Mối liên hệ giữa ứng phó với stress học tập, mức độ stress và kết quả học tập của sinh viên
Giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka lần 20 năm 2018
Kỷ yếu khoa học
MỐI LIÊN HỆ GIỮA ỨNG PHÓ VỚI STRESS HỌC TẬP, MỨC ĐỘ
STRESS VÀ KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
Nguyễn Ngọc Quang*, Nguyễn Linh Chi
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội
*Tác giả liên lạc: ngocquang0329@gmail.com
TÓM TẮT
Nghiên cứu này được tiến hành dựa trên mô hình lý thuyết tương tác về Stress
nhằm tìm hiểu về hệ quả của các chiến lược ứng phó của sinh viên khi đối mặt
với stress học tập thông qua hai biến số là mức độ stress và kết quả học tập của
sinh viên. Mẫu nghiên cứu thuận tiện gồm 157 sinh viên trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội với độ tuổi trung bình là
20.52, độ lệch chuẩn là 1.29, và nữ chiếm 77.70%. Kết quả nghiên cứu chỉ ra
rằng các chiến lược ứng phó điều hòa cảm xúc, chấp nhận, thay đổi nhận thức,
và suy nghĩ tích cực có tương quan nghịch có ý nghĩa thống kê với mức độ stress,
trong khi hai chiến lược ứng phó né tránh và mong ước có mối tương quan thuận
với mức độ stress của sinh viên. Đối với kết quả học tập, chiến lược ứng phó giải
quyết vấn đề có liên hệ tích cực đối với điểm số của sinh viên, trong khi chiến
lược ứng phó né tránh và mong ước làm giảm kết quả học tập.
Từ khóa: Stress trong học tập, ứng phó, lý thuyết tương tác về Stress.
THE RELATIONSHIP BETWEEN COPING WITH ACADEMIC
STRESS, PERCEIVED STRESS AND GPA AMONG
UNIVERSITY STUDENTSU
Nguyen Ngoc Quang*, Nguyen Linh Chi
University of Social Sciences and Humanities – VNU Ha Noi
*Corresponding Author: ngocquang0329@gmail.com
ABSTRACT
Drawing on Lazarus and Folkman’s transactional model of stress (1984), the
present study explores the consequences of the coping strategies with academic
stress through students’s stress level and GPA. Participants were 157 students of
University of Social Science and Humanities – VNU Ha Noi City (mean age =
20.52; standard deviation = 1.29; 77.70% female). Results showed that
emotional regulation, acceptance, cognitive restructuring, and positive thinking
have a statistically significant negative correlation with stress level, whereas
avoidance and wishful thinking have a positive correlation with stress level. A
positive correlation between problem solving and student’s GPA was observed,
while avoidance and wishful thinking were proven to reduce GPA.
Keywords: Academic stress, coping, the transactional model of stress.
từ 14 đến 25 (Nguyễn Hương Thanh,
TỔNG QUAN
Theo báo cáo chuyên đề về sức khỏe 2010). Nhiều nghiên cứu cũng đã cho
tâm thần của thanh thiếu niên Việt thấy ngoài những vấn đề liên quan đến
Nam, áp lực trong học tập là một trong tài chính, rắc rối trong các mối quan hệ
những nguyên nhân dẫn tới tình trạng liên cá nhân, điều kiện môi trường sống
stress ở thanh thiếu niên trong độ tuổi không thuận lợi, thì các khó khăn trong
296
Giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka lần 20 năm 2018
Kỷ yếu khoa học
học tập cũng là một nguồn gây stress nghiên cứu, kết quả nghiên cứu của
chủ yếu cho sinh viên (Nguyễn Hữu Sasaki và Yamasaki (2007), và Siu và
Thụ, 2009; O’Reilly và c.s., 2014; Vũ Chang (2011) chỉ ra ứng phó bằng cách
Dũng, 2015).
tìm kiếm chỗ dựa xã hội có mối tương
Cách mà sinh viên ứng phó với những quan thuận có ꢀ nghĩa thống kê với
vấn đề gây stress nói chung, stress mức độ stress. Ngoài sự khác biệt về
trong học tập nói riêng đóng vai trò rất đặc điểm tình huống và sự thẩm định
quan trọng bởi nó có thể đem lại những nhận thức của cá nhân, thì yếu tố có
hệ quả tiêu cực đối với sức khỏe thể khả năng ảnh hưởng đến mối liên hệ
chất, sức khỏe tinh thần và hiệu quả giữa các chiến lược ứng phó với các hệ
học tập của sinh viên. Kết quả của quả về tâm lꢀ, sinh lꢀ và hành vi đó là
nhiều nghiên cứu cho thấy các chiến sự phối hợp giữa các chiến lược ứng
lược ứng phó chủ động, lên kế hoạch, phó. Frydenberg và c.s. (2004) chỉ ra
giải quyết vấn đề, tìm kiếm chỗ dựa xã rằng ứng phó tập trung vào vấn đề
hội về mặt phương tiện và cảm xúc, không phải lúc nào cũng có khả năng
suy nghĩ tích cực, và thay đổi nhận dự báo về kết quả học tập nếu chưa loại
thức thường liên hệ với những biểu bỏ ảnh hưởng của ứng phó tập trung
hiện tích cực, trong khi các chiến lược vào cảm xúc.
tự đổ lỗi, tự cô lập, né tránh hay chối Sự thiếu nhất quán giữa các kết quả
bỏ lại có liên quan tới những biểu hiện trên đây đòi hỏi cần có thêm các nghiên
tiêu cực về sinh lý, tâm lý, và hành vi. cứu để khẳng định được mối quan hệ
Cụ thể, một số nghiên cứu chỉ ra rằng giữa các chiến lược ứng phó với các
những sinh viên có chiến lược ứng phó biến số được coi là hệ quả của quá trình
chủ động và tích cực thì có mức độ cá nhân tương tác với môi trường nhằm
stress thấp hơn (Coiro, Bettis & làm giảm mức độ stress. Tuy nhiên, số
Compas, 2017), ít lo âu hơn (Renk & lượng các nghiên cứu về chủ đề này tại
Eskola, 2007), khả năng thích ứng với Việt Nam vẫn còn hạn chế, và các
môi trường cao hơn (Leong, Bonz, & nghiên cứu trước đây cũng gặp phải
Zachar, 1997), và sức khỏe thể chất tốt một số hạn chế về nền tảng lý thuyết và
hơn (Park & Adler, 2003). Ngược lại, công cụ đo lường.
những cách ứng phó thiếu thích ứng Nghiên cứu này được tiến hành dựa
với stress trong học tập của sinh viên trên Lý thuyết Tương tác về Stress của
có mối liên hệ với kết quả học tập giảm Lazarus & Folkman (1984) nhằm tìm
sút (Struthers, Perry, & Menec, 2000), hiểu về hệ quả của các chiến lược ứng
trầm cảm (Aktekin và c.s., 2001), lo âu phó của sinh viên khi đối mặt với stress
(Renk & Eskola, 2007), rối loạn ăn học tập. Theo lý thuyết này, khi cá
uống (Wichianson và c.s., 2009), hay nhân thẩm định nhận thức sơ cấp một
sử dụng đồ uống có cồn (Pritchard, sự kiện hay một tình huống là nguy
Wilson, & Yamnitz, 2007). Tuy nhiên, hiểm (tổn hại/mất mát, đe dọa, hay
hiệu quả của các chiến lược ứng phó thách thức) và thẩm định nhận thức thứ
không phải là cố định trong mọi tình cấp rằng bản thân không có đủ nguồn
huống và mọi thời điểm. Nghiên cứu lực để có thể đối phó với những tình
của Carver và Scheier (1994) cho thấy huống đó thì ở cá nhân sẽ xuất hiện
sinh viên càng nỗ lực giải quyết vấn đề những phản ứng stress về mặt sinh lý,
sau khi nhận được kết quả học tập tâm lý và hành vi. Trong trạng thái đó,
không như mong muốn thì mức độ lo ứng phó chính là nỗ lực liên tục thay
âu càng cao hơn. Trái ngược với nhiều đổi về mặt nhận thức và hành vi của cá
297
Giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka lần 20 năm 2018
Kỷ yếu khoa học
nhân để đáp ứng những đòi hỏi từ môi câu hỏi được chia đều thành 10 tiểu
trường xung quanh. Những thay đổi thang, mỗi tiểu thang 3 câu hỏi, tương
này có thể tác động vào sự kiện hay ứng với 10 chiến lược ứng phó bao
tình huống gây stress, vào quá trình gồm giải quyết vấn đề, điều hòa cảm
thẩm định nhận thức, từ đó làm giảm xúc, bộc lộ cảm xúc, chấp nhận, xao
những phản ứng stress. Mặc dù vậy, nhãng, thay đổi nhận thức, suy nghĩ
trong một số trường hợp, viêc ứng phó tích cực, chối bỏ, né tránh, mong ước.
của cá nhân cũng có thể làm cho vấn Độ nhất quán bên trong của toàn thang
đề trở nên trầm trọng hơn và làm tăng đo theo chỉ số Cronbach’s Alpha là .79.
mức độ của các phản ứng stress.
Thang đo về mức độ Stress tri giác
được (Perceived Stress Scale;
S.Cohen, Kamarck, & Mermelstein,
1983) bao gồm 10 câu hỏi được sử
dụng nhằm đo lường mức độ stress của
MẪU NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
Mꢀu nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu là mẫu thuận tiện bao sinh viên trong hai tuần sau học kỳ thứ
gồm 157 khách thể là sinh viên trường nhất qua việc đánh giá mức độ thường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, xuyên có những cảm nhận như “Không
Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong đó, nữ thể kiểm sóa t được những thứ quan
chiếm 77.7% và độ tuổi trung bình của trọng trong cuộc đời mình”, “Không
các khách thể là 20.52 với độ lệch thể giải quyết hết những việc mà mình
chuẩn là 1.29. Sinh viên năm thứ nhất phải làm” hay “Cảm thấy những khó
chiếm 31.85%, sinh viên năm thứ hai khăn đã chồng chất đến mức mà bản
chiếm 23.57%, và sinh viên năm thứ ba thân không thể vượt qua được”. Độ
chiếm 26.11%.
Khách thể tham gia nghiên cứu bằng chỉ số Cronbach’s Alpha là .86.
cách trả lời bảng hỏi nghiên cứu thông
nhất quán bên trong của thang đo theo
Phân tích thống kê số liệu
qua thư điện tử hoặc bảng hỏi được Dữ liệu định lượng thu được từ điều tra
phát trực tiếp, một cách tự nguyện và bảng hỏi được phân tích thông qua các
không được trả phí.
Phương pháp nghiên cứu
phép thống kê (mô tả tần số, tần suất,
điểm trung bình, độ lệch chuẩn; độ
Nghiên cứu sử dụng bảng hỏi bao gồm nhất quán bên trong; One-way
một số câu hỏi về nhân khẩu, một câu ANOVA, Independent Samples T-
hỏi về kết quả học tập (là điểm trung Test, và tương quan) bởi phần mêm
bình chung học kỳ vừa qua), 30 câu hỏi IBM SPSS 23.
về ứng phó thuộc Bộ Câu Hỏi Về Các
Phản Ứng Với Stress (Responses to
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Stress Questionaire; ConnorSmith và Bảng 1 trình bày tương quan giữa các
c.s., 2000) và Thang Về Mức Độ Stress chiến lược ứng phó và mức độ stress và
Tri Giác Được (Perceived Stress Scale; kết quả học tập. Phân tích tương quan
Cohen, Kamarck, & Mermelstein, cho thấy mức độ stress có tương quan
1983).
nghịch có ꢀ nghĩa thống kê ở mức độ
30 câu hỏi được trích ra từ Bộ Câu Hỏi yếu đối với các chiến lược ứng phó
Về Các Phản Ứng Với Stress điều hòa cảm xúc (r = -.16, p < .05),
(Responses to Stress Questionaire; chấp nhận (r = -.17, p < .05), thay đổi
Connor-Smith và c.s., 2000) được sử nhận thức (r = -.17, p < .05), và suy
dụng nhằm đo lường mức độ thường nghĩ tích cực (r = -.20, p < .05). Kết quả
xuyên sử dụng 30 cách ứng phó. Các này phù hợp với các nghiên cứu cho
298
Giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka lần 20 năm 2018
Kỷ yếu khoa học
thấy ứng phó tập trung vào cảm xúc không có liên hệ có ꢀ nghĩa thống kê
một cách tích cực là những chiến lược đối với mức độ stress. Kết quả này có
thích ứng (Brougham và c.s., 2009; thể bị ảnh hưởng một phần bởi mức độ
Crego và c.s., 2016; Dunkley và c.s., stress được đo lường là mức độ stress
2000; Kirkland, 1998). Tuy nhiên, chung thay vì stress trong học tập. Mặt
khác với nhiều nghiên cứu trước đây khác, không phải lúc nào sinh viên
(Coiro và c.s., 2017; Leong và c.s., cũng có thể giải quyết vấn đề một cách
1997; Shields, 2001), giải quyết vấn đề hiệu quả để từ đó làm giảm stress.
Bảng 1. Tương quan giữa các chiến lược ứng phó và mức độ stress và kết quả
học tập
GQVD DHCX BLCX CN SN TDNT SNTC CB NT
MU
Stress -.11
GPA .18*
-.16*
.15
-.13
.15
-
.05 -.17*
-.20*
.12
.04 .18* .55***
.17*
.16
-
.05
-
-
-.18*
.12
.14 .17*
Ghi chú. N = 157. GQVD = Giải quyết vấn đề; DHCX = Điều hòa cảm xúc; BLCX = Bộc
lộ cảm xúc; CN = Chấp nhận; SN = Sao nhãng; TDNT = Thay đổi nhận thức; SNTC =
Suy nghĩ tích cực; CB = Chối bỏ; NT = Né tránh; MU = Mong ước; Stress = Mức độ
stress; GPA = Kết quả học tập.
*p < .05, **p < .01, ***p < .001.
Trong khi đó, mong ước (r=.55, p < lâu dẫn tới tình huống hay vấn đề trở
.001) có tương quan thuận có ꢀ nghĩa nên nghiêm trọng không thể giải quyết
thống kê ở mức độ mạnh và né tránh được, có thể làm ảnh hưởng đến kết
(r=.18, p < .05) có tương quan thuận có quả học tập của sinh viên. Nhiều
ꢀ nghĩa thống kê ở mức độ yếu với mức nghiên cứu cũng chỉ ra rằng giữa các
độ stress. Kết quả này phần nào phù chiến lược ứng phó tập trung vào vấn
hợp với các nghiên cứu trước đây đề và kết quả học tập không có mối liên
(Coiro và c.s., 2017; Crego và c.s., hệ với nhau (DeBerard và c.s., 2004;
2016; Dunkley và c.s., 2000). Tuy Ryland và c.s., 1994).
nhiên, mối liên hệ của chối bỏ đối với Giả thuyết về mối tương quan nghịch
mức độ stress là trong nghiên cứu này của các chiến lược ứng phó tách khỏi
là chưa rõ ràng. Lꢀ do có thể là bởi vì đối với kết quả học tập được xác nhận
phần trăm sinh viên sử dụng chiến lược một phần. Cụ thể, tương tự với một số
này không đủ lớn để cho ra một kết quả nghiên cứu trước (Kim & Duda, 2003),
tương quan có ꢀ nghĩa thống kê.
chiến lược ứng phó né tránh (r = -.17,
Đối với kết quả học tập, chiến lược ứng p < .05) và mong ước (r = -.18, p <
phó giải quyết vấn đề (r = .18, p < .05) .001) làm giảm kết quả học tập của sinh
có liên hệ tích cực, tuy không lớn, đối viên.
với điểm số của sinh viên. Kết quả này Tuy nhiên, liên hệ có ꢀ nghĩa thống kê
phù hợp với nhiều nghiên cứu trước của chối bỏ với kết quả học tập chưa
đây (Cohen và c.s., 2008; Shields, được xác nhận thông qua kết quả của
2001; Struthers và c.s., 2000). Tuy nghiên cứu này. Các nghiên cứu trong
nhiên, mức độ liên hệ còn tùy thuộc tương lai cần tìm hiểu về tiến trình ứng
vào cách mà sinh viên sử dụng những phó với stress trong học tập ở sinh để
chiến lược ứng phó khác (Frydenberg làm rõ lý do vì sao chiến lược chối bỏ
và c.s., 2004). Chẳng hạn những sinh lại không có tương quan với kết quả
viên sử dụng chiến lược né tránh quá học tập.
299
Giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka lần 20 năm 2018
Kỷ yếu khoa học
tách khỏi cần được hạn chế, để tránh
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Dựa trên lý thuyết tương tác về Stress làm gia tăng mức độ stress cũng như
của Lazarus và Folkman (1984), làm giảm hiệu quả học tập ở sinh viên.
nghiên cứu đã tìm hiểu về hệ quả của Mặc dù đã cung cấp những thông tin
các chiến lược ứng phó của sinh viên ban đầu về hệ quả của các chiến lược
khi đối mặt với stress học tập thông ứng phó với stress trong học tập,
qua hai biến số là mức độ stress và kết nghiên cứu vẫn còn một số hạn chế.
quả học tập. Các chiến lược ứng phó Trước hết, các thang đo được sử dụng
điều hòa cảm xúc, chấp nhận, thay đổi trong nghiên cứu chưa được thích ứng.
nhận thức và suy nghĩ tích cực có liên Một số tiểu thang trong thang đo về các
hệ với mức độ stress thấp. Trong khi chiến lược ứng phó có độ tin cậy thấp.
đó, ứng phó né tránh và mong ước có Hạn chế này có thể làm giảm độ tin cậy
liên hệ với mức độ stress cao và kết quả của các kết quả nghiên cứu. Thứ hai,
học tập thấp ở sinh viên. Sinh viên hạn chế về số lượng khách thể và mức
thường ứng phó giải quyết vấn đề thì độ đồng đều giữa các khách thể phân
cũng có kết quả học tập cao hơn.
cũng làm giảm khả năng phân tích và
Những kết quả này đặt ra yêu cầu suy rộng ra tổng thể. Thứ ba, do có
không chỉ cho các nhà quản lý giáo thiết kế cắt ngang, nghiên cứu chưa tìm
dục, các nhà tâm lý học đường mà còn hiểu được quá trình ứng phó cụ thể của
cho khoa, trường, Đoàn Thanh niên, sinh viên khi đối mặt với các nguồn
Hội Sinh viên và các giảng viên phải gây stress trong học tập. Các nghiên
tiến hành các nghiên cứu tìm hiểu về cứu trong tương lai cần áp dụng mô
ứng phó với stress trong học tập ở sinh hình lý thuyết về stress trong nghiên
viên, để từ đó xây dựng được các cứu, sử dụng các thang đo đảm bảo độ
chương trình can thiệp nhằm giúp sinh tin cậy, và tiến hành trên một mẫu lớn,
viên ứng phó hiệu quả hơn trước các đa dạng về đặc điểm kinh tế xã hội.
tình huống hay vấn đề gây stress trong Ngoài ra, cần phải có thêm nhiều các
học tập. Cụ thể, các chiến lược ứng phó nghiên cứu theo chiều dọc để xem xét
gắn kết kiểm sóa t sơ cấp và thứ cấp tỏ sự biến đổi về chiến lược ứng phó của
ra là những chiến lược ứng phó thích sinh viên cũng như là hệ quả của nó
ứng, cần được tăng cường ở sinh viên. theo mỗi giai đoạn của quá trình tương
Ngược lại, những chiến lược ứng phó tác với nguồn gây stress trong học tập.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
BARKER, E. T., HOWARD, A. L., VILLEMAIRE-KRAJDEN, R., &
GALAMBOS, N. L. (2018). The rise and fall of depressive symptoms and
academic stress in two samples of university students. Journal of youth and
adolescence, 1–15.
CREGO, A., CARRILLO-DIAZ, M., ARMFIELD, J. M., & ROMERO, M.
(2016). Stress and academic performance in dental students: the role of
coping strategies and examinationrelated self-efficacy. Journal of Dental
Education, 80(2), 165–172.
NGUYỄN HƯƠNG THANH. (2010). Báo cáo chuyên đề sức khỏe tâm thần cả
vị thành niên và thanh niên Việt Nam. Hà Nội: Tổng cục Dân số - Kế hoạch
hóa gia đình.
300
Bạn đang xem tài liệu "Mối liên hệ giữa ứng phó với stress học tập, mức độ stress và kết quả học tập của sinh viên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- moi_lien_he_giua_ung_pho_voi_stress_hoc_tap_muc_do_stress_va.pdf