_san_xuat_giong_va_nuoi_dong_vat_than_mem.pdf