Một số vấn đề liên quan đến việc xác định trẻ tiềm năng cao

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC  
XÁC ĐỊNH TRẺ TIỀM NĂNG CAO  
Jacques Grégoire*1  
Chuyển ngữ: Lê Hoàng ế Huy  
Tóm tắt  
Trẻ có trí thông minh bằng hoặc cao hơn 130 điểm IQ chiếm khoảng 2.28%  
tổng số học sinh. Những học sinh này, được xếp vào nhóm trẻ có tiềm năng  
cao (Haut potentiel – High potential), không chỉ đặc trưng bởi trí thông  
minh cao hơn trung bình, mà còn bởi nhu cầu giáo dục chuyên biệt. Trẻ tiềm  
năng cao đồng hóa nhanh hơn và sớm hơn các kiến thức học đường khác  
nhau. Các em cũng tạo ra một thách thức giáo dục đối với các giáo viên và  
thấy mình cách biệt so với bạn bè cùng tuổi về mặt hứng thú và sự trưởng  
thành. Nhận diện các trẻ tiềm năng cao và cả nhu cầu chuyên biệt của các  
em là một vấn đề quan trọng. Tuy nhiên không phải đơn giản để trả lời được  
câu hỏi này ngay từ những lần tiếp xúc ban đầu.  
Từ khóa: tiềm năng cao, xác định, trẻ em, trí tuệ, IQ  
COMPLEXITÉ ET ENJEUX DE L’IDENTIFICATION  
DES ENFANTS À HAUT POTENTIEL  
Résumé  
Les élèves ayant une intelligence égale ou supérieure à 130 points de QI  
représentent environ 2,28% de la population scolaire. Ces élèves, qualifiés  
d’enfants à haut potentiel, ne se caractérisent pas seulement par une  
intelligence nettement 1supérieure à la moyenne, mais aussi par leurs besoins  
éducatifs spécifiques. Ils assimilent plus rapidement et plus précocement  
les différentes connaissances scolaires. Ils peuvent ainsi représenter un  
défi éducatif pour leurs enseignants et se trouver en décalage par rapport  
1
Đại học Louvain, Bỉ  
* Correspondence/Liên hệ: jacques.gregoire@uclouvain.be  
52  
aux élèves de leur âge du point de vue de leurs intérêts et de leur maturité.  
L’identification de ces enfants et de leurs besoins particuliers est dès lors une  
question importante. Y répondre est toutefois moins simple qu’il n’y paraît  
au premier abord.  
Mots clés: haut potentiel, identification, enfant, intelligence, QI  
IDENTIFYING HIGH POTENTIAL STUDENTS  
TO BETTER MEET THEIR EDUCATIONAL NEEDS  
Abstract  
Students with an intelligence equal or superior to 130 IQ points represent  
approximately 2.28% of the school population. ese students, qualified as  
high potential children, are not only characterized by an intelligence clearly  
above average, but also by their specific educational needs. ey assimilate  
the different school knowledge faster and earlier. ey can thus represent an  
educational challenge for their teachers and find themselves out of step with  
students of their age in terms of their interests and maturity. Identifying these  
children and their special needs is therefore an important issue. However,  
answering this question is not as simple as it may seem at first glance.  
Keywords: high potential, identification, children, intelligence, IQ  
I. KHÁI NIỆM “TIỀM NĂNG CAO”  
Xuyên suốt các thời đại và các nền văn hóa, luôn có những trẻ em hoặc  
trẻ vị thành niên (VTN) được cha me hoặc thầy cô xem là có năng khiếu  
nổi bật trong nhiều lĩnh vực khác nhau như thể thao, hùng biện, thơ ca,  
toán học,… ế nhưng, khái niệm trẻ “tiềm năng cao” trong giới khoa học  
ngày nay lại là một khái niệm tương đối mới mẻ. Khái niệm này có liên hệ  
ít nhiều đến sự ra đời của trắc nghiệm đo lường trí tuệ đầu tiên do Alfred  
Binet tạo ra năm 1905. Khi đó, mục đích của Binet không phải là tìm ra  
những trẻ có năng lực trí tuệ nổi trội. Ngược lại, điều Binet hướng đến là  
xác định một cách khách quan các trẻ có khiếm khuyết về mặt trí tuệ đề  
giúp can thiệp quá trình học tập của các trẻ này. Terman, tác giả đã thích  
53  
ghi trắc nghiệm của Binet tại Hoa Kỳ năm 1916, chính là người đầu tiên  
quan tâm đến các trẻ đạt được những số điểm IQ nằm ở bên phải biểu đồ  
phân phối chuẩn. Ông gọi những đứa trẻ này là các trẻ “thiên tài” (“gifed”).  
Ở Pháp, giới chuyên môn dịch từ này thành “surdoué” (“có năng khiếu đặc  
biệt”). Từ này rất thường xuyên đi kèm với khái niệm “(phát triển) sớm”,  
với lý do là các trẻ này thường có tốc độ phát triển trí tuệ nhanh hơn các  
trẻ khác. Ngày nay, ở các nước Pháp ngữ, giới chuyên môn ưu tiên sử dụng  
thuật ngữ “tiềm năng cao (/haut potentiel)”. uật ngữ này phù hợp với cả  
trẻ em lẫn người lớn và nhấn mạnh rằng những năng lực này thường xuất  
hiện ở dạng tiềm tàng lúc mới sinh và chỉ phát huy tối đa sức mạnh khi  
nhận được đủ kích thích và trải qua quá trình luyện tập.  
Terman nhận ra rằng không phải trẻ TNC nào cũng đạt được thành  
tích học tập tốt, thậm chí còn có vài em gặp khó khăn trong việc học ở  
trường. Để hiểu rõ hơn về quá trình phát triển của các năng lực trí tuệ ở  
trẻ có TNC, năm 1921, Terman tiến hành một nghiên cứu trường diễn rất  
tham vọng có tên là “Genetic Studies of Genius” (Terman, 1925). Nghiên  
cứu này bao gồm 1.444 trẻ có IQ lớn hơn hoặc bằng 140. Các trẻ này được  
theo dõi trong vài thập kỷ, qua đó ghi nhận được rất nhiều thông tin có giá  
trị về tiến trình phát triển của các trẻ TNC (Terman, 1959).  
Sau các nghiên cứu của Terman, các trẻ TNC nhận được nhiều sự  
quan tâm từ các nhà giáo dục, vì họ muốn giúp các trẻ này phát huy tối đa  
các tiềm năng to lớn mà trẻ có. Ở nhiều quốc gia, các chương trình giáo  
dục dành riêng cho trẻ TNC đã được triển khai. Ban đầu, các chương trình  
này chỉ chú trọng vào lĩnh vực trí tuệ ở mức rất cao của trẻ. Sau đó, các  
chương trình bắt đầu mở rộng ra các lĩnh vực khác như âm nhạc, nghệ  
thuật hoặc thể thao (Gardner, 1983). Dần dà, tiêu chí xác định TNC về trí  
tuệ cũng bắt đầu thay đổi. Nếu như ngương xác định của Terman là 140,  
ngương xác định 130 dần trở thành tiêu chí chung được sử dụng trong thời  
hiện đại (Grégoire, 2021b).  
II. XÁC ĐỊNH CÁC LĨNH VỰC TIỀM NĂNG CAO  
TNC không phải là một rối loạn mà là một khả năng nhận thức cao  
hơn trung bình. Trong việc đánh giá tâm lý cho một cá nhân có thể có  
TNC, người đánh giá không đề cập đến khái niệm “chẩn đoán” mà ưu tiên  
54  
sử dụng thuật ngữ “xác định” TNC (Grégoire, 2012). Mục tiêu của việc  
đánh giá không phải là xác minh sự tồn tại của một hiện tượng theo kiểu  
nhị phân (“có TNC” hay “không có TNC”), mà hướng đến việc xác định  
một cách khách quan các năng lực cao hơn trung bình và những nhu cầu  
giáo dục kèm theo. eo góc nhìn này, người đánh giá cần phải thực hiện  
đánh giá thân chủ một cách toàn diện. Nói cách khác, chỉ số IQ hoàn toàn  
không đủ, mà phải tính đến cả những đặc trưng về cảm xúc, động cơ và các  
mối quan hệ của thân chủ.  
Trong lúc thực hiện đánh giá cho người có thể có TNC, chỉ số IQ  
quan trọng đến mức nào và người đánh giá sẽ diễn giải chỉ số đó ra sao?  
Cần phải ý thức rõ ràng trí tuệ (trí thông minh) là một biến số liên tục.  
Ngương tiêu chuẩn 130 thực ra chỉ là một ngương được đưa ra một cách  
cứng nhắc. Tiêu chí xác định TNC theo ngương 130 chỉ đơn thuần là một  
sự đồng thuận chung giữa các nhà thực hành chứ hoàn toàn không phải là  
một tiêu chí mang tính chất lượng. Kết quả nằm bên này hay bên kia của  
ngương 130 không làm thay đổi bản chất, chất lượng vốn có của trẻ. Cấu  
trúc và hoạt động của trí tuệ của trẻ có chỉ số IQ là 132 không quá khác biệt  
với trẻ có kết quả là 128. Ngương 130 trước hết chỉ là một ngương mang  
tính thống kê, một con số đơn thuần tương ứng với khoảng +2 độ lệch  
chuẩn so với trung bình. Do chỉ số IQ đi theo biểu đồ phân phối chuẩn,  
người ta ước lượng có khoảng 2,28% dân số có chỉ số IQ lớn hơn hay bằng  
130. Đối với tổng dân số Việt Nam2, sẽ có khoảng hơn hai triệu người có  
chỉ số IQ lớn hơn hay bằng 130.  
Chỉ số IQ là một chỉ dấu dấu đơn giản, khách quan của TNC. Trên  
thực tế, chỉ số này phức tạp hơn những gì đại đa số có thể tưởng tượng. Ý  
nghĩa của chỉ số này chỉ có thể được làm rõ, diễn giải chính xác bởi các nhà  
tâm lý học được đào tạo bài bản. Cũng như những đánh giá tâm lý khác,  
chỉ số IQ luôn có một khoảng sai số. Hệ số tin cậy của một trắc nghiệm và  
kiểu sai số của phép đo sẽ cho chúng ta biết về khoảng sai số của các phép  
đo của trắc nghiệm (Laveault & Grégoire, 2014). Lấy ví dụ với WISC-V,  
trắc nghiệm đo trí tuệ phổ biến nhất hiện nay dành cho trẻ em và trẻ VTN.  
WISC-V có hệ số tin cậy rất cao. Kiểu sai số của phép đo IQ của WISC-V  
2 Ước lượng dân số khoảng 98 triệu người (2019).  
55  
là 3,39. Điều này có nghĩa rằng nếu chỉ số IQ chính xác (không có sai số)  
của một trẻ là 130, chỉ số IQ quan sát được (đã bao gồm những sai số ngẫu  
nhiên không thể tránh khỏi) mà trẻ đạt được khi thực hiện trắc nghiệm  
WISC-V sẽ có 68% khả năng nằm trong khoảng +/– 3,3 đơn vị xung quanh  
giá trị 130; và sẽ có 90% khả năng chỉ số IQ quan sát được nằm trong  
khoảng +/– 5,4 đơn vị xung quanh giá trị 130. Nói cách khác, khả năng  
một trẻ có IQ thực > 130 (đủ để nằm trong nhóm TNC) nhưng chỉ có chỉ  
số IQ quan sát được < 130 (không đủ nằm trong nhóm TNC) vẫn tương  
đối lớn. Để tránh những sai số này, các nhà chuyên môn thường sử dụng  
khoảng tin cậy thay vì sử dụng trị số tuyệt đối 130 để lấy làm tiêu chí. Ví  
dụ, ngày nay các nhà chuyên môn thường nói chỉ số IQ của trẻ nằm trong  
khoảng tin cậy [125-135] thay vì chỉ đưa ra một con số tuyệt đối duy nhất.  
Niveau 3  
facteur g  
Niveau 2  
intelligence  
cristallie  
intelligence  
fluide  
moire  
générale  
Perception  
visuelle  
Perception  
auditive  
Capacité de  
rappel  
Rapidité  
cognitive  
Vitesse de  
traitement  
Niveau 1  
Hình 1. Mô hình CHC được dùng để chọn lựa các tiểu thang  
trong WISC-V  
Ghi chú: Niveau: Mức độ; facteur: nhân tố; Intelligence cristallisé: Trí  
tuệ kết tinh; Intelligence fluide: Trí tuệ lỏng/linh hoạt; Mémoire générale:  
Trí nhớ chung; Perception visuelle: Tri giác thị giác; Perception auditive:  
Tri giác thính giác; Capacité de rappel: Khả năng nhớ lại; Rapidité cognitive:  
Tốc độ nhận thức; Vitesse de traitement: Tốc độ xử lý.  
Một vấn đề khác thường gặp phải khi diễn giải chỉ số IQ là độ phân  
tác của các điểm số thành phần của các tiểu test dùng để tính chỉ số IQ  
tổng. Đa số các trắc nghiệm trí tuệ hiện đại, nhất là các trắc nghiệm của  
Wechsler, được xây dựng dựa trên mô hình cấu trúc trí tuệ của Carroll  
56  
(1993) và Cattell & Horn (1966), gọi tắt là mô hình CHC (McGrew, 2009).  
Mô hình này có ba mức độ (xem hình 1). Mức độ thứ nhất bao gồm các  
năng lực đơn giản nhất. Mức độ giữa bao gồm tám năng lực lớn chi phối  
một nhóm các năng lực đơn giản thành phần. Mức độ thứ ba được gọi là  
năng lực chung, tổng quát “nhân tố g” theo cách gọi của Spearman (1904).  
Nhân tố chung này ảnh hưởng đến tất cả các năng lực nhỏ hơn. Bản chất  
của nhân tố tổng quát này còn gây nhiều tranh cãi. Một số tác giả cho rằng  
nhân tố này là nhân tố điều hành, kiểm soát các năng lực thành phần, một  
số khác lại cho rằng đó là một thuộc tính thần kinh được thể hiện ra bằng  
tốc độ liên kết thần kinh khi phải tiến hành xử lý các hoạt động nhận thức.  
Bảng 1. Năm chỉ dấu đo lường bởi WISC-V dựa theo mô hình CHC  
Lập luận  
Lập luận  
linh hoạt  
Trí nhớ  
làm việc  
Hiểu lời nói  
thị giác  
Tốc độ xử lý  
không gian  
Tìm điểm  
tương đồng  
Xếp khối  
Ma trận  
Nhớ dãy số  
Mã hóa  
Trọng lượng  
hình ảnh  
Từ vựng  
Ghép hình  
Nhớ hình ảnh Biểu tượng  
Bộ WISC-V (2016) đánh giá 5 nhóm năng lực lớn theo mô hình CHC  
(bảng 1), mỗi nhóm năng lực gồm hai tiểu thang. Bảy tiểu thang (in đậm  
trong bảng 1) dùng để tính chỉ số IQ tổng. Do tương quan giữa chỉ số  
IQ tổng, các nhóm năng lực và các tiểu thang, chân dung trí tuệ của một  
cá nhân là không đồng nhất giữa các nhóm năng lực và các tiểu thang là  
điều thường gặp. Nói cách khác, một chân dung trí tuệ đồng đều về điểm  
số giữa IQ tổng, các nhóm năng lực và các tiểu thang hiếm khi xảy ra  
(Grégoire, 2019). Bảng 2 cho thấy tần suất của tính không đồng nhất về  
điểm số trong dân số tại Pháp trong trắc nghiệm WISC-V. Có thể thấy  
rằng 61,1% dân số trong tổng mẫu có ít nhất một tiểu thang mà điểm số  
đạt được có khác biệt đáng kể so với điểm trung bình của cả 7 tiểu thang.  
Nếu điểm số của 7 tiểu thang có độ không đồng nhất quá lớn, cần phải đặt  
lại câu hỏi về tính hiệu lực của trắc nghiệm trong việc đo lường năng lực  
trí tuệ. Khi có 3-4 tiểu thang có kết quả quá khác biệt so với trung bình, chỉ  
số IQ sẽ được hiểu như thế nào?  
57  
Bảng 2. Tỷ lệ phần trăm trẻ có một hoặc nhiều điểm số đạt được  
trong các tiểu thang có khác biệt có ý nghĩa so với điểm số trung bình  
(Grégoire, 2019)  
Số lượng tiểu thang  
Phần trăm  
38,9  
Phần trăm tích lũy  
0
1
2
3
4
>
100,0  
61,1  
26,5  
7,0  
1,9  
0,1  
34,6  
19,5  
5,1  
1,7  
0,1  
Đối với việc diễn giải chỉ số IQ, một số tác giả đã tìm kiếm những chỉ  
dấu khác để đánh giá TNC. Gauvrit (2014) đã tiến hành phân tích chi tiết  
tất cả các chỉ dấu đó (lo âu, tăng động, các nét tự kỷ, sự hài hước, độ nhạy  
cảm và tính sáng tạo). Tác giả cho rằng ngoài những thành tích trí tuệ  
cao hơn trung bình và gắn liền với quá trình phát triển sớm của cá nhân,  
không có dấu hiệu đặc trưng nào khác có thể dự báo TNC. Những dấu  
hiệu vừa nêu đôi khi kết hợp với TNC nhưng cũng tồn tại ở những cá nhân  
không có TNC và không có dấu hiệu nào là chuyên biệt dành cho TNC cả  
(Brasseur & Grégoire, 2018; Grégoire, 2021a). Những đặc điểm này không  
thể được dùng như tiêu chí xác định TNC và chỉ có giá trị mô tả, giúp hiểu  
rõ hơn chân dung của một cá nhân có TNC nào đó. Vì vậy, chúng cũng  
nên được các nhà thực hành lưu ý tới. Tuy nhiên, chúng không thể là minh  
chứng của TNC nếu không có phép đo về năng lực trí tuệ cao hơn mức  
trung bình của dân số.  
III. TIỀM NĂNG CAO VÀ SỨC KHỎE TINH THẦN  
Tồn tại một định kiến cho rằng người có TNC cũng sẽ có ít nhiều vấn  
đề về tâm lý. Hình dung về “người có tài có tật” rất phổ biến trong văn  
chương và điện ảnh. Khởi nguồn của hiện tượng này đến từ Lombroso,  
một bác sĩ tâm thần người Ý xuất bản năm 1877 một cuốn sách có nhan đề  
“iên tài và điên loạn”, trong đó tác giả phân tích cuộc đời của 36 thiên tài  
bao gồm cả Baudelaire và Newton, và khẳng định chắc nịch minh chứng  
cho sự bất ổn của các nhân vật. Tác giả qua đó khơi gợi mối liên kết giữa  
TNC và sức khỏe tinh thần trong trí tưởng tượng của cộng đồng. Một số  
tác giả hiện đại cũng theo chiều hướng này, trình bày các ca minh họa sóng  
58  
đôi giữa hai hiện tượng. Hình dung này cần phải được mổ xẻ một cách  
khoa học, vì thực ra chúng chỉ được ghi nhận và khẳng định qua những  
trường hợp mà người có TNC đi tìm kiếm những dịch vụ hỗ trợ tâm lý  
hoặc đi khám bệnh tại bệnh viện. Do đó, có hiện tượng nhiễu trong chọn  
mẫu xảy ra và chúng ta không hề có thông tin về những người TNC không  
có khó khăn về tâm lý hay sức khỏe tinh thần trong dân số chung. Những  
quan sát trong môi trường thăm khám tâm lý hoặc tại bệnh viện không  
thể được khái quát hóa thành chân dung chung của những người có TNC.  
Nghiên cứu trường diễn của (1959) cũng cho thấy có những người  
có TNC hạnh phúc, ổn định, không có vấn đề về sức khỏe tinh thần, hòa  
nhập tốt trong xã hội và nghề nghiệp. Có thể họ chính là số đông trong số  
những người có TNC trong xã hội, vì mức độ năng lực trí tuệ cao cũng là  
một yếu tố quan trọng dự báo cho khả năng thích nghi và quản lý bản thân  
(Fergusson, Horwood, & Ridder, 2005; Deary, Whalley, & Starr, 2009).  
Terman nhận thấy rằng 92% người có TNC trong tổng mẫu của ông cho  
rằng họ hài lòng hoặc rất thỏa mãn về đời sống công việc của mình; 70%  
trong số đó tốt nghiệp đại học và chỉ có 2% không hoàn thành trung học  
phổ thông; 90% hành nghề tự do hoặc đang nắm chức vụ cao trong cơ  
quan. Duy chỉ có 10% tổng mẫu có vấn đề sức khỏe tinh thần nghiêm  
trọng. Những số liệu trên cho thấy định kiến về người vừa có tài vừa có tật  
là rất phiến diện, võ đoán.  
Hơn nữa, người có TNC không sở hữu một trí thông minh khác xa  
so với những người khác xung quanh. Như đã trình bày phía trên, mức độ  
năng lực trí tuệ là một chuỗi liên tục và giá trị xác định TNC chỉ là một con  
số quy ước. Những chứng cứ khoa học hiện đại cho thấy cấu trúc và hoạt  
động của trí tuệ ở bên này hay bên kia ngương 130 là khác biệt nhau. Đa  
số những đặc điểm trí tuệ của các trẻ TNC được giải thích bởi hiện tượng  
phát triển nhận thức sớm và động cơ học tập cao (Gauvrit, 2014). Các  
năng lực nhận thức của trẻ TNC thường giống với hoạt động nhận thức  
bình thường của các trẻ lớn tuổi hơn và có nhiều kinh nghiệm hơn.  
IV. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TRẺ CÓ TIỀM NĂNG CAO  
Dù những người có TNC dường như không có nhiều rối loạn tâm lý  
hơn những người khác trong dân số, quá trình phát triển của họ không phải  
59  
không có những trở ngại, thử thách. Một trong những vấn đề then chốt mà  
người có TNC phải đối mặt chính là sự “thiếu đồng bộ (dyssynchronie)”  
theo định nghĩa của Terrassier (1981) – khoảng cách giữa sự phát triển  
nhận thức và những khía cạnh khác. Đó có thể là một khoảng cách bên  
trong giữa chiều kích trí tuệ, tâm vận động và tình cảm, và/hoặc bên ngoài  
với các bạn đồng trang lứa (hành vi, mối quan tâm khác nhau giữa hai  
nhóm trẻ cùng tuổi sinh học). Do phát triển sớm, trẻ TNC phải xử lý  
những khoảng cách này, nhưng thường các trẻ này có đủ nguồn lực để  
đối diện và giải quyết. Khi đó, sự nâng đơ của môi trường gia đình và học  
đường có vai trò rất quan trọng. Nếu cha me và giáo viên khuyến khích  
sự triển nở đặc trưng của trẻ TNC, tạo điều kiện cho sự đa dạng trong lớp  
học, trẻ TNC sẽ có thể cảm nhận được cảm giác thoải mái. Ngược lại, nếu  
gia đình và nhà trường không tạo điều kiện để trẻ TNC thỏa mãn được  
những nhu cầu học tập và khám phá đặc trưng của mình và bắt ép trẻ phải  
đi theo chuẩn chung của các trẻ cùng tuổi, những khó khăn tâm lý (thu  
mình, mất động lực, trầm cảm,…) có thể xuất hiện.  
Ngoài ra, các tâm lý gia cần ý thức rằng trẻ TNC vẫn có thể gặp những  
rối loạn tâm lý không có liên quan đến sự phát triển sớm về trí tuệ như bao  
trẻ khác, ví dụ như các rối loạn về đọc, chính tả, phối hợp vận động, các  
rối loạn cảm xúc (ví dụ như trầm cảm) và hành vi (ví dụ như tăng động  
kém chú ý). Không có chứng cứ khoa học cho thấy tần suất xuất hiện các  
rối loạn trên ở trẻ TNC là cao hay thấp hơn nhóm trẻ bình thường. Tuy  
nhiên, nếu trẻ TNC mắc các rối loạn như rối loạn đọc, điều này sẽ khiến  
việc xác định các trẻ TNC gặp khó khăn. Trong trắc nghiệm WISC-V, các  
rối loạn tập trung chú ý có thể khiến thành tích của trẻ trong các tiểu thang  
trong nhóm Trí nhớ làm việc Tốc độ xử lý bị giảm sút (Grégoire, 2019).  
Các rối loạn phối hợp vận động cũng làm giảm đáng kể thành tích của trẻ  
trong các tiểu thang Xếp khối Mã hóa. Ảnh hưởng tiêu cực của các rối  
loạn lên thành tích của trẻ trong một số tiểu thang khiến cho chỉ số IQ  
tổng cũng giảm đi, do đó chân dung của trẻ TNC có thể không xuất hiện.  
Để bù đắp cho vấn đề này, các tác giả của WISC-V khuyến nghị việc tính  
Chỉ số Năng lực chung (GAI) để thay thế cho chỉ số IQ tổng. GAI được tính  
dựa trên thành tích đạt được ở 5 tiểu thang ít chịu tác động của các rối loạn  
60  
nêu trên. Tuy vậy, GAI cũng không phải là một giải pháp toàn năng, vì bản  
thân 5 tiểu thang này cũng không hoàn toàn độc lập với một số rối loạn.  
Do đó, tâm lý gia cần thực sự cẩn trọng và diễn giải chính xác ý nghĩa của  
GAI cũng như IQ tổng, xem xét tất cả các kết quả cũng như những quan  
sát ghi nhận được xuyên suốt quá trình thực hiện trắc nghiệm.  
Bản chất của TNC gây khó khăn cho việc xác định. ực tế là chúng  
ta không đo đạc trực tiếp TNC, mà chỉ đo đạc được những hệ quả của  
nó – các năng lực trí tuệ. Các năng lực này cũng là những đặc nét tiềm ẩn,  
không thể quan sát được một cách trực tiếp mà chỉ được tiếp cận thông  
qua thành tích, kết quả của một số tiểu thang trong các trắc nghiệm trí tuệ  
hiện có. Hình 2 (Grégoire, 2012) minh họa những mối quan hệ gián tiếp  
giữa các tiềm năng trí tuệ và thành tích đo đạc được thông qua các tiểu  
thang trong các bộ trắc nghiệm trí tuệ. eo định nghĩa, các tiềm năng trí  
tuệ là những năng lực chưa hoàn toàn được hiện thực hóa mà chỉ ở dạng  
tiềm tàng phát huy cho tương lai. Chúng tồn tại từ lúc trẻ sinh ra đời trong  
các cấu trúc não bộ và các thuộc tính thần kinh. Nhờ vào các yếu tố bên  
trong (sự tò mò, tìm kiếm niềm vui, thoát khỏi sự khó chịu,...) và bên ngoài  
(tương tác với cha me, kích thích từ thế giới xung quanh,…), những tiềm  
năng bẩm sinh này mới được biểu hiện dưới dạng năng lực trí tuệ hoàn  
thiện hơn, giúp trẻ giải quyết các vấn đề ngày càng trừu tượng, phức tạp.  
Chúng ta không thể tiếp cận trực tiếp các năng lực này, mà chỉ có thể có ý  
niệm về chúng khi chúng được huy động để xử lý một vấn đề nào đó. Ví  
dụ, chúng ta không thể trực tiếp thấy cách trẻ thực hiện phép tính nhẩm  
trong đầu khi đang làm phép cộng mà chỉ thấy được biểu hiện bên ngoài  
của phép tính (dùng ngón tay, đếm thành tiếng, ghi đáp án ra giấy,…). Các  
tiểu thang trong các bộ trắc nghiệm trí tuệ là những yếu tố kích thích, huy  
động những năng lực bên trong của trẻ và giúp đo đạc tính hiệu quả của  
chúng. Các tiểu thang có vai trò như yếu tố kích thích và màng lọc. Việc  
lựa chọn các tiểu thang giúp ta có thêm thông tin về một số hiện tượng,  
nhưng đồng thời cũng khiến chúng ta không nhìn thấy một số hiện tượng  
khác. Do đó, sự lựa chọn các trắc nghiệm sử dụng để đo lường trí tuệ có  
một tầm quan trọng lớn lao. Với góc nhìn này, các trắc nghiệm trí tuệ có  
giá trị kích thích rất khác nhau tùy theo từng loại trắc nghiệm.  
61  
Ghi chú: Conditions psychologiques: Các điều kiện tâm lý; Conditions de  
l’environnement: Các điều kiện môi trường; Potentiel inné: Tiềm năng bẩm sinh;  
Compétences: Các năng lực; Filtre: Bộ lọc; Tâches: Bài test; Conditions d’examen:  
Các điều kiện đánh giá; Performances mesurées: ành tích đo lường được.  
Hình 2. Mối quan hệ giữa tiềm năng và thành tích đo lường được  
Phổ rộng (sự đa dạng của các vấn đề có thể giải quyết được) và hiệu  
lực (độ phức tạp của các vấn đề) của TNC có thể thay đổi tùy theo từng tác  
giả. Các điều kiện môi trường và các yếu tố cá nhân cũng góp phần thay  
đổi biểu hiện của TNC, do đó chân dung TNC của từng người cũng là độc  
nhất, không giống với ai khác. Ví dụ, một số người rất đam mê toán học và  
gia nhập các hội nhóm, thảo luận với các nhà toán học nổi tiếng. Có những  
người khác lại chuyên tâm vào không gian ba chiều và hứng thú với những  
công trình kiến trúc mới lạ. Vì sự đa dạng của trải nghiệm cá nhân và ảnh  
hưởng của rất nhiều những yếu tố bên trong lẫn bên ngoài, chân dung các  
năng lực của một trẻ TNC có thể rất khác với các trẻ TNC khác và cũng  
rất không đồng nhất. Nhóm những người TNC do đó cũng là một nhóm  
nhiều màu sắc.  
62  
Ghi chú: Temps: thời điểm.  
Hình 3. Sơ đồ phát triển rất đa dạng của các loại tiềm năng theo thời gian  
Ngoài ra, biểu hiện của TNC cũng không nhất thiết phải ổn định và  
các tiềm năng không phải lúc nào cũng ở trạng thái tối ưu trong suốt quá  
trình phát triển (Hình 3). Sự ổn định của chỉ số IQ trong cuộc đời của  
một cá nhân tương ứng với xu hướng trung bình so với phần đông dân số,  
nhưng ở mức độ cá nhân thì vẫn có những biến thiên lên xuống theo thời  
gian, nhất là trong giai đoạn trẻ em và trẻ VTN, khi độ linh hoạt mềm dẻo  
của não bộ vẫn còn rất lớn (Grégoire, 2019). Sau một số sự kiện gây sang  
chấn, thiếu hụt giáo dục hay rối loạn cảm xúc, quá trình phát triển của các  
tiềm năng trí tuệ có thể bị kéo chậm lại, do đó chỉ số IQ có thể giảm xuống.  
Nên nhắc lại rằng IQ thể hiện vị trí của một người so với những người  
khác cùng độ tuổi sinh học. Trong một khoảng thời gian, nếu quá trình  
phát triển của một cá nhân là chậm hơn so với đa số các cá nhân khác cùng  
tuổi, vị trí của người này trong phân phối IQ sẽ kém hơn. Ngược lại, những  
điều kiện thuận lợi sẽ giúp đẩy nhanh quá trình phát triển nhận thức và do  
đó, vị trí của cá nhân so với phân phối của chỉ số IQ sẽ được cải thiện. Vì  
thế, các tâm lý gia cần phải rất thận trọng khi đưa ra tiên lượng dựa trên  
chỉ số IQ đo được tại một thời điểm nhất định. Những tiên lượng này chỉ  
có ý nghĩa về mặt khả năng tiến triển của cá nhân chứ không thể là một  
sự thật hiển nhiên, chắc chắn. Một số trẻ TNC cho rằng cho dù trẻ không  
cần học bài, trẻ vẫn có thể đạt được thành tích cao trong học tập chỉ vì trẻ  
là trẻ TNC. Đó là một suy nghĩ có phần phiến diện và sai lầm, vì nếu liên  
63  
tục không học bài, trẻ hoàn toàn có thể phải đối diện với nguy cơ thất bại  
trong học tập, giảm hứng thú, thậm chí kéo chậm lại quá trình phát triển  
nhận thức.  
V. KẾT LUẬN  
Chúng ta có thể kết luận gì về những tiêu chí xác định TNC?  
Tiêu chí cơ bản để cho rằng một trẻ TNC là việc người đó có khả năng  
học cái mới nhanh chóng và dễ dàng hơn những người cùng tuổi. Trong  
suốt thời thơ ấu và VTN, lợi thế này đồng nghĩa với quá trình phát triển  
sớm của những năng lực trí tuệ và thể hiện thông qua thành tích rất cao  
trong những trắc nghiệm trí tuệ so với những trẻ cùng độ tuổi.  
Sự tồn tại của nhân tố tổng quát (nhân tố g) ảnh hưởng đến tất cả các  
hoạt động trí tuệ giúp một số cá nhân có TNC đạt được những thành quả  
rất cao trong nhiều lĩnh vực nhận thức khác nhau. Tuy nhiên, quá trình  
phát triển của người có tiềm năng trí tuệ cao là không đồng đều giữa các  
lĩnh vực nhận thức. Kết quả vượt trội có thể chỉ được thể hiện trong một  
số lĩnh vực nhất định, do đó kết quả của bộ trắc nghiệm trí tuệ có thể cho  
thấy sự không đồng nhất. Vì vậy, nếu cho rằng chỉ số IQ là chỉ dấu đáng  
tin cậy của TNC, những người có TNC nhưng không đồng đều giữa các  
lĩnh vực sẽ gặp bất lợi. Điều đó có nghĩa rằng ta không nên. Việc một ai  
đó dù chỉ số IQ tổng không đạt ngương 130 nhưng lại có một số lĩnh vực  
vượt qua cột mốc này không phải là hiếm. Do đó, điều quan trọng là xác  
định được những khu vực, lĩnh vực TNC khi diễn giải kết quả (Brasseur &  
Cuche, 2017).  
Chúng ta cũng không quên rằng chỉ số IQ chỉ là một ước lượng về  
năng lực trí tuệ của một cá nhân và chỉ số này chịu ảnh hưởng từ rất nhiều  
nhân tố (nhận thức và phi nhận thức). Để xem xét những yếu tố ảnh hưởng  
này, việc thực hiện các phép đo IQ (trắc nghiệm trí tuệ) cần được tiến hành  
trong những điều kiện được kiểm soát và việc diễn giải kết quả phải do  
một nhà chuyên môn được đào tạo thực hiện. Việc xác định TNC không  
dừng lại ở việc xác định nhị phân (có/không có), mà luôn phải suy xét một  
phổ thông tin rộng hơn: cách thức hoạt động của chủ thể trong bối cảnh  
sống của họ trong thực tế.  
64  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
Binet, A., & Simon, . (1905). Méthodes nouvelles pour le diagnostic du niveau  
intellectuel des anormaux. L’Année Psychologique, 11, 191-244.  
Brasseur, S. & Cuche, C. (2017). Le haut potentiel en question. Bruxelles: Mardaga.  
Brasseur, S. &Grégoire, J. (2018). Lesjeunesàhautpotentielsont-ilshyperémotifs?  
A.N.A.E., 154, 289-297.  
Carroll, J.B. (1993). Human cognitive abilities. Cambridge: Cambridge University  
Press.  
Deary, I.J., Whalley, L.J. & Starr, J.M. (2009). A lifetime of intelligence. Follow-up  
studies of the Scottish mental surveys of 1932 and 1947. Washington, DC:  
American psychological Association.  
Fergusson, D.M., Horwood, L.J. & Ridder, E.M. (2005). Show me the child at  
seven II: childhood intelligence and later outcomes in adolescence and  
young adulthood. Journal of Child Psychology and Psychiatry, 46, 850-858.  
Gardner, H. (1983). Frames of mind: e theory of multiple intelligences. New  
York: Basic Books.  
Gauvrit, N. (2014). Les surdoués ordinaires. Paris: PUF.  
Grégoire, J. (2012). Les défis actuels de l’identification des enfants à haut potentiel.  
A.N.A.E., 24, 419-424.  
Grégoire, J. (2019). L’examen clinique de l’intelligence de l’enfant. Fondement et  
pratique du WISC-V. Mardaga.  
Grégoire, J. (2021a). Autisme et haut potentiel intellectuel. In N. Gauvrit & N.  
Clobert (Eds.), Psychologie du haut potentiel, 295-308. Bruxelles: De Boeck.  
Grégoire, J. (2021b). L’identification du haut potentiel. In N. Gauvrit & N. Clobert  
(Eds.), Psychologie du haut potentiel, 203-220. Bruxelles: De Boeck.  
Horn, J.L. & Cattell, R.B. (1966). Refinement and test of the theory of fluid and  
crystallized general intelligences. Journal of Educational Psychology, 57,  
253-270.  
Laveault, D. & Grégoire, J. (2014). Introduction aux théories des tests en psychologie  
et en éducation (3e édition). Bruxelles: De Boeck.  
Lombroso, C. (1877). Genio e follia. Milano: Hoepli. (Trad. française, Alcan,  
1890).  
McGrew, K.S. (2009). CHC theory and the human cognitive abilities project:  
Standing on the shoulders of the giants of psychometric intelligence  
research. Intelligence, 37, 1-10.  
65  
Spearman, C. (1904). General intelligence: objectively determined and measured.  
American Journal of Psychology, 15, 201-293.  
Terman, L.M. (1916). e measurement of intelligence. Boston: Houghton Mifflin.  
Terman, L.M. (1925). Mental and physical traits of a thousand gifed children. Vol.  
1, Genetic studies of genius. Stanford, CA: Stanford University Press.  
Terman, L.M. (1959). e gifed group at mid-life. Vol. V, Genetic studies of genius.  
Stanford, CA: Stanford University Press.  
Terrassier, J.-C. (1981). Les Enfants surdoués ou la précocité embarrassante. Issy-  
les-Moulineaux: ESF.  
Wechsler, D. (2016). Manuel de l’échelle d’intelligence de Wechsler pour enfants  
(5e édition). Paris: Pearson-ECPA.  
66  
pdf 15 trang baolam 16/05/2022 5900
Bạn đang xem tài liệu "Một số vấn đề liên quan đến việc xác định trẻ tiềm năng cao", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfmot_so_van_de_lien_quan_den_viec_xac_dinh_tre_tiem_nang_cao.pdf