Một số đặc điểm của mạch lạc trong quan hệ lập luận ở văn bản nghị luận tiếng Việt

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA MẠCH LẠC TRONG QUAN HỆ  
LẬP LUẬN Ở VĂN BẢN NGHỊ LUẬN TIẾNG VIỆT  
Tống Thị Hường  
Khoa Ngữ văn - Khoa học xã hội  
Email: huongtt@dhhp.edu.vn  
Ngày nhận bài: 19/8/2019  
Ngày PB đánh giá: 19/9/2019  
Ngày duyệt đăng: 27/9/2019  
TÓM TẮT: Mạch lạc là yếu tố quan trọng quyết định chất văn bản của một văn bản. Bài viết này làm rõ  
biểu hiện mang tính đặc trưng của mạch lạc trong văn bản nghị luận là mạch lạc qua quan hệ lập luận ở  
một số phương diện là kiểu lập luận, đặc điểm của các thành phần lập luận và hiện tượng đa thanh.  
Từ khóa: mạch lạc, lập luận, văn bản nghị luận.  
SOME CHARACTERISTICS OF COHERENCE IN REASONING RELATION  
IN VIETNAMESE ARGUMENTATIVE WRITING  
ABSTRACT: Coherence is an important determinant of the text’s quality. In this article, we clarify the  
coherence characteristic manifestation in argumentative writing. Through reasoning relation in some  
aspects, coherence is a kind of argument. We also discuss the characteristics of argument components  
and the polyphonic phenomena in the article.  
Keywords: coherence, argument, argumentative writing.  
1. ĐẶT VẤN ĐỀ  
này quan tâm đến mạch lạc trong quan hệ  
lập luận được thể hiện ở những phương  
diện nổi bật là kiểu lập luận, đặc điểm của  
các thành phần lập luận và hiện tượng đa  
thanh trong 326 VBNL.  
Mạch lạc là “sự nối kết có tính chất  
hợp lí về mặt nghĩa và về mặt chức năng,  
được trình bày trong quá trình triển khai  
một văn bản (như một truyện kể, một cuộc  
thoại, một bài nói hay bài viết...) nhằm tạo  
ra những sự kiện nối kết với nhau hơn là  
sự liên kết câu với câu” [1, tr. 297]. Mạch  
lạc trong phân tích diễn ngôn được coi  
là vấn đề cốt yếu có vai trò quyết định  
“chất văn bản của văn bản” và nó được  
thể hiện qua nhiều phương diện khác  
nhau. Trong văn bản nghị luận (VBNL),  
mạch lạc qua quan hệ lập luận được coi  
là biểu hiện mang tính đặc trưng. Bài viết  
2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU  
2.1. Mạch lạc biểu hiện qua việc sử dụng  
kiểu lập luận phù hợp  
2.1.1. Lập luận theo logic hình thức của  
luận cứ và kết luận  
* Lập luận diễn dịch: Lập luận diễn  
dịch có 844/ 2.302 lập luận trong 326  
VBNL. Lập luận diễn dịch bao gồm cả  
tam đoạn luận.  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG  
66  
Ví dụ 1: Tiếng Việt có những đặc sắc  
của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay.  
Nói thế có nghĩa là nói rằng: tiếng Việt là  
một thứ tiếng hài hòa về mặt âm hưởng,  
thanh điệu mà cũng rất tế nhị, uyển  
chuyển trong cách đặt câu. Nói thế cũng  
có nghĩa là nói rằng: tiếng Việt có đầy đủ  
khả năng để diễn đạt tình cảm, tư tưởng  
của người Việt Nam và để thỏa mãn cho  
yêu cầu của đời sống văn hóa nước nhà  
qua các thời kì lịch sử. [6, SGK Ngữ văn  
7, tập 2, tr. 35]  
Đoạn này được trích trong văn bản Sự  
giàu đẹp của tiếng Việt của tác giả Đặng  
Thai Mai. Đoạn trích có ba câu, câu (1) là  
một nhận định - r, câu (2) và (3) là luận  
cứ - p1 và p2. Cụ thể như sau:  
R:Tiếng Việt là một ngôn ngữ đẹp và hay  
p2: Có đầy đủ khả năng để diễn đạt tư  
tưởng, tình cảm của người Việt và để  
thỏa mãn cho yêu cầu của đời sống  
văn hóa nước nhà.  
p1: Hài hòa về mặt âm hưởng,  
thanh điệu, tế nhị, uyển chuyển  
trong cách đặt câu.  
lời trách móc, khi cô đơn, khi tàn tạ, khi mong  
manh. Có thể nói thiên nhiên trong “Truyện  
Kiều” cũng là một nhân vật, một nhân vật vẫn  
thường kín đáo, lặng lẽ nhưng không mấy khi  
không có mặt và luôn thấm đượm tình người.  
[7, tập I, tr. 323]  
Lập luận theo lối diễn dịch (trình tự  
kết luận - luận cứ) thường phù hợp với  
những lập luận đơn giản có các luận  
cứ đồng hướng, với mục đích diễn giải,  
phân tích, chứng minh. Thêm nữa, tam  
đoạn luận cũng phải được trình bày  
theo cách diễn dịch.  
Các thành phần trong lập luận ở ví dụ  
(2) có trình tự p, q - r. Luận cứ p là Kiều  
không biết mấy lần nhìn trăng, luận cứ q:  
nhưng cảnh trăng cũng mỗi lần một khác  
(q cũng là một lập luận). Từ p và q ở câu  
đầu (hình ảnh trăng trong Truyện Kiều),  
Hoài Thanh khái quát và rút ra kết luận:  
thiên nhiên trong “Truyện Kiều” cũng là  
một nhân vật,.. . Lập luận này được hiểu  
cụ thể như sau:  
* Lập luận quy nạp: Trong ngữ liệu  
326 VBNL, có 982/2.302 lập luận quy  
nạp. Lập luận quy nạp dựa trên logic tự  
nhiên từ luận cứ đến kết luận, do đó kết  
luận rút ra mang sức thuyết phục. Vì thế, đây  
cũng là kiểu lập luận phổ biến trong VBNL.  
Ví dụ 2: Kiều không biết mấy lần nhìn  
trăng nhưng cảnh trăng cũng mỗi lần một  
khác: khi rạo rực yêu đương, khi gần gụi âu  
yếm, khi bát ngát bao la, khi ám ảnh như một  
p: Kiều không biết mấy lần nhìn trăng  
q1: khi rạo rực yêu đương  
q2: khi gần gụi âu yếm  
q3: khi bát ngát bao la  
q (r): Trăng mỗi  
lần một khác  
R:Thiên nhiên trong"Truyện  
Kiều” cũng là một nhân vật  
q4: khi ám ảnh ...  
q5: khi cô đơn  
q6: khi tàn tạ  
q 7 : k h i m o n g m a n h  
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020  
67  
Theo mô hình trên, các thành phần của  
lập luận được hình dung cụ thể về nội dung  
và vị trí. Từ luận cứ về hình ảnh trăng  
trong “Truyện Kiều” và các biểu hiện của  
nó qua ánh mắt nàng Kiều, mà thực ra là  
qua tâm trạng Kiều (khi rạo rực yêu đương,  
khi gần gụi âu yếm, khi bát ngát bao la,...)  
mà kết luận Hoài Thanh rút ra mang sức  
thuyết phục: thiên nhiên trong “Truyện  
Kiều” cũng là một nhân vật, một nhân vật  
vẫn thường kín đáo, lặng lẽ nhưng không  
mấy khi không có mặt và luôn thấm đượm  
tình người.  
Trong lập luận này, kết luận được  
Phạm Văn Đồng hướng tới là: Nguyễn  
Trãi là người đầu đội trời Việt Nam, chân  
đạp đất Việt Nam, tâm hồn lộng gió của  
thời đại lúc bấy giờ, suốt đời tận tụy cho  
một lí tưởng cao quý. Để đi tới kết luận  
này, tác giả không đi theo lối thông thường  
là lấy dẫn chứng trong thơ văn và cuộc đời  
Nguyễn Trãi mà bằng cách đưa ra một ý  
kiến trái ngược. Dĩ nhiên, ý kiến này hoàn  
toàn có cơ sở, bởi đó là lời nhận xét của  
Nguyễn Mộng Tuân - một người bạn của  
Nguyễn Trãi. Nguyễn Mộng Tuân đã ca  
ngợi Nguyễn Trãi như sau: “Gió thanh  
hây hẩy gác vàng, người như một ông  
tiên ở trong tòa ngọc, cái tài làm hay, làm  
đẹp cho nước, từ xưa chưa có bao giờ...”.  
Trong ý kiến này, Nguyễn Mộng Tuân  
muốn khẳng định vẻ đẹp của Nguyễn Trãi,  
đó là thần thái, cốt cách của một ông tiên  
ở trong tòa ngọc, thoát hẳn khỏi trần thế.  
Lời nhận xét này của Nguyễn Mộng Tuân  
không phải không có lý. Nhưng Phạm  
Văn Đồng đã phản biện lại ý kiến này của  
Nguyễn Mộng Tuân về Nguyễn Trãi và  
khẳng định rằng Nguyễn Trãi không phải  
là một ông tiên Nguyễn Trãi là người  
đầu đội trời Việt Nam, chân đạp đất Việt  
Nam, tâm hồn lộng gió của thời đại lúc bấy  
giờ, suốt đời tận tụy cho một lí tưởng cao  
quý. Thực vậy, tìm hiểu cuộc đời và thơ  
văn Nguyễn Trãi, chúng ta cũng thấy nhận  
xét của Phạm Văn Đồng về Nguyễn Trãi  
là hoàn toàn xác đáng. Nguyễn Trãi luôn  
sống với cuộc đời thực của con người, của  
nhân dân, suốt đời đau đáu một tấm lòng  
nhân nghĩa, vì dân, vì nước “Đêm ngày  
cuồn cuộn nước triều Đông». Điều đáng  
nói đến ở đây là cách lập luận mang tính  
phản biện này làm cho kết luận được nói  
tới được nổi bật hơn, rõ hơn, sâu hơn. Có  
thể hình dung lập luận này như sau:  
Một điểm đáng chú ý trong lập luận  
quy nạp ở VBNL là sự xuất hiện của  
những lập luận mang tính tranh luận phản  
biện. Đó là kiểu lập luận mà người viết  
đưa ra luận cứ là một ý kiến, một nhận xét  
(ý kiến hay nhận xét này có lí, đã được  
chấp nhận), sau đó lại phản bác lại bằng  
cách đưa ra các luận cứ ngược hướng,  
trên cơ sở đó mà rút ra kết luận. Kiểu lập  
luận này còn được gọi là lập luận nêu  
phản đề. Lĩnh vực mà VBNL quan tâm là  
các lĩnh vực đa dạng của cuộc sống nên  
trong VBNL thường xuyên xảy ra sự tranh  
luận giữa các quan điểm, ý kiến, trường  
phái,.... Dưới đây là ví dụ về lập luận phản  
biện trong văn bản nghị luận:  
Ví dụ 3: Nguyễn Mộng Tuân, một  
người bạn của Nguyễn Trãi, đã ca ngợi  
Nguyễn Trãi như sau: “Gió thanh hây hẩy  
gác vàng, người như một ông tiên ở trong  
tòa ngọc, cái tài làm hay, làm đẹp cho  
nước, từ xưa chưa có bao giờ...”. Nguyễn  
Trãi không phải là một ông tiên. Nguyễn  
Trãi là người đầu đội trời Việt Nam, chân  
đạp đất Việt Nam, tâm hồn lộng gió của  
thời đại lúc bấy giờ, thông cảm sâu xa với  
nỗi lòng dân lúc bấy giờ, suốt đời tận tụy  
cho một lí tưởng cao quý. [7, tập I, tr. 125]  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG  
68  
p (là một lập luận có trật tự: p - r):  
Nguyễn Mộng Tuân, một người bạn của  
Nguyễn Trãi, đã ca ngợi Nguyễn Trãi như  
sau (p): “Gió thanh hây hẩy gác vàng,  
người như một ông tiên ở trong tòa ngọc,  
cái tài làm hay, làm đẹp cho nước, từ xưa  
chưa có bao giờ (r)...  
nói của mình và ra sức làm cho tiếng nói  
ấy phong phú hơn để có khả năng phổ  
biến tại An Nam các học thuyết đạo đức  
và khoa học của châu Âu, việc giải phóng  
dân tộc An Nam chỉ còn là vấn đề thời  
gian. Bất cứ người An Nam nào vứt bỏ  
tiếng nói của mình, thì cũng đương nhiên  
khước từ niềm hi vọng giải phóng giống  
nòi. [...] Vì thế, đối với người An Nam  
chúng ta, chối từ tiếng mẹ đẻ đồng nghĩa  
với chối từ sự tự do của mình. [6, SGK  
Ngữ văn 11, tập 2, tr. 90]  
q: Nguyễn Trãi không phải là một ông  
tiên.  
R: Nguyễn Trãi là người đầu đội trời  
Việt Nam, chân đạp đất Việt Nam, tâm hồn  
lộng gió của thời đại lúc bấy giờ, suốt đời  
tận tụy cho một lí tưởng cao quý.  
Ví dụ này trích trong văn bản Tiếng mẹ  
đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp  
bức của Võ An Ninh. Đoạn trích này là  
một lập luận, trong đó, câu (1) và (4) là kết  
luận (R), câu (2) là luận cứ (p), câu (3) là  
kết luận (r) được rút ra từ luận cứ (p). Lập  
luận trong đoạn trích được sắp xếp theo  
trình tự: Kết luận (R) - luận cứ (p -> r) -  
kết luận (R’), tức là theo mô hình phối hợp  
diễn dịch - quy nạp.  
Từ sự phân tích các lập luận được  
tổ chức theo hướng quy nạp với trật tự  
luận cứ - kết luận, có thể thấy rằng trong  
VBNL, đối với các lập luận phức, lập luận  
có luận cứ nghịch hướng, đặc biệt là các  
lập luận mang tính phản biện thì lập luận  
quy nạp là hình thức tổ chức phù hợp nhất,  
hiệu quả nhất để kết luận rút ra mang tính  
thuyết phục. Giả sử thay đổi cách lập luận  
trong các ví dụ 2 và ví dụ 3 sang lập luận  
ngược lại là lập luận diễn dịch thì chắc  
chắn kết luận sẽ không có sự hấp dẫn,  
2.1.2. Lập luận hàm ẩn  
Trong VBNL, lập luận hàm ẩn được  
các tác giả nghị luận thường xuyên sử  
dụng với 951/ 2.302 lập luận. Có hai loại  
hàm ẩn là hàm ẩn luận cứ và hàm ẩn kết  
luận. Lập luận hàm ẩn luận cứ được sử  
dụng trong cả nghị luận xã hội và nghị  
luận văn học.  
và kém thuyết phục hơn.  
* Lập luận  
phối hợp diễn dịch - quy nạp: Đây là kiểu  
lập luận phối hợp cách trình bày kết luận  
- luận cứ của diễn dịch và cách trình bày  
luận cứ - kết luận của quy nạp. Kiểu lập  
luận này giống như một tiểu văn bản với  
ba phần mở - thân - kết và có 476/ 2.302 lập  
luận. Tác giả nghị luận tổ chức các thành  
phần của lập luận theo hướng này nhằm  
mục đích một lần nữa khẳng định, kết luận  
lại nhận xét, đánh giá đã đưa ra ban đầu.  
Lập luận hàm ẩn kết luận thường xuất  
hiện trong VBNL. Lập luận hàm ẩn kết  
luận xuất hiện khi tác giả nghị luận do ý  
nhị, không muốn áp đặt điều mình đánh  
giá (nhất là trường hợp đánh giá tiêu  
cực), không muốn gây sức ép trong việc  
kêu gọi thực hiện một hành động nào đó.  
Kiểu lập luận này khiến cho người tiếp  
nhận phải tự suy nghĩ (suy ý) để rút ra kết  
luận phù hợp.  
Ví dụ 4: Tiếng nói là người bảo vệ  
quý báu nhất nền độc lập của các dân  
tộc, là yếu tố quan trọng nhất giúp giải  
phóng các dân tộc bị thống trị. Nếu  
người An Nam hãnh diện giữ gìn tiếng  
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020  
69  
Ví dụ 5:  
Muôn thuở nền thái bình vững chắc, còn  
giặc Minh tàn bạo sẽ thất bại thảm hại,  
đó cũng là hệ quả tất yếu: chính nghĩa sẽ  
thắng phi nghĩa. Lập luận tam đoạn luận  
này chính là tư tưởng chủ đạo xuyên suốt  
toàn bài cáo, là kết luận mà Nguyễn Trãi  
muốn công bố rộng khắp cho bốn phương  
đều biết.  
Xã tắc từ đây vững bền,  
Giang sơn từ đây đổi mới.  
Kiền khôn bĩ rồi lại thái,  
Nhật nguyệt hối rồi lại minh.  
Muôn thuở nền thái bình vững chắc,  
Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu.  
[6, tập 2, tr. 22]  
2.2. Mạch lạc biểu hiện qua đặc điểm của  
các thành phần lập luận  
Đoạn trích này là một tam đoạn luận.  
Tam đoạn luận này được phân tích như sau:  
Nghiên cứu đặc điểm của các thành  
phần lập luận, bài viết chú ý đến hình thức  
ngôn ngữ thể hiện luận cứ và kết luận theo  
cấu tạo ngữ pháp và theo mục đích nói  
Đại tiền đề Trời đất tối rồi lại sáng  
(p1)  
Tiểu tiền đề Đất nước mất tự do,  
(p2) - ẩn  
chìm trong xương  
máu sẽ đến ngày được  
hưởng thái bình - nhờ  
lấy gốc là nhân nghĩa  
2.2.1. Đặc điểm của luận cứ  
Về hình thức thể hiện luận cứ, xét theo  
mục đích nói, luận cứ có thể là câu tường  
thuật, câu nghi vấn, câu cầu khiến và câu  
cảm thán, xét theo cấu tạo ngữ pháp, luận  
cứ có thể là thành phần câu, có thể là câu  
đơn, câu ghép, câu phức, câu đặc biệt, câu  
tỉnh lược, câu dưới bậc,... Đặc điểm này  
của luận cứ chỉ có trong văn bản nghệ  
thuật, VBNL mà không có trong văn bản  
hành chính, văn bản khoa học.  
Kết luận (r)  
Đại Việt muôn thuở  
vững bền  
Trong lập luận này, đại tiền đề nêu ra  
quy luật của đất trời, của tự nhiên: kiền  
khôn bĩ rồi lại thái; nhật nguyệt hối rồi  
lại minh. Tiểu tiền đề: đất nước mất tự do,  
chìm trong xương máu sẽ đến ngày được  
hưởng thái bình là luận cứ ẩn. Tuy nhiên,  
điều cần nói đến trong lập luận này là  
nếu như đại tiền đề là quy luật logic của  
tự nhiên thì tiểu tiền đề cũng là quy luật  
nhưng đó lại là quy luật của chính nghĩa,  
của lẽ thường: đất nước mất tự do, chìm  
trong nô lệ nhưng nhờ dân tộc Đại Việt  
luôn luôn lấy nhân nghĩa làm gốc (Việc  
nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu  
phạt trước lo trừ bạo. Và Đem đại nghĩa  
để thắng hung tàn/ lấy chí nhân để thay  
cường bạo) nên dĩ nhiên Đại Việt được  
độc lập, thái bình. Kết luận được rút ra  
cũng dựa trên quy luật của cuộc sống, đó  
là quy luật đại nghĩa sẽ thắng hung tàn,  
do vậy mà: Đại Việt mãi mãi vững bền -  
Ví dụ 6: Nguyễn Du bất mãn với chế  
độ quan liêu phong kiến, nhưng vẫn quyến  
luyến với ý thức hệ nhà nho: trung, hiếu,  
tiết, nghĩa. Mâu thuẫn giữa chữ tài chữ  
mệnh? Nguyễn Du giải quyết bằng chữ  
tâm! Vấn đề luyến ái? Cô Kiều quả đã có  
can đảm nghe lời gọi của trái tim và và bất  
chấp cả khuôn phép lễ giáo và tôn pháp  
của đạo Khổng. Nhưng tinh thần tranh đấu  
của Kiều chưa phải là ý thức tranh đấu của  
chủ nghĩa nữ quyền. Vấn đề hôn nhân?  
“Truyện Kiều” có những đoạn hùng hồn  
để tố khổ cho những người đàn bà lâm vào  
“cái kiếp lấy chồng chung”. Nhưng tố khổ  
chưa phải giải quyết vấn đề nữ quyền. Vấn  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG  
70  
đề hạnh phúc? Cảnh đoàn viên của cô  
Kiều trong đoạn “Hậu Kim Trọng” chỉ là  
tia sáng dìu dịu, hắt hiu trước bàn thờ cửa  
Phật, đâu phải là thức ăn của cõi người...  
[7, tập I, tr. 350]  
văn nghệ cách mạng của chúng ta hãy còn  
quá non trẻ. Tình hìnhh sáng tác kịch nói  
lại càng chậm chạp nghèo nàn hơn (...).  
[7, tập V, tr. 67]  
Kết luận trong ví dụ 7 là một câu ghép  
chính phụ, vế phụ là nội dung của phần  
đi trước, vế chính nêu nhận định, mở ra  
nội dung của các câu đi sau: Nếu như “Vũ  
Như Tô” là vở kịch tiêu biểu của Nguyễn  
Huy Tưởng trước Cách mạng thì sau  
1945, “Bắc Sơn” là vở kịch có giá trị nhất  
của anh. Các câu tiếp theo là luận cứ.  
Ví dụ này được trích trong văn bản  
Đặc sắc của văn học cổ điển Việt Nam  
qua nội dung “Truyện Kiều” của tác giả  
Đặng Thai Mai. Câu đầu tiên là một nhận  
định (kết luận): Nguyễn Du (...) vẫn quyến  
luyến với ý thức hệ nhà nho: trung, hiếu,  
tiết, nghĩa. Các câu tiếp theo dễ dàng nhận  
ra được đó là các luận cứ nhờ vào hình  
thức biểu hiện có cấu trúc ngữ pháp giống  
nhau, đó là các câu hỏi: 1) Mâu thuẫn giữa  
chữ tài chữ mệnh; 2) Vấn đề luyến ái?; 3)  
Vấn đề hôn nhân?; 4) Vấn đề hạnh phúc?  
Việc sử dụng hình thức thể hiện luận cứ  
bằng câu hỏi như trên (sau đó tác giả lại tự  
trả lời) đem lại cách diễn đạt đa dạng, sinh  
động cho lập luận, tạo nên sự chú ý, sức  
hấp dẫn cho lập luận.  
Về mục đích nói, để đạt đích thuyết  
phục, VBNL được phép sử dụng đa dạng  
các kiểu câu để thể hiện rõ ràng hành động  
nói và thái độ cảm xúc của tác giả. Vì thế,  
kết luận được thể hiện qua mục đích nói  
cũng rất phong phú. Đáng chú ý là có  
trường hợp kết luận được thể hiện dưới  
hình thức câu cảm thán.  
Ví dụ 8: Sao mà Tế Hanh yêu trăng  
đến thế! Trong thơ anh hầu như chỗ nào  
cũng vời vợi ánh trăng. Trăng trong thơ  
anh là trăng đẹp dịu dàng, trăng của sự  
thơ mộng, trăng của tuổi trẻ, trăng của  
tình yêu. Trăng luôn luôn là bầu bạn của  
anh. Khi anh ngắm trăng trong bức tranh  
toàn cảnh rộng lớn ở nông trường cà phê  
“rộng mênh mông, trăng lên trăng lặn  
vẫn không ra ngoài”. Khi anh say sưa với  
cảnh trăng “Tây Hồ mơ mộng bến Hàng  
Châu”. Khi qua công trường gỗ anh liên  
tưởng ngay nhà cửa đẹp đẽ sẽ mọc lên với  
cảnh “trăng sáng gọi bên thềm”. Khi anh  
nghe tin “Liên Xô anh cả của chúng ta mở  
đường” vào thăm vũ trụ, anh nghĩ ngay  
đến tương lai:  
2.2.2. Đặc điểm của kết luận trong lập luận  
của văn bản nghị luận  
Kết luận trong VBNL có hai cấp độ,  
cấp độ văn bản và cấp độ đoạn văn, bài  
viết chỉ tập trung nói đến hình thức thể  
hiện kết luận ở cấp độ đoạn văn. Ở cấp độ  
này, kết luận cũng có hình thức ngôn ngữ  
biểu hiện phong phú.  
Về cấu tạo ngữ pháp, kết luận có thể  
là câu đơn, câu phức, câu ghép, câu tỉnh  
lược.  
Ví dụ 7: Nếu như “Vũ Như Tô” là vở  
kịch tiêu biểu của Nguyễn Huy Tưởng  
trước Cách mạng thì sau 1945, “Bắc Sơn”  
là vở kịch có giá trị nhất của anh.  
“Con tàu vượt vạn tầng mây  
Mặt trăng xinh đẹp mai này là ga”.  
[7, tập IV, tr. 106-107]  
“Bắc Sơn” ra đời năm 1946 đánh dấu  
một bước ngoặt quan trọng trong phong  
trào kịch nói cách mạng. Lúc bấy giờ, nền  
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020  
71  
Ở ví dụ 8, kết luận là một câu cảm  
thán: Sao mà Tế Hanh yêu trăng đến thế!  
Với hình thức thể hiện này, kết luận không  
chỉ khái quát vấn đề mà còn báo hiệu tình  
cảm dạt dào, tha thiết của nhà thơ Tế Hanh  
với trăng ở những câu sau, đồng thời chứa  
đựng cả sự đồng cảm sâu sắc của tác giả  
nghị luận với nhà thơ. Các câu tiếp theo là  
luận cứ, minh chứng cho câu đầu tiên.  
Có thể nói, ngôn ngữ thể hiện luận cứ  
và kết luận hết sức đa dạng xét theo cả  
mục đích nói lẫn cấu trúc cú pháp. Tùy  
theo nội dung lập luận mà tác giả lựa chọn  
hình thức của luận cứ và kết luận sao cho  
phù hợp. Hình thức thể hiện các thành  
phần của lập luận như các ví dụ dẫn trên  
đây đã thỏa mãn, đáp ứng được yêu cầu về  
đặc điểm ngôn ngữ và đặc trưng về tính  
lập luận chặt chẽ, tính truyền cảm mạnh  
mẽ của thể loại nghị luận, và như vậy các  
lập luận đó đã mạch lạc, đem lại sức hấp  
dẫn của VBNL.  
Khi cần đanh thép, thể hiện một thái  
độ dứt khoát, một tình cảm mãnh liệt thì  
kiểu câu trần thuật khẳng định hoặc phủ  
định lại rất thích hợp. Đoạn trích trong  
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ  
Chủ tịch dưới đây là một ví dụ:  
2.3. Hiện tượng đa thanh trong lập luận  
ở văn bản nghị luận  
Ví dụ 9: Chúng ta muốn hòa bình,  
chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng  
ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng  
lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta  
một lần nữa!  
Một đặc điểm nổi bật rất dễ nhận biết  
trong lập luận ở VBNL là hiện tượng đa  
thanh. Đa thanh trong lập luận ở VBNL  
thể hiện rõ quan điểm của tác giả nhằm  
mục đích tạo ấn tượng, tăng sức thuyết  
phục cho lập luận, thể hiện ở việc tác giả  
(thuyết ngôn) thường dẫn một câu nói,  
một quan điểm,... của chủ ngôn vào trong  
lập luận, lời của chủ ngôn có thể là đồng  
hướng hoặc nghịch hướng trong lập luận  
nào đó.  
Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả,  
chứ nhất định không chịu mất nước, nhất  
định không chịu làm nô lệ. [8, tr.100]  
Lập luận trên là lập luận quy nạp. Kết  
luận R được thể hiện qua hai câu: Không!  
Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định  
không chịu mất nước, nhất định không  
chịu làm nô lệ. “Không!” là câu đặc biệt  
phủ định có tác dụng tỏ rõ thái độ, quan  
điểm rõ ràng, dứt khoát của ta đối với thực  
dân Pháp, đồng thời hàm ý thể hiện quyết  
tâm bảo vệ độc lập chủ quyền. Dưới hình  
thức câu ghép khẳng định có cặp “thà...  
chứ”, kết luận càng được thể hiện một  
cách rõ ràng, đanh thép hơn. Hình thức  
cú pháp thể hiện kết luận ở ví dụ này rõ  
ràng có vai trò quan trọng trong việc thể  
hiện rõ nội dung và tình cảm, thái độ của  
tác giả, tạo được sự đồng lòng nhất trí  
trong hơn hai mươi triệu đồng bào ta lúc  
bấy giờ.  
2.3.1. Hiện tượng đa thanh trong lập  
luận đồng hướng  
Trong văn bản nghị luận, lời của chủ  
ngôn thường là những câu tục ngữ, châm  
ngôn, những chân lý đã được thừa nhận,  
những quan điểm chính trị, những câu nói  
của những nhân vật nổi tiếng, những nhận  
định về một vấn đề, một tác gia, một tác  
phẩm hay một nhân vật văn học nào đó.  
Những nhận định này của chủ ngôn chính  
là luận cứ đồng hướng với các luận cứ  
khác trong lập luận, được thuyết ngôn đưa  
vào để tăng tính xác thực cho luận cứ và  
tính thuyết phục cho kết luận.  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG  
72  
Trong các văn bản nghị luận xã hội,  
lập luận đa thanh thường gặp khi tác  
giả dẫn luận cứ là một câu châm ngôn,  
tục ngữ, một chân lý được thừa nhận,  
một câu chuyện về tấm gương đạo lý,  
hoặc là lời của một nhân vật nổi tiếng  
nào đó. Các văn bản như Hịch tướng sĩ,  
Bình Ngô đại cáo, Chiếu dời đô, Chiếu  
cầu hiền, Tuyên ngôn độc lập, Chuẩn bị  
hành trang vào thế kỷ mới... đều có lập  
luận đa thanh.  
Kết luận (hàm ẩn): Việt Nam phải  
được công nhận và được hưởng quyền tự  
do, bình đẳng như các dân tộc (quốc gia)  
khác trên thế giới.  
Tính đa thanh của lập luận này được thể  
hiện ở việc lựa chọn luận cứ (mà mỗi luận  
cứ lại là một lập luận). Hai luận cứ (đồng  
thời là hai lập luận) trên đều có cùng cách  
lập luận: từ luận cứ là một chân lý đã biết,  
đã được thừa nhận để rút ra kết luận. Cả  
hai luận cứ đều có (p) là lời của chủ ngôn  
(bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của  
nước Mĩ và bản Tuyên ngôn nhân quyền  
và dân quyền của Cách mạng Pháp năm  
1791), được tác giả (thuyết ngôn) Hồ Chí  
Minh lựa chọn, sắp xếp hợp lý, logic, do  
đó, các kết luận trong hai lập luận trên có  
giá trị thuyết phục rất cao vì nó được rút ra  
trên cơ sở những dẫn chứng xác thực, hơn  
nữa lại là những chân lý, lẽ phải đã được  
thừa nhận. Rõ ràng, việc sử dụng luận cứ  
được viện dẫn trong ví dụ trên đã tạo được  
sự chặt chẽ, logic trong lập luận, tăng sức  
thuyết phục cho kết luận.  
Ví dụ 10: “Tất cả mọi người sinh ra  
đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ  
những quyền không ai có thể xâm phạm  
được; trong những quyền ấy, có quyền  
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu  
hạnh phúc”. Lời nói bất hủ ấy ở trong bản  
“Tuyên ngôn độc lập” năm 1776 của nước  
Mĩ. Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả  
các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình  
đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống,  
quyền sung sướng và quyền tự do.  
Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân  
quyền của Cách mạng Pháp năm 1791  
cũng nói: “Người ta sinh ra tự do và bình  
đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được  
tự do và bình đẳng về quyền lợi”.  
Các văn bản nghị luận thời trung đại  
như Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo,  
Chiếu dời đô, Chiếu cầu hiền,... thường mở  
đầu bằng các từ ngữ: từng/ thường nghe,  
xưa. Đây chính là cách dẫn lời chủ ngôn  
vào trong lập luận. Lời của chủ ngôn trong  
những văn bản này thường là những câu  
chuyện lịch sử, những tấm gương đạo đức,  
những câu nói của người xưa,...  
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi  
được. [8, tr. 85]  
Lập luận trên là một tam đoạn luận, có  
đại tiền đề, tiểu tiền đề và kết luận hàm  
ẩn. Các thành phần của lập luận được hiểu  
như sau:  
Ví dụ 11: Ta thường nghe: Kỉ Tín đem  
mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do  
Vu chìa lưng chịu giáo che chở cho Chiêu  
Vương; Dự Nhượng nuốt than để báo thù  
cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn  
cho nước; Kính Đức, một chàng tuổi trẻ,  
thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thế  
Sung,....[6, SGK Ngữ văn 8, tập 2, tr.55]  
Đại tiền đề: Tất cả các dân tộc trên thế  
giới đều bình đẳng, có quyền sống, quyền  
tự do (Hai bản Tuyên ngôn của Pháp và  
Mĩ đã công nhận).  
Tiểu tiền đề (hàm ẩn): Việt Nam là một  
dân tộc (một quốc gia) như tất cả các dân  
tộc (quốc gia) khác trên thế giới.  
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020  
73  
Các đoạn trích về lập luận ở các ví dụ  
trên đều dẫn lời của chủ ngôn. Lời của chủ  
ngôn trở thành những luận cứ đáng tin  
cậy, là cơ sở vững chắc cho kết luận bởi đó  
là những điều đã được thừa nhận là đúng  
và được ghi lại, được lưu truyền trong sử  
sách, trong dân gian. Và vì thế, kết luận  
rút ra dựa trên những luận cứ kiểu này sẽ  
giàu sức thuyết phục vì hợp với lẽ thường.  
không những say “Truyện Kiều”, say văn  
chương “Truyện Kiều” mà chính là say  
nàng Kiều y như say một giai nhân có  
thật. Con người ấy từ lâu đã sống trong  
lòng hàng triệu người và được quý trọng,  
được âu yếm, được yêu mến đến say mê.  
Kiều đã từ tiểu thuyết đi vào cuộc đời và  
nhiều khi người ta đã quên không còn nhớ  
Kiều là người trong tiểu thuyết.[7, tập I,  
tr.320]  
Trong các văn bản nghị luận văn học,  
chủ ngôn có thể là một nhà nghiên cứu,  
phê bình, một nhân vật nổi tiếng, hoặc một  
người nào đó mà không cần chỉ đích danh,  
và nhiều khi đó chính là lời của đối tượng  
được đề cập tới. Lập luận đa thanh được  
nhận biết qua sự xuất hiện của danh từ  
riêng hoặc các từ/ tổ hợp từ đứng đầu như:  
có người/ người ta/ nhiều người/có bạn/  
nhiều bạn đọc và phê bình,... cho rằng/  
nhận xét/ nói,... hoặc dưới con mắt/ dưới  
cái nhìn của...  
Đây là một lập luận có tính đa thanh rất  
rõ. Lời của các chủ ngôn được thuyết ngôn  
(HoàiThanh) dẫn hết sức phong phú: có lời  
của chủ ngôn trong nước (bà cụ nông dân,  
Mộng Liên Đường, Chu Mạnh Trinh), có  
lời của chủ ngôn ngoài nước (Go-rơ-ki);  
có chủ ngôn là người bình dân (bà cụ nông  
dân), có chủ ngôn là người nổi tiếng (Go-  
rơ-ki, Mộng Liên Đường và Chu Mạnh  
Trinh). Lời của các chủ ngôn chính là các  
dẫn chứng xác thực, sinh động và giàu sức  
thuyết phục để thuyết ngôn hướng đến kết  
luận: Kiều đã từ tiểu thuyết đi vào cuộc  
đời và nhiều khi người ta đã quên không  
còn nhớ Kiều là người trong tiểu thuyết  
bởi vì Kiều là nhân vật được xây dựng bởi  
một nghệ sĩ đại tài - Nguyễn Du. Rõ ràng,  
lập luận đa thanh khiến cho ngôn ngữ lập  
luận chặt chẽ mà vẫn sinh động, giàu cảm  
xúc; kết luận mang sức thuyết phục cao  
bởi nó được dẫn dắt bằng lý lẽ rõ ràng,  
sắc bén, logic, được chứng minh bằng dẫn  
chứng vô cùng sinh động nhưng xác đáng,  
tin cậy.  
Ví dụ 12: Go-rơ-ki nói: “Khi đọc  
Tôn-xtôi ta có cảm giác là các nhân vật  
có thật, có xương, có thịt... ta tưởng như  
nhìn thấy họ trước mắt ta, ta lấy tay sờ họ  
được”. Chúng ta đọc “Truyện Kiều” đều  
có chung một cảm giác ấy. Một bà cụ nông  
dân một hôm nói với tôi: “Nước Nam mình  
đẹp nhất có con Kiều. Mà khổ nhất cũng  
con Kiều. Thương nó quá”. Những nhà  
nho hoặc khinh ghét Kiều như Nguyễn  
Công Trứ, Huỳnh Thúc Kháng, hoặc yêu  
mến Kiều như Mộng Liên Đường, Chu  
Mạnh Trinh cũng đều xem Kiều là người  
có thật. Mộng Liên Đường viết: “Dẫu đời  
xa, người khuất không được mục kích tận  
nơi, nhưng lời văn tả ra hình như máu  
chảy đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên  
tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm  
thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột”.  
Còn Chu Mạnh Trinh thì có thể nói là  
Bên cạnh đó, điểm đáng chú ý trong  
lập luận đa thanh giọng chồng giọng ở  
văn bản nghị luận văn học là trường hợp  
chủ ngôn chính là nhà văn, nhà thơ, nhân  
vật văn học được nói tới. Đây là lập luận  
đa thanh thường gặp nhất trong văn bản  
nghị luận văn học, bởi lẽ khi bàn về một  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG  
74  
tác gia, một tác phẩm hay vấn đề, nhân  
vật văn học nào đó thì tác giả nghị luận  
phải cảm, phải thấu hiểu từ tư tưởng, quan  
điểm sáng tác đến thành công và hạn chế  
của tác giả văn học, do đó, việc dẫn lời của  
chủ ngôn và coi đó là bằng chứng xác thực  
là một thao tác bắt buộc phải có trong văn  
bản nghị luận văn học.  
hai luận cứ, trong đó một luận cứ của chủ  
ngôn, một luận cứ của thuyết ngôn. Nếu  
một lập luận có hai quan điểm trái ngược,  
xung đột nhau thì kết luận rút ra sẽ dựa  
vào luận cứ có hiệu lực lập luận mạnh, và  
đó là luận cứ của thuyết ngôn.  
Ví dụ 14: Nguyên Ngọc coi “Sông  
Đà” như một cuốn tiểu thuyết và cho  
Nguyễn Tuân “đã nâng thể tùy bút, thể  
văn sở trường của anh lên một bước mới  
tạo thành như là một thứ ‘tùy bút tiểu  
thuyết”(Báo “Văn học” số 113, tr. 10). Có  
thể và có thật như vậy không?  
Ví dụ 13: Nhưng cái sức mạnh lớn  
nhất của thơ Tố Hữu chính là quả tim anh.  
Tố Hữu rất ít làm thơ tình. Nhưng thơ anh  
là thơ của một tình nhân. Anh đã nói các  
vấn đề bằng trái tim của một người say  
đắm. Anh nói về Bác:  
Trước cách mạng, bên cạnh những  
tùy bút, Nguyễn Tuân cũng đã có thể viết  
truyện dài, truyện ngắn (như “Thiếu quê  
hương”, “Nhà bác Nguyễn”). Nhưng  
Nguyễn Tuân đã không thành công. Tiểu  
thuyết của anh vẫn mang nặng tính chất  
tùy bút: nhân vật không rõ nét, nhà văn  
luôn xen vào để phát biểu cảm nghĩ cá  
nhân. Sau cách mạng, không biết có phải  
do rút được kinh nghiệm cũ mà Nguyễn  
Tuân không viết tiểu thuyết không? Có thể  
sau này anh sẽ thành công trong thể tài  
đó. Nhưng cho đến nay, Nguyễn Tuân vẫn  
nổi bật là một nhà viết tùy bút. Và “Sông  
Đà” cũng là một tập tùy bút không hơn  
không kém. [7, tập V, tr. 149]  
“Chiều nay gió lộng nắng hanh,...  
Nắng thơm rơm mới đồng quê gặt  
mùa”(...)  
Anh viết về miền Nam:  
Ôi miền Nam vì sao mỗi lúc,...  
Một câu hò cũng đậm trong tim.  
[7, tập III, tr.235]  
Lập luận trong ví dụ 13 được tổ chức  
theo lối diễn dịch, kết luận nằm ở câu đầu,  
luận cứ ở các câu sau. Tính đa thanh của  
lập luận thể hiện ở chỗ các luận cứ đều  
lấy dẫn chứng trong các tác phẩm của Tố  
Hữu, nói cách khác thì phần được trích  
dẫn sau dấu hai chấm chính là lời của chủ  
ngôn. Thuyết ngôn trong lập luận kiểu này  
làm nhiệm vụ dẫn dắt lời của chủ ngôn sao  
cho hợp lý, logic để làm luận cứ tin cậy  
phục vụ cho kết luận.  
Trong lập luận này, thuyết ngôn (Nam  
Mộc) muốn rút ra kết luận (r): “Sông  
Đà” là một tập tùy bút. Đầu tiên, thuyết  
ngôn dẫn lời của chủ ngôn Nguyên Ngọc.  
Nhưng ngay sau đó, Nam Mộc lại đặt câu  
hỏi: Có thể và có thật như vậy không? Câu  
hỏi này có tác dụng định hướng lập luận,  
nó thể hiện sự hoài nghi về nhận xét của  
Nguyên Ngọc: “Sông Đà” như một cuốn  
tiểu thuyết - một thứ “tùy bút tiểu thuyết”.  
Nhận xét của chủ ngôn được thuyết ngôn  
dẫn ra với mục đích không phải là tìm  
2.3.2. Hiện tượng đa thanh trong lập  
luận nghịch hướng  
Trong lập luận, thường xuất hiện sự  
tranh luận phản biện. Tính phản biện  
trong lập luận làm cho vấn đề bàn luận  
được nhìn đa chiều, ở nhiều góc độ, do đó  
kết luận rút ra mang tính thuyết phục hơn.  
Trong lập luận phản biện, phải có ít nhất  
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020  
75  
“đồng minh”, mà là dẫn dắt để đối chiếu  
với quan điểm của tác giả. Nam Mộc đã  
đưa ra dẫn chứng là các sáng tác trước  
cách mạng để thấy rằng Nguyễn Tuân  
không phải nhà viết tiểu thuyết, và khẳng  
định: cho đến nay, Nguyễn Tuân vẫn nổi  
bật là một nhà viết tùy bút và sau đó rút ra  
kết luận “Sông Đà” cũng là một tập tùy  
bút không hơn không kém. Như vậy, nhận  
xét ban đầu của Nguyên Ngọc (chủ ngôn)  
được Nam Mộc (thuyết ngôn) đưa ra để  
làm căn cứ phản bác lại, từ đó phân tích,  
chứng minh để rút ra kết luận. Rõ ràng, sử  
dụng lập luận đa thanh nghịch hướng giúp  
cho lập luận có ấn tượng và kết luận giàu  
sức thuyết phục.  
kết luận đa dạng, sinh động mà phù hợp  
cùng với ngôn từ giàu hình ảnh và sắc  
thái biểu cảm. Bên cạnh đó, hiện tượng  
đa thanh xuất hiện thường xuyên trong lập  
luận sẽ giúp cho lập luận vừa có sự mạch  
lạc rõ ràng, thuyết phục lại vừa tạo được  
sự hấp dẫn. Có thể nói, chính mạch lạc  
trong quan hệ lập luận ở VBNL có vai trò  
quan trọng trong việc thể hiện tính truyền  
cảm mạnh mẽ và tính thuyết phục của loại  
văn bản này.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Diệp Quang Ban (2002), Giao tiếp. Văn  
bản. Mạch lạc. Liên kết. Đoạn văn, Nxb KHXH,  
Hà Nội.  
2. Đỗ Hữu Châu (2002), Đại cương ngôn ngữ  
học, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội  
Có thể nói đa thanh trong lập luận  
thường xuyên xuất hiện ở văn bản nghị  
luận, đó có thể là đa thanh lập luận đồng  
hướng hay đa thanh lập luận nghịch  
hướng. Đa thanh trong lập luận là một  
phương tiện rất “lợi hại”, có tác dụng cao  
trong các lập luận, tranh biện. Đa thanh  
trong lập luận có thể nói đã trở thành thói  
quen trong lập luận ở VBNL.  
3. Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học,  
tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.  
4. Hữu Đạt, (2011), Phong cách học tiếng Việt  
hiện đại, Nxb Giáo dục Việt Nam.  
5. Nguyễn Thiện Giáp (2000), Dụng học Việt  
ngữ, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.  
6. Sách giáo khoa Ngữ văn (lớp 7, 8, 9, 10, 11,  
3. KẾT LUẬN  
12, tập 1+2) (2008), Nxb Giáo dục, Hà Nội.  
7. Đỗ Quang Lưu (tuyển chọn và giới thiệu),  
Tập nghiên cứu và bình luận văn học chọn lọc, tập  
I + II + III + IV + V + VI (2000), Nxb Hà Nội.  
Mạch lạc trong quan hệ lập luận ở  
VBNL được thể hiện rõ rệt qua các phương  
diện như kiểu lập luận, đặc điểm của các  
thành phần lập luận và tính đa thanh trong  
lập luận. Muốn cho nội dung lập luận được  
thể hiện rõ ràng mạch lạc, thuyết phục thì  
tác giả lập luận phải lựa chọn được kiểu  
lập luận sao cho phù hợp nhất. Đó là lập  
luận diễn dịch là hình thức tổ chức lập  
luận phù hợp với các lập luận chỉ có luận  
cứ đồng hướng và các tam đoạn luận; lập  
luận quy nạp phù hợp với các lập luận có  
luận cứ nghịch hướng và lập luận mang  
tính phản biện;... Đồng thời, lập luận phải  
lựa chọn được hình thức thể hiện luận cứ,  
8. Lữ Huy Nguyên (tuyển chọn và giới thiệu),  
Tuyển tập văn chính luận Hồ Chí Minh (1997),  
Nxb Giáo dục, Hà Nội.  
9. Mai Quốc Liên - Nguyễn Văn Lưu (chủ  
biên), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, quyển V (2003),  
Nxb Văn học, Hà Nội.  
10. Xã luận báo Nhân dân, từ số thứ sáu, ngày  
18/11/2013 đến số thứ bảy, ngày 13/6/2017.  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG  
76  
pdf 11 trang Hứa Trọng Đạt 09/01/2024 300
Bạn đang xem tài liệu "Một số đặc điểm của mạch lạc trong quan hệ lập luận ở văn bản nghị luận tiếng Việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfmot_so_dac_diem_cua_mach_lac_trong_quan_he_lap_luan_o_van_ba.pdf