Giọng điệu trong tản văn Việt Nam từ năm 1986 đến nay

14  
TRƯỜNG ĐẠI HC THỦ ĐÔ HÀ NỘI  
GIỌNG ĐIỆU TRONG TẢN VĂN VIỆT NAM  
TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY  
Nguyn ThThu Hà  
Trường Đại học Văn hóa Thể thao và Du lch Thanh Hóa  
Tóm tt: Từ năm 1986 đến nay, tản văn là một trong thloại văn học năng động nhất, được  
đông đảo độc giả yêu thích, đón nhận bi slinh hot, ngn gn, hàm súc. Các cây bút tn  
văn thường đi sâu vào đời sng hin tại để cgng tìm tòi, phát hin những điều tt đẹp nht  
ca mt thời vang bóng cũng như phản ánh kp thi nhng vấn đề nóng bng ca xã hi.  
Giọng điệu ca tản văn thời kì này thay đổi mt cách linh hot, có khả năng lan tỏa vào thế  
gii bên trong tâm hồn người đọc. Đó là giọng điu trtình sâu lng kết hp vi giọng điệu  
suy tư, triết lí; giọng điệu hài hước, giu nhi; xót xa, ngậm ngùi,… trước những đổi thay  
nhiu mt ca thế thái nhân tình. Đôi khi, bắt gp tản văn những điều gin dị, bình thường  
nhưng lại chứa đựng giá trto ln. Bài viết này tập trung phân tích, làm rõ hơn giọng điệu  
đặc sc ca mt scây bút tản văn đương đại để khẳng định giá trị độc đáo của thloi này.  
Tkhóa: 1986, giọng điệu, tản văn, thế kỷ XXI, văn học Vit Nam.  
Nhn bài ngày 2.5.2021; gi phn bin, chnh sa và duyệt đăng ngày 21.7.2021  
Liên htác gi: Nguyn ThThu Hà; Email: hathuha85@gmail.com  
1. MỞ ĐU  
Tản văn là thể loi có mt ngay tnhng chặng đầu của văn học hiện đại Vit Nam. Từ  
thp niên thhai ca thế kXX, các tản văn của Tản Đà, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyn Bá  
Trác, Đạm Phương,... đã được độc giả yêu thích và đón nhận như nhiều thloại văn xuôi  
hiện đại khác. Đặc bit từ sau năm 1986, với nhng chuyn biến mnh mvchính tr, kinh  
tế, xã hội, văn hóa và văn học nói chung, tản văn đã có sự khi sc và bùng nổ, là “thời ca  
tản văn”. Với tư cách là một thể văn xuôi quan trọng, tản văn từ sau năm 1986 đã góp phần  
đáng kể vào vic dân chhóa nền văn hc Vit Nam. Nói cách khác, tản văn có vai trò không  
nhtrong vic kiến to din mo của văn học Vit Nam thời kì sau Đổi mi. Từ năm 1986  
đến nay, tản văn đã có rt nhiu tác phm có giá trgn lin vi các tác gitên tui. Vì vy,  
tiếp cn tản văn từ phương diện nghthut ca tác phẩm, trong đó tìm hiểu vgiọng điệu  
ca tản văn từ sau 1986 đến nay trthành mt trong những phương thức để chúng ta xác  
định phong cách ca từng nhà văn và cũng là để người đọc tri nhn vbn thân, vcuộc đời,  
vnhng giá trct lõi của đời sng. Trong tác phẩm văn học, ngôn tnghthuật được cá  
thhóa vi những đặc điểm riêng ni bt. Tác phm nghthut là skết cu ca những “gam  
giọng điệu”. Điều này đã làm nên “ngôn ngữ chính văn” của tng loi hình nghthuật và để  
TP CHÍ KHOA HC S52/2021  
15  
phân biệt đặc trưng của các loại hình. Do đó, đối với nhà văn, giọng điệu là yếu tquan trng  
góp phn to nên phong cách tác gi, thiếu đi giọng điệu, nhà văn sẽ không thto nên tác  
phẩm, không có “tiếng nói” riêng. Cũng như các thể loại văn học khác, làm nên thành công  
ca tản văn là sự hài hòa gia giá trni dung và hình thc nghthut. Có thnói, du n  
ca tản văn từ sau năm 1986 đến nay là sự phong phú, đa dạng trong giọng điệu ca các tác  
gi, khi thì ging trtình, khi giọng suy tư chiêm nghiệm, khi thì giọng hài hước giu nhi,  
hoc có thtiến hành phi giọng,… Những đặc sc vgiọng điệu ca các cây bút tản văn từ  
sau năm 1986 đến nay đã góp phần đem đến mt din mo mi cho thloại văn học này.  
2. NI DUNG  
2.1. Giọng điệu trong tác phẩm văn học  
Trong tác phẩm văn học, giọng điệu không phải được thhin chnói cái gì (ni dung  
nói) mà chỗ nói như thế nào (hình thức nói). Cũng giống như giọng nói của con người,  
giọng điệu ca tác phẩm văn học mang tính tng hợp và độc đáo, là yếu tố có độ tin cy cao  
để nhận ra người nói cũng như tác giả ca mt tác phẩm nào đó. Giọng điệu không chthể  
hin nhn thức, thái độ, tình cm, ni lc của nhà văn mà còn là nét riêng mang giá trị thm  
mĩ. Sê khp khẳng định: “Muốn đánh giá một nhà văn mới vào nghhãy xem ngôn ngca  
anh ta. Nếu anh ta không có cái ging riêng, anh ta khó lòng trthành một nhà văn thực  
thụ”. Tuốc-ghê-nhép có lí khi cho rằng: “Cái quan trọng của tài năng văn học,… vâng, vả  
lại tôi nghĩ rằng, cũng có thể trong bt kì một tài năng nào, là cái mà tôi muốn gi là ging  
nói của mình”. Theo Từ điển thut ngữ văn học: “Giọng điệu là thái độ, tình cm, lập trường  
tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối vi hiện tượng được miêu tthhin trong lời văn quy  
định cách xưng hô, gọi tên, dùng t, sắc điệu tình cm, cách cm thxa gần, thân, sơ, thành  
kính hay sung sã, ngi ca hay châm biếm. Ngoài ra, giọng điệu còn phn ánh lập trường xã  
hội, thái độ tình cm và thhiếu thẩm mĩ của tác gi, có vai trò rt ln trong vic to nên  
phong cách nhà văn và tác dụng truyn cảm cho người đọc. Thiếu mt giọng điệu nhất định,  
nhà văn chưa thể viết ra được tác phm, mặc dù đã có đủ tài liu và sp xếp trong hthng  
nhân vật...” [6; tr.134-135]. Giọng điệu là mt yếu tố đặc trưng của hình tượng tác gitrong  
tác phm. Nếu như trong đời sống, thường chnghe ging nói nhận ra con người thì trong  
văn học, giọng điệu giúp nhn ra tác gi. Nói cách khác, tùy vào hoàn cnh giao tiếp, bao  
nhiêu nhân vt tham gia giao tiếp thì có by nhiêu giọng điệu.  
Bên cạnh đó, giọng điệu là mt phm trù thẩm mĩ mang tính tổng hợp cao độ. Vic phân  
chia giọng điệu trong tng tác phm không hề đơn giản. Nếu căn cứ vào cm hng chủ đạo  
có thchia thành ging bi, ging hài, ging bi - hài, ging anh hùng ca,... Nếu căn cứ theo  
khuynh hướng tình cm thì có thcó ging phê phán; ging châm biếm, đả kích; ging ngi  
ca,... Trên thc tế, trong tác phm nhng giọng điệu trên không thtách bch nhau, chúng  
đan xen vào nhau, cộng hưởng ln nhau to nên sphong phú cho tng tác phm. Nguyn  
Đăng Điệp đã phân chia giọng điệu thành hai loi: Giọng điệu cá nhân và giọng điệu thi  
đại. Theo tác giả: “Ở đây, diễn ra sự tương tác hai chiều: Mt mt giọng điệu cá nhân chu  
sự quy định, ảnh hưởng ca giọng điệu thời đại, mt khác, giọng điệu cá nhân, nht là nhng  
16  
TRƯỜNG ĐẠI HC THỦ ĐÔ HÀ NỘI  
cá nhân tài năng, góp phần làm phong phú, thậm chí làm thay đổi cu trúc giọng điệu thi  
đại” [3; tr.14]. Giọng điệu không chmang ni dung tình cm mà còn thhiện thái độ ca  
tác givhin thc cuc sng. Một nhà văn tài năng bao giờ cũng phải tạo được mt ging  
điệu độc đáo. Giọng điệu gn vi cm hng chủ đạo, ging điệu góp phần tăng giảm hiu  
sut cm xúc ca tác phẩm văn chương. Thông qua giọng điệu, người đọc có thnhn ra  
chiều sâu tư tưởng, thái độ, tình cảm, tài năng, phong cách cũng như sở trường ngôn ng,  
cm hng sáng to của người nghệ sĩ. Người nghệ sĩ trong quá trình sáng tạo đều cgng  
đều xác lp cho mình giọng điệu riêng, mt giọng “trời phú” mang nội dung khái quát nghệ  
thut, phù hp với đối tượng thhin. Kho sát giọng điệu ca tản văn Việt Nam tsau 1986  
đến nay, chúng tôi nhn thy có các kiu giọng điệu tiêu biểu như: giọng điệu trtình, ging  
điệu suy tư, triết lun và giọng điệu hài hước, giu nhi.  
2.2. Giọng điệu trong tản văn Việt Nam từ 1986 đến nay  
2.2.1. Giọng điệu trtình  
Mi mt trang tản văn đều cht cha nhng tình cm, schân thành của người viết về  
các vấn đề của đời sng chính tr, xã hội, con người. Trong đời sống đầy biến động y, tn  
văn đã truyền vào lòng người đọc nhng rung cảm sâu xa. Con người hiu vcuc sống hơn,  
vi những điều đúng sai, phải trái. Ttrong tản văn, con ngưi biết yêu cuc sống này hơn,  
yêu cnhững điều nhnht mà bấy lâu nay văn học dường như không đcập đến. Nhà văn,  
bng snhy cm ca tâm hồn đã thấu hiu sâu sc các vấn đề của đời sng xã hi; chia sẻ  
với độc gitt cnhng gì tmình tri qua, tmình cm thy trong ni tâm ca mình. Nói  
cách khác, nhà văn đang viết vnhng svic ca chính bn thân mình và dù có viết về  
người khác thì mục đích vẫn hướng đến con người tác gi. Do đó, cái mà tản văn muốn bám  
vào chính là những rung động cm xúc ca mt trái tim chân tht, mt stri nghiệm độc  
đáo, tỉnh táo tng cây bút.  
Đỗ Bích Thúy sinh ra và ln lên mảnh đất Hà Giang, nên nhng trang viết ca chị đều  
gn vi núi rng. Trong tp tản văn Đến độ hoa vàng, tác giả đã thể hin ni nhớ nhung đậm  
cht trtình trong tng câu chvề “cái thung lũng đã nuôi ba đứa con trưởng thành và ba  
đứa con như ba con cò ích kỉ đã bay đi, thật xa, đến một nơi mà tiếng chim hót đã biến thành  
tiếng chim khóc trong lng và bìm bp, tc kè thì nằm im trong bình rượu,…” (Đến độ hoa  
vàng). Cái thung lũng ấy chính là mảnh đất lưu giữ nhng knim ấu thơ của ch, vn nm  
im trong hoài niệm đầy thương nhớ. Ngay cả đến hình nh hoa chuối màu đỏ bt ngàn trên  
rừng xanh cũng đẹp lấp lánh: “Trong cái lạnh thm thía của màu đông sơn cước, càng lnh,  
hoa chuối càng đỏ. Nó đỏ đến ni mang li mt cảm giác cô đơn vô cùng” (Ngn lửa đỏ trên  
núi)Có thnói, tác phm của Đỗ Bích Thúy được chuyên chbi mt ging văn nhẹ  
nhàng, giàu cm xúc, li diễn đạt mượt mà, sâu lng. Những câu văn trải dài như giọng kể  
ththnhnhàng thì thm bên tai. Bên cạnh đó, những câu văn giàu nhịp điệu, giàu tính từ  
miêu t, giàu hình nh, so sánh góp phn to nên màu sc trtình cho các tản văn: “Những  
ngày nắng vàng như mật ong, ngọt như kẹo kéo và ấm áp như hơi thở ấy thc shiếm hoi  
gia những ngày đông buốt giá lê thê, mưa phùn sùi sụt, đất vườn nhớp nháp” (Mùa phơi  
chăn). Các từ láy đưc sdụng tràn vào trong câu văn khiến cho lời văn giàu hình tưng: lê  
TP CHÍ KHOA HC S52/2021  
17  
thê, sùi st, nhớp nháp… Ngôn ngữ gi cm, có nhịp điệu, cùng vi dòng cm xúc thiết tha,  
bi hồi đã đưa nhà văn về vi mt min hoài niệm xa xưa. Những câu văn của chị đầy cm  
xúc, cht chứa tình yêu quê hương nơi núi rng Tây Bc.  
Vi 238 tản văn đã được xut bn, giọng điệu trong tản văn Dạ Ngân vn dt dào cm  
xúc, hoài nim vcnh sắc, hương vị sn vật quê hương. Năm 2015, tập tản văn Hoa trong  
lòng do NXB Phnữ ấn hành gm 49 tản văn trải dài trong 200 trang sách ra mắt độc giả  
như những con sóng di li âm thm txã hi cun cun với bao đổi thay chóng mt. Trong  
các tản văn: Nắng vàng phơi, Xương rồng an lc, Ngày không cây, Nghch lí, Nghe lúa, Con  
cá linh diu kì, Da trong ph, Bánh lt trừ cơm,… chúng ta rất dtìm thy nhng lời văn  
giàu chất thơ, giàu nhạc tính, to những dư âm ngân nga trong lòng người đọc. Là người con  
của đồng bng sông Cu Long, DNgân tng gn bó và từng chia xa nơi đây nên chị thu  
hiu và trân trng nhng sn vật đặc thù của vùng đất quê hương. Dạ Ngân nghe thy trong  
gió nhng li thì thầm đầy xót xa của lúa: “Cây lúa và nhà nông như vợ vi chng, cthế  
mn nồng, sinh sôi, sung túc. Nhưng không ai phụ trách ai mà nhà nông chán lúa, nhà nông  
phbạc lúa để vui duyên vi nhng thkhác sinh li nhiều hơn. Những cánh đồng vn ra,  
cây mía chen vào, cây vườn tiến ra, gặp nhau người ta toàn bàn chuyn cây gì, con gì chứ  
lúa thì giống như vợ cả, già nua, cũ mèm, chán ngắt” (Nghe lúa). Viết vcon cá linh, Dạ  
Ngân gi tên nó bng mt ging điệu trìu mến, thân thương: “Không có con cá trứ danh nào  
gn lin với mùa nước nổi như con cá linh. Cá sặc ư, đó là thứ cá của đồng bưng, của năn  
lác và đồng sậy đường lờ. Cá lóc ư, mùa mưa già cá lóc đồng trra, mm và vy sáng lên  
nhưng nhất định không danh tiếng bằng cá linh” (Con cá linh diu kì). Scn trng và tinh  
tế trong câu ch, khả năng kết hp nhun nhuyn giữa “mỹ văn” và ngôn ngữ đời thường  
của người Nam Bộ đã đem đến cht ging trtình, sâu lng, giàu nhạc điệu nhưng cũng ẩn  
cha nhiu suy tư, trăn trở, ca nữ văn sĩ trước vòng xoáy cuộc đời.  
Đọc tản văn Nguyễn Ngọc Tư, có thể thy giọng điệu trong tản văn của chtht dung dị  
mà thấu đáo, nó thẩm thu, lng sâu vào bên trong vi dòng cảm xúc suy tư bất tận nhưng  
cũng không kém phần tinh tế và nhy cảm trước nhng biến thái ca cuộc đời. Không n ào,  
phô din trên bmt, giọng văn Nguyễn Ngọc Tư sâu lắng, ta ra hai no: Va bâng khuâng  
xao xuyến, nhnhàng lắng đọng, vừa trăn trở suy tư và đầy tâm trng. Nhân vt trong tn  
văn của Nguyn Ngọc Tư phần ln là những người dân quê tht thà, cht phác, thắm đượm  
nghĩa tình. Giọng văn trữ tình, nhnhàng, vừa mang đậm chất thơ, như khúc nhạc lòng  
buông ra mênh mang, vừa đầy tâm trạng suy tư được gi ra bng hàng loạt câu văn buông  
lơi, mềm mi. Nét ni bt cht ging này là những câu văn kết thúc tác phm, song li mở  
ra mt chân tri cảm xúc, suy tư nơi độc giả: “Đó chẳng phi là mt vẻ đẹp sao, không đáng  
yêu, không đáng được đáp lời sao?” (Yêu người ngóng núi)… Những câu văn ngắn, buông  
lơi như tiếng thnhẹ khơi gợi dòng suy nghĩ bâng quơ: “Ngưi ta bun nhất, cô đơn nhất là  
khi ngdy. Và khi ngoài tri nng ráo mà không biết phải đi đâu, về đâu?” (Biển người  
mênh mông). Bên cạnh đó, đọc tản văn của Nguyn Ngọc Tư, chúng ta thấy dòng cm xúc  
dn vt xót xa. Hình ảnh đôi vợ chng già cùng gng gánh mrnan ra chbán khiến ta vô  
cùng xúc động vtình cm vchng mà bình dị, thiêng liêng: “Ngồi bên nhau, ông bà tươi  
18  
TRƯỜNG ĐẠI HC THỦ ĐÔ HÀ NỘI  
rói nói cười, có khi ngt ngẽo như trẻ con lên bảy lên mười. Mt tri vói qua mái hiên quán  
htiếu mì, ông già xích ra sau lưng bà già, che nắng. Ckhoai luộc luôn được blàm hai  
na, ri li bhai ckế tiếp. Khách ghé qua, bà nói rnày xài bền vô phương. Ông nói bả  
đương rổ tiếng tăm từ hi con gái. Bà li nói ng nt vành khéo, chc chn lm. Ông li nói,  
bả vót nan đều trân, đó, thím coi… Nồng m và âu yếm. Bà ngi bên phi thì ông già sẽ hơi  
nghiêng vai vbên phi. Hôm bà li hi bên trái vai ông lch hn vtrái. Cái kiu ngi làm  
tôi va mắc cưi va cảm động” (Mua vài đồng nh). Nhcht ging trtình sâu lng, bàng  
bạc, suy tư này mà tản văn Nguyễn Ngọc Tư rất giàu chất thơ và dễ xao động lòng người,…  
Trong sáng tác ca Nguyn Quang Thiu, giọng điệu trtình hoài nhhin din trong  
nhng tản văn viết vvẻ đẹp ca làng quê bng cái nhìn hi c. Khung cảnh làng quê xưa  
cũ mộc mạc và nên thơ vốn đã in đậm trong ký c của nhà văn như một du son không thể  
phai mờ. Đó là những câu văn miêu tả dt dào cm xúc vthuở ấu thơ được sng bên m,  
bên bà: “tôi sống làng quê, nơi có những khu vườn hoang ni nhau từ đầu làng chạy đến  
cui làng. Suốt ba năm liền, tby tuổi đến mười tui, tôi mc bnh mộng du. Đấy là sau  
này mtôi nói li với tôi như thế. Suốt ba năm đó, bà nội tôi và mẹ tôi đã lo sợ cho tôi. Cứ  
đêm xuống, bà và mtôi bắt đầu đóng cửa kỹ lưỡng và canh chừng tôi” (Mt lối đi của thế  
gian). Bên cạnh đó, giọng điệu trtình trong tản văn của Nguyn Quang Thiều còn được to  
nên bi chính bản thân đối tượng thẩm mĩ. Chỉ bng vài chi tiết tcnh, tác giả đã khắc ha  
được vẻ đẹp lãng mạn và nên thơ của những đầm sen mênh mông nơi làng quê một thi.  
“Trong tiếng mưa đêm mùa hạ ấy, tôi thấy hàng đàn cá chép lấp lánh bay lên từ đầm nước  
rng lớn trước cửa nhà. Như một thói quen, sáng hôm sau tôi li chạy như bay ra bờ đầm  
nước. Và trên mặt nước lp lánh bui hừng đông, tôi nhận thy nhng mầm sen như những  
thi bạc sáng đâm thẳng lên mặt nước. Và chmt tun sau, cả đầm nước đã phủ kín mt  
màu lá xanh như ngọc và ngào ngạt hương” (Trong tiếng vng những mùa sen đã chết). Viết  
về điều này, ngòi bút của nhà văn tỏa lan chất thơ đằm thm. Những câu văn như dẫn dt  
đc givào mt không gian vừa tĩnh lặng vừa nên thơ. Giọng điệu trtình trong tản văn  
Nguyn Quang Thiều ít được to bi vcu kì mlca ngôn từ. Ngược li, chất thơ trong  
các trang viết y xut phát tchính vẻ đẹp nơi cuc sống đời thường. Nhng cm nhn tinh  
tế ca mt tm hn nhy cảm đã giúp nhà văn chọn lc các yếu tthẩm mĩ tự thân, đem lại  
vẻ đẹp mc mc, bình dtrên những trang văn.  
Cũng như Nguyn Quang Thiu, giọng điệu trtình trong tản văn Nguyn Hà là nhng  
say sưa trong dòng hoài niệm tình yêu với quê hương qua hình ảnh trái nhót bình dị. Đọc tn  
văn Nhót - ni xa quê, chúng ta thấy được tâm trạng rưng rưng xúc động khi nhc vquê  
hương vi tình cảm thân thương của tác giả: “Người quê tôi hái lấy nõn cây khoai nước (mt  
thứ khoai môn) đã sắp ngoi lên mthành lá, ri bt con cua cha gt ly trng ca nó p  
quanh trái nhót, ly tng chiếc lá nõn khoai gói li, thvào ni canh cua (...) Canh cua đồng  
có nhót trng cua tuy vn gọi riêu cua, nhưng chan vào chén cơm, bát bún có sắc màu, mùi  
vkhác hn (...). Li na, nhót là thtrái rất đỗi bình dân, nhưng (...) cách ăn (...) lại có vẻ  
(...) quý phái, nht là vi các cô thiếu nththành. Hãy nhìn kìa (...) cô bn gái nhúp trên  
hai đầu ngón cái và ngón tr(...) chùi chùi vào chiếc áo len (...) nhng vy li ti trên vtrái  
TP CHÍ KHOA HC S52/2021  
19  
nhót bong ra, bám óng ánh trên sợi len đan như hàng trăm mảnh xà ctí xíu (...) cô bạn đưa  
lên ming (...) gia hai hàm răng trắng nut (...) khi ấy trái nhót đâu chỉ còn là trái nhót?  
Trông mà clẫn, đôi làn môi mọng đỏ, đang ngậm ly một làn môi tương tự!” (Nhót - ni  
xa quê). Giọng điệu trtình trong tản văn còn thể hin cung bc cm xúc say mê, phiêu du  
trong cm hng viết về tình yêu đôi lứa, một trái tim khao khát yêu đương mãnh liệt ca  
Hamlet Trương: “Nếu em hỏi tôi ý nghĩa của yêu thương, sao lại chcó thể đến qua đôi bàn  
tay, tôi có thchng minh vi em, cái nm tay còn nhiều ý nghĩa khác nữa… Nếu anh y  
nắm tay em, nhưng lại chnhnm cổ tay. Đó có lẽ là vì anh y sbàn tay thô ráp ca mình  
sẽ làm đau những ngón tay mầm măng yếu đuối ca em. Anh y không muốn làm em đau,  
dù là trong hành động nhbé nht. Nên cái nm cổ tay đó, gần như là lời ha sbo vem  
trên con đường mà chai sẽ cùng nhau đi tới…” (Tay tìm tay níu tay). Có thnói, giọng điệu  
trtình trong tản văn từ sau 1986 đến nay chính là li giãi bày tâm tình ca tác giả trước  
hin thực đời sng. Giọng điệu trtình nhnhàng, sâu lắng, đậm chất thơ, như khúc nhạc  
lòng cất lên đầy cm xúc; ở đó có những hoài nim vquá kh, vbn sắc văn hóa vùng  
min, nhng câu chuyn về tình yêu đôi lứa hay nhng cm trải trước dâu b, biến thái ca  
cuộc đời,... Tt cthm thu, lng sâu vào tâm hn người đọc, gi lên trong mi chúng ta  
nhng min kí c sâu thẳm, đồng thi khẳng định nim thào dân tc, những nét đẹp văn  
hóa, phong tc tập quán lâu đời trong cộng đồng các dân tc Vit Nam.  
2.2.2. Giọng điệu suy tư, triết lun  
Giọng điệu suy tư, triết lun là kết quca nhng tri nghim cá nhân, ca nhng suy  
ngẫm, trăn trở vcuộc đời, con người,... Đó có thể là tri nghim ca nhân vật, cũng có thể  
là suy ngm của người trn thuật. Nhà văn khi nhập vào nhân vật để bc l, tâm tình, chia  
sẻ, khi đóng vai người quan sát, lắng nghe, đối thoi, khi li trc tiếp bc lộ quan điểm ca  
mình. Giai đoạn sau năm 1986, đất nước bắt đầu thc hin công cuộc đổi mi, cuc sng  
con người dn hin ra với đầy đủ muôn mặt đời thường. Để nhn thức được giá trcủa đời  
sống, con người buc phải suy nghĩ tìm tòi thông qua sự chiêm nghim ca cá nhân. Nếu  
như tản văn giai đoạn trước là những suy tư của người viết vnhng vấn đề ln lao của đất  
nước, thì tản văn giai đoạn này hướng đến nhng xô b, thô nhám ca sphn cá nhân trong  
cuc sống thường ngày. Giọng điệu trong tản văn giai đoạn này va tnhiên dân dã vừa trĩu  
nặng suy tư, vừa giàu cht khái quát, triết lí, trải đời vừa đậm tính đa thanh.  
Trong tản văn Bát Phca Nguyn Bo Sinh ta thy rt rõ giọng điệu suy tư triết lun.  
Có khi là ssuy ngẫm, trăn trở của cái tôi ưu tư khi nhận thức trước nhng hin trng bun  
ca cuc sống: “Những hàng cây Hà Nội đang bị tàn phá bi lí trí trái vi thiên nhiên ca  
con người phá hoại”. Trong tản văn Bát Ph, ta còn bt gp khá nhiu các kiu câu htrcho  
việc đưa ra nhng minh triết nhm tạo nên dư vị suy tư triết lý như cấu trúc nhân quả: “Bát  
Phthu hiu bcon là cái nợ đồng ln cho nên không bao giBát Phtrách con cái mình  
mà Bát Phchỉ thương thôi”,…; hay cấu trúc song song vi stn ti ca nhiu mệnh đề,  
nhiu giả định khiến người đọc bcun theo những suy tư của tác giả: “Trong vòng đời dch  
đng thì cái cui cùng li là cái bắt đầu”. Kết hp vi li tchc ngôn ng, tác gikhéo léo  
lng ghép nhng hình nh n dụ, tượng trưng để to nên nhng n ý vtriết lý đạo và đời.  
20  
TRƯỜNG ĐẠI HC THỦ ĐÔ HÀ NỘI  
Khi bàn lun về con đường đi tìm đạo, tác giả đã dùng hình ảnh: “Cưỡi trâu tìm trâu sao thy  
trâu. Trong ta tìm ta thấy đâu”. Liên tưởng từ “Mười hai bức tranh chăn trâu” của Thin  
Môn, tác giả đã vận dng, ng chiếu để giúp chúng ta thấy được tâm thế tìm đạo.  
DNgân, một người luôn suy tư, trăn trở với đời sng, tái hin nhng vấn đề của đời  
sng bng cht giọng đầy trăn trở, day dt. Bng ngòi bút chân tht, tác giả đã tái hiện cnh  
giao thông của nước ta qua tản văn chkt xe. Hay là những trăn trở, suy tư về cuc sng  
đời thường qua hình nh mt chàng trai thanh niên làm nghlái xe ôm không biết chgia  
một đất nước đang phổ cp giáo dục như hiện nay trong tản văn Có lnào. Kho sát tản văn  
Nguyễn Vĩnh Nguyên, chúng tôi nhận thấy đặc sc nht trong nghthut ca anh là ssc  
so qua những câu văn chứa nhiều hàm ý. Người đọc sbt ngkhi nhn thy những đồ  
vt tầm thường, vô tri, vô giác y li trnên sống động, có hn, trthành chng nhân ca  
mt thời đại nhiu biến đổi. Không nhng thế, chúng còn là nhng biểu tượng văn hóa của  
các câu chuyn vlch sử, văn hóa, tâm thức, tập tính con người. Nhìn nhn vcác hin  
tượng xã hội đang nổi lên như: thói quen thích đọc hung tin, ngập nước, ngậm tăm, nhạc  
chế, slc quan hão, cà phê cóc va hè,... nhà văn thể hiện thái độ bao dung, ttại, đôi khi  
vi giọng điệu đầy suy tư, hài hước, truyn tải được nhng dliu khtín, cho thy stn  
ti ca những điều phi lí nhưng lại rt hiển nhiên trong đời sng chúng ta. Cái hp dn ca  
tng câu chuyn là những ghi chép, tìm tòi tư liệu khá di dào ca một người đọc rng và  
sâu. Đó còn là sự hài hước, trào lộng nhưng rất nhiu khám phá, gi mthú vca tác giả  
khi bàn luận đến các mt trái của đời sng xã hi.  
Nhắc đến vườn có lẽ ở thôn quê ai cũng có cũng có một khu vườn, thm chí là rng rãi  
có thtrng cây, thả cá, nuôi gà. Nhưng với người thành phố khu vườn vi hli chcó  
trong giấc mơ Nhớ vườn ca Nguyn Nht Ánh. Tuổi thơ êm đềm ca tác gisng có thể  
nói ln lên gn bó với khu vườn. Đó là những buổi trưa hè, đi bắt ve sầu, đi hái cỏ gà, hay  
hái trái ổi trong vườn. Nhưng bây giờ đối với người sng Sài Gòn, tt cả điều đó thật xa  
xăm. Bởi lmun mua một khu vườn thành phphi có tht nhiu tin, trong khi nghề  
viết văn để có đủ tin mua mảnh vườn như thế thật khó khăn. Sở thích và ước mơ của con  
người đôi khi cũng khó thực hin bi scan thip của đồng tin. Có những người biết được  
ước mơ và hiện thực đang ở đâu để điều chnh những hành động ca mình. Tuy nhiên, vn  
có không ít những người vì đồng tin mà tha hóa, biến cht.  
Nói vvấn đề tin mng tui, tác phm Sách của con đâu - Nguyn Nhật Ánh cũng  
phn ánh hin thc trong phong tc của người Việt đến nay có nhiu vấn đề phải suy nghĩ.  
Tc llì xì ngày tết không biết có tbao gi, trẻ con mong đến ngày tết để được nhn lì xì.  
Nhng trnhỏ được ba mẹ đưa đi chúc tết hết nhà này đến nhà nvà kiểu gì cũng được chủ  
nhà mng tuổi. Có đứa trba ngày tết cũng không chịu đi chơi đâu chỉ đợi ở nhà để cô dì  
chú bác đến chơi và rồi sẽ được mng tui. Mc dù trẻ con sung sướng vì tiền lì xì nhưng lại  
ni khscủa người ln. Nhng nhà có hoàn cnh eo hp tến đến chy tiền lì xì đã toát mồ  
hôi như đi chạy go. Li còn chuyn lì xì ít lì xì nhiu, ri là chuyn bình phẩm người này  
keo kiệt người kia rng rãi,... Tự nhiên cũng vì chuyện lì xì mà người ta ngại đến thăm nhau  
trong dp tết. Theo tác giskhông lì xì bng tin trong ngày tết mà nên lì xì bng sách có  
TP CHÍ KHOA HC S52/2021  
21  
lsẽ có ý nghĩa hơn. Tuy nhiên vấn đề lì xì cũng là vấn đề nhiều người trăn trở nhưng đã là  
truyn thng ca cmt dân tc thật khó để thay đổi.  
Tình yêu đôi lứa luôn là mt n skhó lí gii, và vì khó lí giải nên tình yêu muôn đời  
vẫn đẹp, muôn đời người ta vẫn đi tìm. Nhà văn Phan Ý Yên đã đưa ra rất nhiu chiêm  
nghim vtình yêu, có lẽ trên cơ sở kinh nghim và stng tri cùng vi khả năng quan sát  
tinh tế ca bn thân. Trong cun sách Cà phê với người lcó rt nhiu tn mn vtình yêu.  
Trong tản văn Bạn đã biết cách yêu chính mình - Phan Ý Yên đã đưa ra chín cách để yêu  
chính mình như thực sự ở một mình, đừng tiếc nhng lời khen, đọc thơ và những câu chuyn  
lãng mn, thay đổi mc tiêu, viết thư cho chính mình, đánh giá lại nhng thbn tiếp xúc  
mi ngày, hãy vận động, kiên trì vi những đam mê, đi ngủ sm. Trong tản văn Bài hc vỡ  
lòng cho cô nàng hp dn - Phan Ý Yên cũng đưa ra những bài học để cho các cô gái to sự  
quyến rũ như hãy là chính bạn, yêu bn thân, hãy có nhng quy tc ca riêng mình và tôn  
trọng nó, đừng phthuc vào li khuyên ca cô gái khác khi bn chun bhn hò, sng lành  
mnh, hãy mỉm cười,... Trong tản văn Nhng li lm con gái hay phm phi khi yêu, tác giả  
cũng bày tỏ những suy tư của bản thân như một bài hc kinh nghim cho các cô gái. Tsau  
năm 1986, cảm hng triết lun trong tản văn đã tạo nên giọng điệu đặc sc ca các tác gi.  
Cái chất suy tư, triết lun vcuc sống và con người là tâm điểm hướng đến ca các nhà  
văn. Giọng điệu suy tư, triết lun ca tản văn mang tính đối mt vi hin thực đời sống đa  
din. Những suy tư, trăn trở, chiêm nghim, lun gii về con người trong mi tác phm thể  
hin sự “càn lướt” hiện thc của các nhà văn để thu hiu, chia svà cùng nhau nhận định,  
đánh giá, đưa ra những khả năng, giải pháp tt nht có thể cho con người trong cuc sng  
nhiu bn b, phc tp.  
2.2.3. Giọng điệu hài hưc, giu nhi  
Trong văn học, giọng điệu hài hưc, giu nhi là giọng điệu khá phbiến khi ý thc về  
cái tôi cá nhân được chú trọng. Con người có nhiều cơ hội nhìn nhận, đánh giá người khác  
và chính bn thân mình trong quan hvi cộng đng. Giọng điệu hài hước, giu nhi không  
phi chỉ để gây cười mà có khả năng đánh thc những suy nghĩ của con người vcuc sng.  
Chính vì thế, một phương diện nhất định, các tác phẩm văn học mang ging nhi trthành  
công cụ thúc đẩy stiến bca xã hi. Kundera quan niệm: “Tiểu thuyết sinh ra không phi  
ttinh thn lí thuyết mà ttinh thần hài hước” [7; tr.127]. Một trong nhng nhà lí lun sm  
quan tâm đến tiếng cười trong tiu thuyết là Bakhtin. So sánh tiu thuyết vi sthi, Bakhtin  
nhn mnh tinh thn ca tiu thuyết là yếu ttrào tiếu: “Chính tiếng cười đã xóa bỏ khong  
cách sthi và nói chung mi khong cách ngôi th- giá tr- ngăn chia”. Khảo sát tiu thuyết,  
Bakhtin đã nêu lên mối quan hgia tiếng cười và tiu thuyết, mà theo cách nói ca dch giả  
Phạm Vĩnh Cư: “Tiếng cười đúng là môi sinh của tiu thuyết: nền văn hc nào vng tiếng  
cười thì ở đó tiểu thuyết hoc không thể trưởng thành, hoc thui chột” [2; tr.17].  
Tản văn Việt Nam sau năm 1986, giọng điệu giọng điệu hài hước, giu nhại được thể  
hin rõ nét trong tản văn của Đỗ Phn, bi sau tiếng cười là những băn khoăn, trăn trở ca  
tác giả trước nhng bt cp trong cuc sống hôm nay. Đọc tản văn của Đỗ Phn ta không chỉ  
22  
TRƯỜNG ĐẠI HC THỦ ĐÔ HÀ NỘI  
nhn ra một nhà văn giàu cm xúc mà còn nhn ra một nhà văn hài hước, dí dỏm nhưng cũng  
sâu cay qua giọng văn vừa như giỡn li vừa như châm biếm: “Chữ “Tâm” đôi khi có mặt ở  
những nơi không biết nên cười hay nên khóc? Công an khám nhà my ông quan tham, thy  
treo trên tường chữ “Tâm” to tbmạ vàng sáng trưng…” (Phượng ơi - Đỗ Phn). Thc tế  
là nhng ông quan tham li luôn ngy trang cho mình mt vbc chân chính.  
Giọng điệu hài hước, giu nhi xut hin khá nhiu trong tản văn của Phan ThVàng  
Anh. Tản văn Cuối cùng lè lưỡi kvvic mt cô giáo dy tiếng Anh lp 7 pht hc sinh  
liếm sch chcô ngồi: “Giả stôi có con hc trong cái lp y, nếu đi hc vcháu mách, bố  
mẹ ơi hôm nay con phải liếm ghế cô,… thì tôi ắt squt cho cháu nó mt trận đến tht cả  
lưỡi vào. Bi vì, cái ni xu hcó con mt dạy đánh thầy, làm sao bng ni nhc có con  
ngoan ngoãn liếm ghế cô”. Nỗi tc gin ca bc phhuynh được thhin trong tác phm  
va lnh lùng vừa chua xót. Liên quan đến vấn đề giáo dc là phê phán sxung cp ca  
mt tng lp trí thức được gi là tiến sĩ mà lại chơi tá lả (Tá ltiến sĩ - Nguyn Vit Hà). Tá  
llà mt kiểu đánh bạc bằng bài lá tương đối bình dân, sdng bộ bài năm mươi hai cây có  
xut xtừ phương Tây mà người Vit quen gọi là “tú lơ khơ”. Các tiến sĩ ngày nay họ chơi  
đủ mi loại bài và chơi khắp mọi nơi. Có thể ngi xm cnh nhà toa lét, hoc tri chiếu dưới  
xó gm cu thang... Mt tng lp mà lra phi gichlễ đầu tiên, phi giữ được tư cách  
đạo đức lên trên để dạy đời, làm gương cho đời mà lại “tha hóa” bởi mt trò tầm thường như  
vậy. Nhà văn đã bóc trần đưc bmt ca mt tng lớp được coi là tiến sĩ.  
Sách chứa đựng kho tàng tri thc ca nhân loi, tuy nhiên trong xã hi ngày nay trí thc  
lại ít đọc sách hơn. Nguyễn Vit Hà trong tản văn Sng vi sách cho rng, từ xưa con người  
bỏ tư thế con bò, sơ khai đứng trên hai chân là chvì mun dùng tay lt chữ để khát khao  
được hc. Có mt thi ở phương Đông, khi một người có hc thì cha msdng cho mt  
túp nhà con con ngồi mà đọc sách, được gi là trai phòng. Ni tht của căn phòng đơn sơ  
nhưng quanh tường toàn là sách. Theo cun kỳ thư Liêu trai chí d, BTùng Linh thi Mãn  
Thanh nói về mùi thơm của sách quyến rũ như mùi mồ hôi của mĩ nhân, nó nghiêm lạnh như  
mùi sát khí ca báu kiếm. Trí thc bây giờ có phòng đọc riêng nhưng lại ít thấy để sách, chỉ  
thy mt dàn máy tính. Còn sinh viên thời nay đắm đuối xem truyn tranh. Thói quen đọc  
sách ít chlàm bn hddàng thích xem truyn hình. Vì thế người đọc sách ngày càng ít  
đi, đời sng con tâm hồn con người cũng đang dần khô cn. Có thnói, giọng điệu hài hước,  
giu nhi trong tản văn Nguyễn Vit Hà là tiêu biu nht. Tản văn ca anh va là smô  
phng có chủ đích từ ngôn ng, cch, giọng điệu, phong cách của đối tượng để gây cười  
và chọc cười nhm lôi ra ngoài ánh sáng sgidi, tầm thường, lbch, xấu xa đáng phê  
phán. Trong tản văn Nguyễn Vit Hà, schâm biếm, đả kích mt hiện tượng xã hi, mt  
chính sách hay những thói hư tật xu ca tng lớp lãnh đạo đều thông qua các li nhi vcác  
chủ trương, chính sách, lối sng vốn đang rất thnh hành ti Vit Nam. Tiếng cười nhiu cp  
độ từ hài hước đến ma mai, châm biếm được tác gisdụng để chế nho, chtrích, tcáo,  
phn kháng nhng cái tiêu cc, xu xa, li thời, độc ác trong xã hi. Bàn vcác vấn đề ca  
phê bình văn học, tác giva lên án, tcáo li va chế giu mt cách thâm thúy, sâu cay:  
“Nhưng nó cũng đại loi là chva nhy cm, va gi cm, va mm mi vào loi nht  
TP CHÍ KHOA HC S52/2021  
23  
trong toàn bkiếp người. Khi bmt vt gì va cng va rắn đập vào đấy thì đương nhiên  
sdễ dàng đau. Phê bình văn học Việt đã hơn một ln chính danh tnhn mình là roi. Vy  
thì hỡi ơi, có khi nào đang đánh, roi tự thấy nhưng nhức đau không” (Nhà văn thì chơi với  
ai). Bên cạnh đó, trong từng tác phm, Nguyn Việt Hà có cái nhìn đa diện, nhiu chiu;  
có khi là sự khuyên răn rất tế nh, nhnhàng mà thấm thía: “Chồng chung thy có vợ đi  
công tác xa, lo lng bây gixã hi nhố nhăng dễ làm vmình nghiêng ng. Mun vy phi  
làm sao vtoàn nóng rut chnhti chng. Sa mt bữa rượu mi thầy đến tư vấn, thy  
bo tt nhất đem nội y ca vrang lên. Chng khp khi, phê phê ly nhm qun xp”  
ca chính mình cho vào cho. Ktừ đấy, 24/24 lòng lúc nào cũng như lửa đốt. Bài hc rút  
ra, đàn ông xem bói chỉ nên mua quần đùi” (Mt của đàn ông).  
Nguyễn Vĩnh Nguyên cũng tạo du n vi nhiu giọng điệu khác nhau: ging giu nhi,  
ging phê phán, giọng hài hước, ma mai và cgiọng suy tư chiêm nghiệm. Nguyễn Vĩnh  
Nguyên luôn khéo léo to tiếng cười bt ng, chứa đựng mt chút mỉa mai, cười ct, khôi  
hài đầy chua chát. Tiếng cười thú vtrong bài Chát vi em trai qun công, khi nói vvai trò  
của cái toilet và văn minh nhà vệ sinh trong cuc sng hiện đại; hình nh khôi hài trong bài  
We are the tivi khi miêu tcảnh “phải ra hành lang hoc vào toilet nhìn ra thì may ra mi  
xem được hình ảnh khá hơn ngồi trong phòng khách”… Trong bài Cuc trò chuyn trên yên  
xe máy, để đề cao tm quan trng ca chiếc xe máy Đờ-rim và shào nhoáng khó cưỡng ca  
nó trong việc đi tán gái, Nguyễn Vĩnh Nguyên hài hước với câu thơ chế: “Trăm lời anh nói  
không bằng chút khói Đờ-rim” hay sau này khi đời xe @ lên ngôi thì chế lại là: “Ngàn lời  
anh nói không bằng làn khói @”. Nói về sphbiến ca karaoke và thói quen cũng như sở  
thích chết mê chết mt của ngưi Vit hôm nay vi karaoke, Nguyễn Vĩnh Nguyên mỉa mai  
một cách hài hước rằng: “Một ngày nào đó, khi những phòng karaoke biến mt mà không gì  
thay thế được, biết đâu bệnh vin tâm thn và các bnh vin chấn thương chỉnh hình strở  
nên quá tải” (Karaoke, văn và cảnh). Nói vslên ngôi của điện thoại di động, từ điện thoi  
sdụng bàn phím đến điện thoi sdng màn hình cm ng, Nguyễn Vĩnh Nguyên đã giễu  
nhi thế htrkhi gi nhng kẻ dùng nó “thế hệ ngón tay cái”, “thế hngón tay trỏ” (Ngón  
cái đến ngón tr). Nguyễn Vĩnh Nguyên tạo được ấn tượng riêng trong giọng văn của mình  
bi vn kiến thc sâu rng cùng vi sý thc và trách nhim của nhà văn lương tri luôn trăn  
trti nhng bt cập trong đời sng xã hi. Giọng điệu châm biếm, hài hước, giu nhi rt  
nhnhàng mà thâm thúy có sc lôi cuốn đặc biệt đối với người đọc. Nó lên án, tố cáo đanh  
thép nhng hiện tượng lbch, tiêu cực trong đời sng xã hội; đồng thi cnh tỉnh, răn đe,  
giáo dục đối với con người. Vì thế, có thnói giọng điệu hài hước, giu nhi là yếu tgóp  
phn to nên tiếng cười trào phúng trong văn của Nguyễn Vĩnh Nguyên. Trên hành trình  
sáng to, Nguyễn Vĩnh Nguyên đã tạo được du n, giọng điệu và phong cách riêng thể  
loi tản văn giai đoạn từ sau 1986 đến nay. Có thnói, giọng điệu hài hước, giu nhi các  
cây bút tản văn từ sau năm 1986 đến nay được thhin nhiu cấp độ khác nhau, thài  
hước nhẹ nhàng đến châm biếm sâu cay là cách thc để các nhà văn phê phán, lt ty nhng  
bt cp, ri ren ca hin thc đời sng. Từ thái độ giu nhi các vấn đề tiêu cc trong xã hi  
đến vic thng thắn phơi bày, tố cáo, lên án nhng góc khut ti tăm của nhân gian, ging  
24  
TRƯỜNG ĐẠI HC THỦ ĐÔ HÀ NỘI  
điệu hài hước, giu nhi trong tản văn giai đoạn này góp phn khc ha bc tranh hin thc  
thêm toàn din, sâu sc.  
3. KT LUN  
Là một phương diện ca hình thc ts, giọng điệu nghthut là mt trong nhng  
yếu tquan trng ca tác phẩm văn chương. Cùng với các bình din khác ca nghthut tự  
s, nó góp phn to nên phong cách, cá tính sáng to của nhà văn. Tản văn việt nam tsau  
năm 1986 đã tái hiện mt cách chân thc, khách quan các vấn đề của đời sống và con ngưi  
vit nam. Qua nhng trang viết ca các cây bút tản văn, thế gii tâm hồn người vit vi tt  
csự phong phú, đa dạng và phc tạp, nhiêu khê đã hiện lên rõ nét. Hu hết tác giả giai đoạn  
này là nhng cây bút trnhy bén vi sự thay đổi ca xã hi, giọng điệu rt trải đời, va tự  
nhiên, dân dã vừa trĩu nặng suy tư, vừa giàu cht khái quát, triết lí, vừa đậm tính đa thanh.  
Những điều đó đã góp phần làm nên thành công ca thloi tản văn sau 1986, làm cho tản  
văn ngày càng có chỗ đứng chc chn trong hthng thloi của văn học Vit Nam hiện đại.  
TÀI LIU THAM KHO  
1. Phan ThVàng Anh (2016), Ghi chép nhcủa người cưỡi nga, Nxb. Tr, Hà Ni.  
2. Bakhtin, M. (1992), Lý lun và thi pháp tiu thuyết, Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Ni.  
3. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu thơ trữ tình, Nxb. Văn học, Hà Ni.  
4. Nguyn Vit Hà (2006), Nhà văn thì chơi với ai, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.  
5. Nguyn Vit Hà (2008), Mt của đàn ông, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.  
6. Lê Bá Hán và cng s(2010), Từ điển thut ngữ văn học, Nxb. Giáo dc, Hà Ni.  
7. Kundera, Milan (1998), Nghthut tiu thuyết, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng.  
8. Nguyễn Vĩnh Nguyên (2012), Ti vi, xe máy, nhc chế, karaoke, tăm xỉa răng và những thkhác,  
Nxb. Lao động, Hà Ni.  
THE TONE IN VIETNAMESE PROSE FROM 1986 UNTIL NOW  
Abstract: From 1986 till now, prose is one of the most dynamic literary genres, loved and  
well received by a large number of readers with its flexibility, brevity, and conciseness. The  
prose writers often go deep into the present life to discover and find out the best things of  
a glorious era as well as timely reflect the hot issues of society. The tone of the prose of  
this period changed flexibly, capable of spreading into the world inside the reader's soul.  
It is both a deep lyrical tone but still combined with a reflective and philosophical tone on  
issues of social and human life. In addition, there is a humorous and mocking tone to pity  
and condole when witnessing the change in many aspects of life. Sometimes, we come  
across simple, ordinary things in the prose but contain great value. In this article, we focus  
on analyzing and clarifying the characteristics of the voices of prose writers to affirm the  
unique value of this dynamic literary genre.  
Keywords: 1986, tone, prose, 21st century, Vietnamese literature.  
pdf 11 trang baolam 12/05/2022 2460
Bạn đang xem tài liệu "Giọng điệu trong tản văn Việt Nam từ năm 1986 đến nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfgiong_dieu_trong_tan_van_viet_nam_tu_nam_1986_den_nay.pdf