Đặc điểm truyền thuyết địa danh có liên quan đến những sự kiện lịch sử và nhân vật có công chống giặc ngoại xâm ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 36 (02-2019)
ĐẶC ĐIỂM TRUYỀN THUYẾT ĐỊA DANH CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
NHỮNG SỰ KIỆN LỊCH SỬ VÀ NHÂN VẬT CÓ CÔNG CHỐNG GIẶC
NGOẠI XÂM Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
y Đỗ Thị Hồng Hạnh(*)
Tóm tắt
Bài báo phân tích và xác định những đặc điểm truyền thuyết địa danh có liên quan đến những sự
kiện lịch sử và nhân vật có công chống giặc ngoại xâm ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Việc xác
định những đặc điểm của truyền thuyết địa danh có liên quan đến những sự kiện lịch sử và nhân vật
có công chống giặc ngoại xâm vùng Đồng bằng sông Cửu Long được thực hiện bởi quá trình khảo
sát, phân tích đặc điểm cấu tạo cốt truyện và việc tổ chức các yếu tố tự sự của truyền thuyết địa danh
vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Từ khóa: Truyền thuyết, địa danh, lịch sử, cốt truyện, Đồng bằng sông Cửu Long.
1. Đặt vấn đề
khổng lồ này hiển nhiên không phải là con người
mà chính là thiên nhiên hoang dã đã được nhào nặn
theo tư duy thần thoại, tức là sự đồ chiếu sức mạnh
thiên nhiên theo dạng thức con người”[1, tr. 50].
Khác với thần thoại, truyền thuyết địa danh
giải thích sự hình thành tên gọi của ao hồ, rừng,
núi bao giờ cũng gắn liền với việc kể về những
con người cụ thể đã góp phần làm nên địa danh ấy.
Hay nói cách khác “Khác với thế giới tưởng tượng
hào hùng và kỳ vĩ trong thần thoại, truyền thuyết
địa danh có cảm hứng lịch sử, đặt câu chuyện vào
một khung cảnh, một thời gian với những nhân vật
cụ thể” [1, tr. 50]. Trong khi đó, ở thể loại cổ tích,
truyện kể địa danh lại lồng vào trong nó những
câu chuyện của đời thường, của những mối quan
hệ anh em, vợ chồng, cha con...
Việc nghiên cứu truyền thuyết địa danh ở
Việt Nam đã được một số nhà nghiên cứu quan
tâm. Những công trình đáng chú ý đó là Truyện
kể địa danh từ góc nhìn thể loại (Trần Thị An,
Tạp chí Văn học, số 3/1999), Bước đầu tìm hiểu
nguồn truyện kể địa danh Việt Nam (Nguyễn Bích
Hà, Tuyển tập 40 năm Tạp chí Văn học, tr.416),
Truyền thuyết dân gian và địa danh (Thái Hoàng,
Tạp chí Văn học, số 9, 1999)... Trong những công
trình này, các tác giả đã đề cập đến những vấn đề
mang tính lý luận về đặc trưng thể loại của truyện
kể địa danh nói chung như: đặc trưng nội dung, ý
thức nghệ thuật và chức năng thể loại. Những kiến
thức lý luận này có ý nghĩa là những kiến thức nền
tảng, định hướng cho việc nghiên cứu loại truyền
thuyết địa danh ở vùng ĐBSCL.
Về khái niệm Truyền thuyết địa danh, chúng
tôi thống nhất sử dụng theo khái niệm Truyền
thuyết địa danh của tác giả Kiều Thu Hoạch:
“Truyền thuyết địa danh chủ yếu là chỉ loại truyền
thuyết giải thích tên gọi, tức là nói về nguồn gốc
tên gọi của các địa danh ở các địa phương mà có
gắn với các sự kiện, nhân vật lịch sử có liên quan”
[4, tr. 35-36]. Theo khảo sát của chúng tôi, truyền
thuyết địa danh vùng Đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL) bao gồm 03 tiểu loại: Truyền thuyết địa
danh liên quan đến những nhân vật tiền hiền có
công khai phá, xây dựng vùng ĐBSCL; Truyền
thuyết địa danh liên quan đến những sự kiện lịch
sử và nhân vật có công chống giặc ngoại xâm;
Truyền thuyết địa danh liên quan đến nhân vật
Nguyễn Ánh. Do quy định về dung lượng của một
bài báo nên trong công trình này chúng tôi chỉ phân
tích tiểu loại Truyền thuyết địa danh liên quan đến
những sự kiện lịch sử và nhân vật có công chống
giặc ngoại xâm (Ký hiệu: TL1B).
Vấn đề giải thích nguồn gốc tên gọi của núi,
sông, ao hồ, làng, kênh, rạch... vốn đã được nhân
dân Việt Nam cũng như nhân dân các nước trên
thế giới từ bao thế hệ quan tâm. Các thể loại tự
sự dân gian của người Việt cũng đã thể hiện chức
năng, nhiệm vụ này theo cách riêng. Ở thể loại
thần thoại, việc lý giải sự hình thành địa danh, tên
gọi của địa danh thường gắn liền với công tích của
những nhân vật khổng lồ. “Trong những truyện kể
về thời khai thiên lập địa, những ông, những bà
(*) Trường Đại học Đồng Tháp.
Để xác định được những đặc điểm mang tính
57
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 36 (02-2019)
đặc trưng của truyền thuyết địa danh có liên quan nội dung và tư tưởng tác phẩm” [6, tr. 304-305].
đến những sự kiện lịch sử và nhân vật có công Từ những ý kiến nêu trên, chúng tôi nhận
chống giặc ngoại xâm vùng ĐBSCL, công trình thấy việc nghiên cứu về cấu tạo cốt truyện của một
này sẽ tiến hành khảo sát, phân tích đặc trưng cấu tác phẩm tự sự có một ý nghĩa quan trọng. Bởi vì
tạo cốt truyện và việc tổ chức các yếu tố tự sự của việc làm này sẽ góp phần làm sáng rõ những đặc
truyền thuyết địa danh có liên quan đến những sự điểm nội dung tư tưởng và đặc điểm nghệ thuật
kiện lịch sử và nhân vật có công chống giặc ngoại của thể loại truyền thuyết dân gian nói riêng, các
xâm vùng ĐBSCL.
2. Khái niệm cốt truyện và các yếu tố tự
sự của thể loại truyền thuyết
2.1. Khái niệm cốt truyện
tác phẩm tự sự nói chung.
2.2. Các yếu tốtựsựcủa thểloại truyền thuyết
Ngoài việc nghiên cứu về cấu tạo cốt truyện,
việc nghiên cứu đặc điểm của thể loại truyền thuyết
Khái niệm Cốt truyện trong cuốn Oxford còn đòi hỏi người nghiên cứu phải xem xét đến
Advanced Learners Dictionary đã được tác việc tổ chức các yếu tố tự sự của thể loại ấy. Các
giả A. Hornby định nghĩa như sau: “The series of yếu tố tự sự của thể loại truyền thuyết bao gồm:
events that form the story of a novel, play, film” Hệ thống nhân vật, các motif, các chi tiết, các sự
(Dịch ra tiếng Việt: Cốt truyện là một loạt những kiện lịch sử và lời kể trong tác phẩm truyền thuyết.
sự kiện góp phần hình thành câu chuyện của một
tiểu thuyết hoặc một bộ phim) [5, tr. 1163].
Nhân vật chính trong thể loại truyền thuyết
thường là những con người có thật ở ngoài đời. Hệ
Ở Việt Nam, khái niệm Cốt truyện cũng đã thống nhân vật này phong phú, đa dạng: Các bậc
được Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Cốt truyện tiền hiền, anh hùng chống giặc ngoại xâm, danh
là hệ thống sự kiện làm nòng cốt cho sự diễn biến nhân văn hóa, các nhân vật tôn giáo… Việc phân
các mối quan hệ và sự phát triển của tính cách loại nhân vật phụ thuộc vào những tiêu chí khác
nhân vật trong tác phẩm văn học loại tự sự” [9, nhau. Tuy nhiên, không phải bất cứ nhân vật lịch
tr. 233]. Khái niệm Cốt truyện và vai trò của cốt sử nào cũng trở thành nhân vật của truyền thuyết.
truyện trong tác phẩm tự sự đã được minh định một Nhân vật của truyền thuyết phải là những nhân vật
cách cụ thể hơn trong một số công trình nghiên có những tác động, ảnh hưởng đến đời sống của
cứu của các nhà lí luận văn học. Trong Từ điển nhân dân, được nhân dân quan tâm và lưu truyền.
thuật ngữ Văn học, các tác giả viết: “Cốt truyện
Các motif, các chi tiết, sự kiện lịch sử là
là hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu những yếu tố không thể thiếu của tác phẩm tự
cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định tạo thành bộ sự dân gian. Đặc biệt, motif được xem là yếu tố
phận cơ bản, quan trọng nhất của tác phẩm văn học đặc trưng của truyện kể dân gian: “Motif chỉ một
thuộc loại tự sự” [3, tr. 70]. Ở đây, các tác giả Lê thành tố nhỏ của truyện, thường có thể tách rời
Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đã xem được, có thể lắp ghép được, ít nhiều khác lạ, bất
cốt truyện là “bộ phận cơ bản, quan trọng nhất” thường, đặc biệt, là yếu tố đặc trưng của truyện
của một tác phẩm tự sự. Họ đã đánh giá cao vai kể dân gian” [2, tr. 282].
trò của cốt truyện trong tác phẩm văn học thuộc
Về vai trò, ý nghĩa của motif trong tác phẩm
loại tự sự nói chung. Căn cứ vào khái niệm này tự sự dân gian, tác giả Nguyễn Thị Nguyệt đã
thì việc nghiên cứu về cấu tạo cốt truyện của một khẳng định: “Trong mối quan hệ với cốt truyện,
thể loại văn học cụ thể cũng có nghĩa là nghiên motif vừa là một bộ phận quan trọng của cốt
cứu về đặc điểm nội dung tư tưởng và đặc điểm truyện - mang tính nội dung, nhưng lại là yếu tố
nghệ thuật của thể loại văn học ấy.
tạo liên kết và được liên kết với nhau nên mang
Cùng quan điểm đề cao vai trò của cốt truyện cả tính hình thức” [7, tr. 36-37] và “Motif là yếu
trong tác phẩm văn học thuộc loại tự sự, trong sách tố ban đầu, yếu tố hạt nhân để tạo nên cốt truyện”
Lí luận Văn học, các tác giả đã viết: “Trong phân [7, tr. 38].
tích tác phẩm, việc nhận định đúng thành phần cốt
Lời kể trong các tác phẩm truyền thuyết dân
truyện có ý nghĩa then chốt để lý giải đúng đắn gian thường có đặc điểm “lối kể cô đọng, rất ít sự
58
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 36 (02-2019)
miêu tả, chủ yếu chỉ thuật lại hành động của nhân (Chợ Thống Linh), “Đám lá tối trời là một vùng
vật, có sử dụng một số thủ pháp nghệ thuật nhằm rộng lớn, ở làng Kiểng Phước, gần cửa Soi Rạp,
tô đậm tính xác thực của truyện” [8, tr. 30].
Mặt khác, để xác định đặc điểm của truyền
tỉnh Gò Công” (Đám lá tối trời).
Dạng cấu tạo thứ hai, tác giả dân gian đi
thuyết địa danh vùng ĐBSCL cũng cần phải ngay vào việc giới thiệu sự kiện lịch sử hoặc kể
nghiên cứu sự vận động, sự biến đổi của các yếu về nguồn gốc, lai lịch của nhân vật có liên quan
tố tự sự nói trên do những tác động của thời gian, đến địa danh. Chẳng hạn như: “Ngày trước, khi
của vùng miền văn hóa.
giặc Pháp đến xâm lược nước ta, giặc đi đến đâu
3. Đặc điểm cấu tạo cốt truyện và việc tổ tàn phá đến đó, lòng dân vô cùng căm hận. Lúc
chức các yếu tố tự sự của truyền thuyết địa này có hai anh em trai mồ côi cha mẹ, sống với
danh liên quan đến những sự kiện lịch sử và ông bà nội, người anh tên là Dũng, người em tên
nhân vật có công chống giặc ngoại xâm vùng là Anh” (Sự tích ấp Anh Dũng), “Đốc Binh Vàng
ĐBSCL (Ký hiệu : TL1B)
tên thật là Trần Ngọc. Ông giữ chức Tổng Binh
Theo khảo sát và thống kê, truyền thuyết địa kiêm nhiệm chức Chánh giải quân lương dưới triều
danh TL1B gồm 21 truyền thuyết. Sự phân bố 21 Minh Mạng” (Rạch Đốc Vàng), “Ông Nguyễn
truyền thuyết địa danh nói trên không đều, tập Văn Linh sinh năm 1815 tại thôn Mỹ Ngãi, huyện
trung nhiều ở tỉnh Đồng Tháp (11 truyện), những Kiến Đăng, trấn Định Tường (nay thuộc thị xã Cao
truyền thuyết còn lại được rải đều ở các tỉnh Long Lãnh) là người có võ nghệ cao cường, chí khí hiên
An (03 truyện), Tiền Giang (02 truyện), Vĩnh Long ngang” (Sự tích Chợ Thống Linh). “Tương truyền
(01 truyện), Bạc Liêu (02 truyện), An Giang (01 rằng ngày trước, ngay khi vừa hạ trại an binh tại
truyện) và Bến Tre (01 truyện). Chúng tôi nhận cầu Cây Sao, ông Nguyễn Hữu Cảnh đã cho dựng
thấy cấu tạo cốt truyện của truyền thuyết địa danh lên một số trạm canh phòng chung quanh để vừa
TL1B được triển khai như sau:
làm trạm ngăn chặn giặc xâm lăng, vừa kịp thời
Trong lớp truyện thứ nhất, truyền thuyết địa đốt lửa báo tin cho nghĩa quân ở phía sau khi giặc
danh TL1B thường có hai dạng cấu tạo:
Xiêm đến” (Sự tích Doi Lửa).
Dạng cấu tạo thứ nhất, các văn bản kể đều
Lớp truyện thứ hai, tác giả dân gian kể về
có một điểm chung là ngay phần mở đầu của mỗi diễn biến của sự kiện lịch sử hoặc hành trạng,
truyền thuyết, tác giả dân gian thường miêu tả công tích của nhân vật có liên quan đến địa danh.
hoặc xác định vị trí của địa danh trước khi đi vào
Khi kể về những sự kiện lịch sử có liên quan
kể về nguồn gốc hình thành địa danh ấy. Chẳng đến các địa danh, tác giả dân gian kể lại diễn biến
hạn như: “Vàm Hổ Cứ thuộc làng Tân Tịch, gần của những sự kiện lịch sử đáng ghi nhớ như: Chiến
bến phà Cao Lãnh” (Sự tích Vàm Hổ Cứ). “Đây thắng vẻ vang, rất đáng tự hào của nghĩa quân Tây
là một con rạch chảy qua địa giới của huyện Cai Sơn trên sông Sầm Giang, tỉnh Tiền Giang (Sự
Lậy và Long Định, tỉnh Tiền Giang. Nơi này, tích Rạch Gầm); cuộc chiến đấu kiên cường, bất
người anh hùng áo vải Tây Sơn đã đánh tan tác khuất của cha con Tám Luông chống lại bọn địa
bọn xâm lược Xiêm và quan quân Nguyễn Ánh chủ, cường hào ác bá ở địa phương thuộc huyện
vào năm 1795” (Sự tích tên gọi Rạch Gầm), “Sông Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu (Cánh đồng Nọc Nạn); trận
Xá Hương ở hạ lưu sông Vàm Cỏ Tây” (Sự tích đánh đầy mưu trí của Vương Văn Sâm chống lại
sông Xá Hương và miếu ông Bần Quỳ), “Cầu giặc Xiêm (Truyền thuyết Doi Lửa).
Nàng Hai là cầu bắc qua sông Sa Đéc trên đường
Có nhiều truyền thuyết địa danh ở TL1B
liên tỉnh 27” (Cầu Nàng Hai – Rạch Nàng Hai), không kể trực tiếp hành trạng của nhân vật mà kể
“Rạch Cần Lố bắt nguồn từ hậu bối làng Nhị Mỹ gián tiếp qua các sự kiện giặc Pháp và lũ ác ôn tay
chảy quanh co, uốn khúc xuyên qua làng Mỹ Thọ, sai ra tay đàn áp và tàn sát các nghĩa binh và nhân
rồi đổ nước vào sông Tiền” (Trường án Cần Lố), dân trong các truyền thuyết địa danh như: Lai lịch
“Chợ Thống Linh ngày nay nằm phía hậu bối của Trường Án Cần Lố, Sự tích Vũng Liêm, Khu Mả
xã Mỹ Ngãi, thị xã Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp” lớn, Đám lá tối trời... Chẳng hạn như: “Nơi này
59
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 36 (02-2019)
là nơi Pháp tập trung quân để tiến công vào Đồng Anh và Dũng cùng nhân dân ở Bạc Liêu dũng cảm
Tháp, đồng thời chúng còn dùng nơi này làm pháp đấu tranh chống lại giặc Pháp xâm lược (Sự tích
trường để chém giết nghĩa quân hầu khủng bố Ấp Anh Dũng)...
nhân dân” (Lai lịch Trường Án Cần Lố); “Để trả
Lớp truyện thứ ba kể về đoạn kết của sự kiện
thù cho quan thống, Trần Bá Lộc được lệnh kéo lịch sử hoặc của nhân vật lịch sử và việc hình thành
binh về tàn sát toàn bộ dân chúng trong vùng, nhà tên gọi địa danh.
cửa đốt sạch, kẻ chết đâm, người chết chém, chết
Có những sự kiện lịch sử kết thúc vẻ vang, rất
bắn, người nào sống sót chúng bắt được ném vào đáng tự hào: “Quân ta chiến thắng quân Xiêm vẻ
lửa đỏ, cả một vùng hồn linh dật dờ trong khói vang trên sông Sầm, vì có tiếng la ó đồng thanh của
lửa”(Sự tích Vũng Liêm).
quân Tây Sơn phát ra tựa sấm vang động cả một
Thông qua lớp truyện thứ hai của TL1B, khúc sông. Quân địch nghe tiếng hò xung trận, lo
chúng ta hiểu thêm những hy sinh, mất mát, đau sợ mất hồn nên không còn lòng dạ nào nghĩ đến
thương của những con người vùng đồng bằng sông việc giao tranh. Từ đó, nhân dân gọi sông Sầm là
nước trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp giai Rạch Gầm” (Sự tích Rạch Gầm).
đoạn thế kỷ XIX. Sự hy sinh ấy là vô cùng lớn
Có những sự kiện được kể lại với kết thúc bi
lao, nỗi đau ấy không gì bù đắp nổi: “Nghĩa quân thương, nhân dân hoặc nghĩa quân bị Pháp và lũ
nhanh chóng bị thất bại, nhiều nghĩa quân bị Pháp ác ôn tay sai khủng bố, tàn sát dã man (Lai lịch
bắt, chém đầu, chôn chung trên một gò đất ở Vĩnh Trường Án Cần Lố, Sự tích Vũng Liêm, Khu Mả
Xuân mà ngày nay nhân dân vẫn gọi là Gò Trăm Lớn…).
Đầu” (Truyền thuyết Gò Trăm Đầu). Hay là “Năm
Đối với những truyền thuyết địa danh kểvềcác
1861, nghĩa quân Trương Định tử trận được đưa về nhân vật có công trong công cuộc chống giặc ngoại
vùng căn cứ Tân Phước Tây, tỉnh LongAn để chôn xâm, tác giả dân gian đã kể về sự hi sinh của họ.
cất. Vì số lượng tử sỹ lên đến khoảng 60 người, Có những hi sinh rất đau thương như là sự hy sinh
không đủ điều kiện về thời gian và vật chất để mai của Bà Bầy “Sau một hồi tra tấn không có kết quả,
táng, nghĩa quân phải dùng cây trai (một loại gỗ chúng thay phiên nhau hãm hiếp Bà Bầy cho đến
chịu được môi trường sình lầy, ẩm ướt) xếp thành chết” (Truyền thuyết Vàm Bà Bầy); Hoặc là sự tử
hộc để chôn chung số nghĩa quân tử trận tại khu tiết của các nhân vật như nhân vật Mai Công Hương
vườn của Nguyễn Duy Toản. Ngôi mộ này về sau (Sự tích sông Xá Hương và miếu ông Bần Quỳ), của
được gọi là Mả Hộc” (Sự tích Mả Hộc).
Đốc binh Trần Ngọc (Rạch Đốc Vàng); Hi sinh do
Ở lớp truyện thứ hai này, ngoài việc kể diễn bị giặc bắt, hành hạ và giết chết như ông Quản Bạch
biến của các sự kiện lịch sử có liên quan đến cộng (Vàm Hổ Cứ), hai chị em (Cầu Nàng Hai), hai anh
đồng, tác giả dân gian còn kể về hành trạng, công em Anh và Dũng (Cánh đồng Nọc Nạn).
tích của nhân vật như: Bà Bầy dũng cảm che giấu
Như vậy, dù trực tiếp hay gián tiếp, truyền
nghĩa quân Đồng Tháp Mười trong cuộc kháng thuyết địa danh TL1B đều có sự gắn bó chặt chẽ
chiến chống Pháp, dù bị giặc đánh đập dã man với các sự kiện lịch sử và công trạng của các
nhưng bà vẫn không khai nơi trú ẩn của nghĩa quân nhân vật trong công cuộc chống giặc ngoại xâm.
(Truyền thuyết Vàm Bà Bầy); Đốc binh Trần Ngọc Từ những sự kiện lịch sử có ảnh hưởng trực tiếp
“quyết không để quân trang, quân dụng rơi vào đến đời sống của quần chúng nhân dân, từ những
tay giặc, lệnh cho nghĩa sĩ mang hết quân lương nhân vật có nhiều đóng góp, hy sinh vì cộng đồng,
lên bờ tiêu huỷ, lửa cháy ngất trời cả tuần chưa nhân dân đã lấy tên gọi của những nhân vật lịch
tắt”(Rạch Đốc Vàng); ông Mai Công Hương đục sử ấy, lấy sự kiện lịch sử ấy để đặt tên cho những
thuyền cho chìm lương thực để không cho lương địa danh trong khu vực ĐBSCL.
thực vào tay giặc (Truyền thuyết sông Xá Hương Sau đây là mô hình cấu tạo cốt truyện của
và Miếu Ông Bần Quỳ); Hai người con gái quê truyền thuyết địa danh TL1B:
Sa Đéc dũng cảm làm liên lạc, tiếp tế cho nghĩa
Mô hình 1: Miêu tả, định vị các địa danh
quân (Truyền thuyết Cầu Nàng Hai); Hai anh em → Giới thiệu về sự kiện lịch sử hoặc nguồn gốc,
60
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 36 (02-2019)
hoàn cảnh, đặc điểm nhân vật → Diễn biến của quyết tâm sống chết với những kẻ áp bức, bóc lột
sự kiện lịch sử hoặc hành trạng, công tích của mình, gia đình mình và những người nông dân
nhân vật → Đoạn kết của sự kiện lịch sử hoặc hiền lành, chăm chỉ khác. Truyền thuyết Cánh
đoạn kết của nhân vật và việc lý giải tên gọi đồng Nọc Nạn đã cho thấy mâu thuẫn giữa người
của địa danh.
nông dân với tầng lớp địa chủ ở nông thôn dưới
Mô hình 2: Kể về sự kiện lịch sử hoặc kể về thời Pháp thuộc - mâu thuẫn mang tính phổ biến
nguồn gốc, hoàn cảnh, đặc điểm của nhân vật ở nông thôn Việt Nam nói chung - cũng có xuất
có liên quan đến địa danh → Diễn biến sự kiện hiện ở vùng đồng bằng Nam Bộ giai đoạn trước
lịch sử hoặc hành trạng, công tích của nhân vật năm 1945. Tuy nhiên, khảo sát hệ thống truyền
→ Đoạn kết của sự kiện lịch sử hoặc đoạn kết thuyết dân gian vùng ĐBSCL, chúng tôi nhận
của nhân vật và việc lý giải tên gọi của địa danh. thấy những truyền thuyết có nội dung tương tự
Trong hai mô hình nêu trên, mô hình 1 có như Cánh đồng Nọc Nạn xuất hiện không nhiều
thêm phần miêu tả, định vị địa danh trong phần trong hệ thống truyền thuyết dân gian ở vùng
mở đầu của mỗi câu chuyện. Mô hình 2 không có này. Cánh đồng Nọc Nạn có thể xem là truyền
nội dung này. Các phần còn lại đều có sự tương thuyết duy nhất trong hệ thống truyền thuyết địa
đương về nội dung giữa hai mô hình cốt truyện.
danh TL1B có nội dung đề cập đến mâu thuẫn
Khảo sát nội dung cốt truyện của truyền giữa người nông dân với địa chủ, cường hào ở
thuyết địa danh TL1B cho thấy những truyền địa phương.
thuyết này đã phản ánh sinh động những sự kiện
Đặc biệt, tháng 9/1858, Pháp tấn công Đà
lịch sử diễn ra ở vùng ĐBSCL trong quá khứ. Nẵng. Năm 1859, Pháp tấn công Gia Định. Kể từ
Chẳng hạn như cuộc chiến đấu chống lại quân mốc lịch sử này nhân dân Nam Bộ đã đứng lên
xâm lược Xiêm và quan quân Nguyễn Ánh của chống giặc Pháp xâm lược. Giai đoạn lịch sử khổ
người anh hùng áo vải Tây Sơn vào năm 1795. nhục nhưng vĩ đại của nhân dân Nam Bộ kể từ
Lời kể của tác giả dân gian: “Tục truyền ngày 1858 đã được nhiều nhà sử học đề cập đến như
ấy quân Tây Sơn kéo đến Rạch Gầm đông vô kể. Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam của Hội Khoa
Người đi chật đất, gươm giáo sáng loè, nhưng học Lịch sử Việt Nam, Góp phần tìm hiểu vùng
hết thảy đều ngậm tăm. Đến lúc lệnh khai chiến đất Nam Bộ các thế kỷ XVII, XVIII, XIX của tác
truyền ra, tiếng la ó đồng thanh thình lình phát giả Huỳnh Lứa. Truyền thuyết địa danh ở các tỉnh
ra tựa sấm vang động cả một khúc sông” (Sự tích thuộc Nam Bộ, trong đó có vùng ĐBSCL cũng đã
Rạch Gầm) đã giúp cho người nghe câu chuyện phản ánh giai đoạn lịch sử đáng ghi nhớ này bằng
liên tưởng đến nghệ thuật nhử địch để đưa chúng những câu chuyện dân gian. Đó là những truyền
vào trận địa đã được mai phục sẵn của nghĩa quân thuyết địa danh tiêu biểu như Sự tích Vàm Hổ Cứ,
Tây Sơn trong lịch sử đã ghi: “Rạch Gầm và Xoài Sự tích Vàm Bà Bầy, Rạch Đốc Vàng, Chợ Thống
Mút là hai con sông nhỏ nhưng có vị trí quan Linh, Sự tích ấp Anh Dũng...
trọng trong thế trận mai phục thuỷ binh của Tây
Trong mỗi truyền thuyết dân gian nói trên, các
Sơn, tạo thành hai gọng kìm chặn sau và khoá tác giả dân gian đã tái hiện bức tranh lịch sử chống
đuôi toàn bộ đội hình quân địch một khi chúng đã giặc Pháp xâm lược của nhân dân vùng ĐBSCLcụ
lọt vào trận địa mai phục” [10, tr. 38]. Hay là sự thể, sinh động với những con người và những sự
kiện nông dân ĐBSCL dũng cảm đứng lên chống kiện lịch sử cụ thể. Ẩn sau mỗi lời kể trong những
lại sự hà hiếp, bóc lột của bọn địa chủ, cường hào truyền thuyết nêu trên là tình cảm yêu mến, niềm
và bọn cò Tây ở nông thôn vùng đồng bằng miền tự hào của nhân dân dành cho những con người
Tây Nam của Tổ quốc (Cánh đồng Nọc Nạn). Chi bình dị, có nhiều đóng góp cho công cuộc chống
tiết Mười Chức trong Cánh đồng Nọc Nạn giết giặc Pháp xâm lược. Mặc dù trong sử sách không
heo làm lễ tế sống mẹ già trước khi chiến đấu với ghi tên của những Bà Bầy, Bà Bướm, Nàng Hai ở
bọn địa chủ, ác bá trong vùng đã cho thấy người Đồng Tháp, anh em Anh và Dũng ở Bạc Liêu…,
nông dân trong truyền thuyết này dũng cảm và nhưng những con người này vẫn được dân gian
61
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 36 (02-2019)
ghi nhớ và lưu truyền qua bao nhiêu thế hệ bởi sai ác ôn Trần Bá Lộc: “Để trả thù cho quan thầy,
một điều đơn giản: Họ đã từ nhân dân mà ra và Trần Bá Lộc được lệnh kéo binh về tàn sát toàn bộ
cũng vì nhân dân, vì cộng đồng, vì quê hương mà dân chúng trong vùng, nhà cửa đốt sạch. Kẻ chết
chiến đấu.
đâm, người chết chém, chết bắn, người nào sống
Việc khai thác mối quan hệ giữa con người sót chúng bắt được ném vào lửa đỏ, cả một vùng
với cộng đồng là nét đặc trưng của thể loại truyền hồn linh dật dờ trong khói lửa. Nên dân chúng
thuyết so với thần thoại và cổ tích. Bởi lẽ, thần quanh vùng gọi đây là Vũng Linh. Qua năm tháng
thoại chủ yếu khai thác mối quan hệ giữa con Vũng Linh được nói trại thành Vũng Liêm” (Sự
người với tự nhiên, cổ tích khai thác mối quan hệ tích Vũng Liêm). Trong những truyền thuyết này,
thế sự, mối quan hệ giữa các giai cấp khác nhau tác giả dân gian vừa ghi giữ tội ác của kẻ thù, vừa
trong xã hội. Mỗi câu chuyện kể trong truyền ghi lại những mất mát, đau thương của các nghĩa
thuyết địa danh TL1B đều lấp lánh niềm tự hào, binh, của nhân dân vùng ĐBSCL trong giai đoạn
lòng biết ơn, tình cảm tôn vinh của nhân dân lịch sử chống Pháp. Ở đây, cảm xúc bi thương xen
dành cho những con người có nhiều đóng góp lẫn lòng căm thù của nhân dân đối với tội ác của
và hi sinh cho cộng đồng. Đây cũng là đặc điểm giặc Pháp và lũ tay sai ác ôn đã tạo nên những
nội dung mang tính tương đồng nổi bật nhất của câu chuyện dân gian nhằm lý giải sự hình thành
truyền thuyết địa danh vùng ĐBSCLso với truyền tên gọi của một số địa danh thuộc vùng ĐBSCL.
thuyết địa danh cùng tiểu loại ở các vùng miền Đây là một nội dung mang tính đặc trưng của thể
khác trong cả nước.
loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL. Bởi vì
Tuy nhiên, bên cạnh điểm tương đồng về nội khảo sát một số truyền thuyết địa danh ở một số
dung so với truyền thuyết địa danh ở các vùng tỉnh thuộc Bắc Bộ, chúng tôi nhận thấy tên gọi
miền khác như vừa nêu, truyền thuyết địa danh một con sông, một đồi gò, một cái ao, một cánh
TL1B còn có những nét đặc trưng riêng.
đồng đa số đều được gắn với một chiến công dựng
Nét đặc trưng nổi bật trước hết thể hiện ở cảm nước và giữ nước của cha ông. Chẳng hạn như:
hứng sáng tác. Bên cạnh những truyền thuyết địa “Tên gọi Thăng Long của thủ đô gắn với truyền
danh thể hiện cảm hứng tôn vinh, ngợi ca những thuyết về Lý Công Uẩn, tên gọi Hồ Gươm gắn với
con người có công trong công cuộc chống giặc chiến công của Lê Lợi. Ở Vĩnh Phú có cánh đồng
ngoại xâm, chống lại chế độ phong kiến hà khắc Dai, cánh đồng Võ, có vực Chuông ghi lại chiến
ở một số tỉnh thuộc vùng ĐBSCLthì truyền thuyết công trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Lạng
địa danh TL1B còn thể hiện những tội ác dã man Sơn có hang Thái Đức, có núi Vua Ngự gắn liền
của giặc Pháp và bọn tay sai, ghi giữ lại những với chiến công giữ nước của Lê Hoàn” [1, tr. 52].
mất mát, đau thương cùng với lòng căm thù, cảm Cảm hứng bao trùm trong những truyền thuyết
xúc bi thương và tinh thần bi tráng của quần chúng dân gian nói trên là cảm hứng ca ngợi, tôn vinh
nhân dân vùng ĐBSCLtrong giai đoạn chống giặc những chiến công, những người anh hùng dân tộc
Pháp xâm lược. Những truyền thuyết tiêu biểu cho có nhiều công lao đối với cộng đồng. Trong khi
nội dung này: Lai lịch Trường Án Cần Lố, Khu đó, ở vùng ĐBSCL, tên gọi một địa danh, một
Mả Lớn (Đồng Tháp), Sự tích Vũng Liêm (Vĩnh con sông, một cánh đồng không chỉ gắn với chiến
Long), Sự tích Mả Hộc, Gò Trăm Đầu (LongAn). công dựng nước và giữ nước của cha ông mà đó
Chẳng hạn như ở lớp truyện thứ ba của truyền còn là nơi ghi dấu tội ác của quân thù, là nơi ghi
thuyết Gò Trăm Đầu được sưu tầm ở tỉnh Long dấu lòng căm thù của nhân dân đối với giặc ngoại
An đã kể về tội ác của giặc Pháp với tình tiết như xâm và bè lũ tay sai. Ở những địa danh này không
sau: “Pháp đã cho chém đầu hàng loạt nghĩa quân chỉ có những chiến công vẻ vang mà còn có cả
rồi chôn chung thành một gò mả ở ruộng Cây Keo những mất mát, hi sinh, là nơi đầu rơi, máu chảy
nên nhân dân gọi đây là Gò Trăm Đầu”. Hay là của quần chúng nhân dân trong lịch sử chống thù
lớp truyện thứ ba của truyền thuyết Sự tích Vũng trong, giặc ngoài. Vì vậy mà một số truyền thuyết
Liêm, tác giả dân gian đã kể lại tội ác của tên tay địa danh vùng ĐBSCL không chỉ chứa đựng cảm
62
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 36 (02-2019)
hứng ca ngợi và tôn vinh mà còn có cả cảm hứng những chi tiết kể trên đều là sản phẩm của sự hư
bi tráng khi kể về những mất mát, đau thương cấu, tưởng tượng của tác giả dân gian trong quá
của nhân dân, đặc biệt là trong thời kỳ chống giặc trình giải thích tên gọi Hồ Gươm gắn liền với chiến
Pháp xâm lược của nhân dân Nam Bộ khi chưa có công của Lê Lợi.
Đảng lãnh đạo.
Khác với những truyền thuyết vừa nêu trên,
Đặc điểm mang tính đặc trưng này của truyền trong 21 truyền thuyết thuộc TL1B chỉ có 01
thuyết địa danh TL1B có cơ sở từ đặc điểm lịch truyền thuyết chứa đựng yếu tố thần kỳ trong cốt
sử, xã hội của vùng ĐBSCL, đặc biệt là giai đoạn truyện. Đó là truyền thuyết Đám lá tối trời. Trong
lịch sử 1858- 1918, giai đoạn Pháp xâm lược Nam truyền thuyết Đám lá tối trời, yếu tố thần kỳ chỉ
Bộ. Nhân dân đứng lên chống Pháp bằng những vũ xuất hiện ở phần cuối của tác phẩm chứ không
khí thô sơ như dao phay, rơm con cúi trong hoàn xuất hiện với mật độ dày đặc như trong 02 truyền
cảnh triều đình nhà Nguyễn bất lực, yếu hèn. Cuộc thuyết ở vùng Bắc Bộ vừa kể trên: “Từ đó, thiên
chiến đấu khi chưa có một chính đảng lãnh đạo và hạ đồn rằng, đêm hôm ở vùng đám lá tối trời như
các cuộc khởi nghĩa hầu như đều thất bại. Hoàn có tiếng gào thét, như tiếng binh đao va chạm. Có
cảnh lịch sử ấy đã tác động rất lớn đến những nội khi, nghe như tiếng thiên binh vạn mã rầm rộ kéo
dung mang tính đặc trưng của truyền thuyết địa đi, có lúc lại nghe ngựa hí, người la và tiếng trống
danh TL1B nói riêng và của thể loại truyền thuyết trận”. Theo cách lý giải của dân gian thì những âm
dân gian vùng ĐBSCL nói chung.
thanh bí ẩn đó chính là sự xuất hiện của đội quân
Mặt khác, khảo sát truyền thuyết địa danh âm binh trong “đám lá tối trời”. Yếu tố thần kỳ
TL1B, chúng tôi nhận thấy sự vắng bóng của yếu này có ý nghĩa ca ngợi và tôn vinh những người
tố thần kỳ trong cấu tạo cốt truyện của các tác nghĩa sĩ đã hi sinh thân mình cho quê hương, cho
phẩm. Đây là nét đặc trưng thứ hai của truyền Tổ quốc. Lúc sống, họ là những anh hùng, khi
thuyết địa danh TL1B so với các truyền thuyết chết, hồn thiêng của họ vẫn còn luôn luôn gây nên
cùng tiểu loại ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.
nỗi lo sợ, hốt hoảng đối với quân thù. Đồng thời,
Chẳng hạn như truyền thuyết Sự tích xã Quán vai trò của yếu tố thần kỳ trong truyền thuyết này
Triều [4, tr. 515] lưu hành ở các tỉnh thuộc Bắc Bộ, còn là để linh thiêng hoá địa danh được đề cập đến
truyền thuyết này lí giải tên gọi địa danh xã Quán trong câu chuyện kể.
Triều gắn liền với việc kể về chiến công chống
So với một số truyền thuyết địa danh có liên
giặc Tống của nhân vật Quán Triều ở tỉnh Thái quan đến những nhân vật có công chống giặc ngoại
Nguyên. Trong truyền thuyết này, yếu tố thần kỳ xâm tiêu biểu ở một số tỉnh thuộc Bắc Bộ, chẳng
hay là sự hư cấu, tưởng tượng đóng vai trò quan hạn như Sự tích Hồ Gươm gắn với nhân vật Lê Lợi,
trọng trong cấu trúc tác phẩm. Yếu tố thần kì xuất với chiến công lẫy lừng chiến thắng giặc Minh xâm
kiện ngay từ đầu tác phẩm với sự kiện Quán Triều lược của dân tộc ở thế kỷ XV đã được nhiều người
được tiên nữ cho chiếc áo tàng hình. Nhờ chiếc áo thuộc nhiều địa phương trong cả nước đều biết
tàng hình này mà Quán Triều lấy được nhiều của đến. Trong khi đó, những nhân vật xuất hiện trong
cải trong kho chứa của nhà vua để chia cho dân truyền thuyết địa danh TL1B này thường không có
nghèo, nhờ áo tàng hình mà Quán Triều giúp vua những công trạng lớn. Vì thế mà tầm ảnh hưởng
chiến thắng giặc Tống xâm lược, nhờ áo tàng hình của nhân vật chỉ giới hạn trong phạm vi một địa
mà Quán Triều được vua gả công chúa Hồng Liên phương, một vùng nhất định. Cũng chính vì vậy
và được phong tước Hộ Quốc công. Có thể nói mà sự lan toả của mỗi câu chuyện kể thường không
yếu tố thần kỳ hiện diện trong suốt tác phẩm này. rộng, thông thường chỉ giới hạn trong một vài địa
Hay là truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm cũng phương lân cận. Điều này sẽ dẫn đến một hệ quả
chứa đựng trong nó nhiều yếu tố thần kỳ: Từ chi tất yếu là những địa danh có liên quan đến những
tiết ba lần thanh sắt đều chui vào lưới của Lê Thận nhân vật này chỉ được một số địa phương thuộc khu
đến chi tiết chuôi gươm nạm ngọc trên ngọn cây vực ĐBSCL biết và hiểu được ý nghĩa, nguồn gốc
đa và chi tiết rùa vàng nhận lại gươm thần. Tất cả của địa danh vốn rất gắn bó với nơi mình sinh sống.
63
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 36 (02-2019)
4. Kết luận
Trong cấu tạo cốt truyện của các tác phẩm
truyền thuyết địa danh có liên quan đến những sự
kiện và nhân vật có công chống giặc ngoại xâm
vùng ĐBSCL không thấy sự xuất hiện của motif
nhân vật “thụ thai và sinh nở thần kỳ” trong tiểu
loại truyền thuyết địa danh này. Kể cả motif nhân
vật “hiển linh” cũng xuất hiện một cách thưa thớt
trong hệ thống tác phẩm truyền thuyết địa danh
có liên quan đến những sự kiện và nhân vật có
công chống giặc ngoại xâm vùng ĐBSCL. Nhìn
chung, các yếu tố thần kỳ ít tham gia vào cốt
truyện. Trong khi đó, motif “sự thụ thai và sinh
nở thần kỳ”, motif “hóa thân”, motif “hiển linh”
xuất hiện khá phổ biến nếu không nói là một
thành tố không thể thiếu trong các truyền thuyết
dân gian ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ.
Thứ hai, bên cạnh cảm hứng sáng tác chủ đạo
là ca ngợi và tôn vinh các nhân vật lịch sử trong
quá khứ, truyền thuyết địa danh có liên quan đến
những sự kiện và nhân vật có công chống giặc
ngoại xâm vùng ĐBSCL còn chứa đựng cả cảm
hứng bi tráng, đó là sự thương cảm, xót xa của
nhân dân đối với những mất mát, hy sinh của
những nghĩa sĩ nông dân, những anh hùng trong
lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm ở vùng
ĐBSCL. Cảm hứng sáng tác này đã bổ sung thêm
những gam trầm, bổ sung thêm giọng điệu bi tráng
cho bản hợp ca về các nhân vật lịch sử trong quá
khứ của Việt Nam.
Với những đặc điểm mang tính đặc trưng
này, truyền thuyết địa danh TL1B nói riêng, truyền
thuyết dân gian của người Việt vùng ĐBSCL nói
chung đã có nhiều biến đổi khi được sáng tác và
lưu truyền từ vùng ngoài vào vùng ĐBSCL và có
những đặc trưng riêng so với truyền thuyết dân
gian ở các vùng miền khác trong cả nước, đặc biệt
là so với vùng đồng bằng Bắc Bộ. Những nét đặc
trưng này một mặt là do tác động bởi các yếu tố
về lịch sử - địa lý - văn hóa - xã hội và mặt khác,
do tính độc đáo trong sáng tác nghệ thuật của tác
giả dân gian ở mỗi vùng miền của Việt Nam./.
Với những đặc điểm của thể loại, truyền
thuyết địa danh TL1B vùng ĐBSCL không chỉ
giải thích tên gọi của địa danh mà quan trọng hơn,
truyền thuyết địa danh TL1B ở vùng đất mới phía
Nam này còn phản ánh và ghi giữ những nhân vật
và sự kiện lịch sử trong quá khứ có liên quan đến
địa danh theo quan điểm, thái độ, tình cảm của
nhân dân vùng ĐBSCL. Việc phản ánh này đã góp
phần lấp đầy một số khoảng trống trong lịch sử,
ghi nhận và khẳng định vai trò, sự ảnh hưởng của
một số nhân vật lịch sử trong quá khứ.
Cùng với cảm hứng ca ngợi và tôn vinh các
nhân vật tiền hiền, các nhân vật chống giặc ngoại
xâm... truyền thuyết địa danh TL1B vùng ĐBSCL
còn chứa đựng cả cảm hứng lên án, tố cáo những
tội ác dã man của quân thù - mà chủ yếu là giặc
Pháp xâm lược. Thực tế khảo sát hệ thống truyền
thuyết địa danh TL1B vùng ĐBSCL đã cho thấy,
truyền thuyết địa danh TL1B vùng ĐBSCLkhông
phải bao giờ cũng gắn với chiến công dựng nước
và giữ nước của cha ông như truyền thuyết địa
danh ở một số vùng miền khác trong cả nước mà
truyền thuyết địa danh TL1B ở vùng đất mới phía
Nam này còn gắn với những tội ác của giặc Pháp
và bọn tay sai ác ôn. Đây cũng là một đặc điểm
mang tính đặc trưng của thể loại truyền thuyết dân
gian vùng ĐBSCL.
So với truyền thuyết địa danh ở vùng Bắc Bộ,
truyền thuyết địa danh TL1B vùng ĐBSCLcó một
số điểm tương đồng và dị biệt. Điểm tương đồng
thể hiện chủ yếu ở nội dung dân tộc lịch sử, ở cốt
lõi lịch sử của tác phẩm luôn gắn bó chặt chẽ với
những đặc điểm lịch sử - xã hội và văn hóa ở một
vùng miền cụ thể. Điểm dị biệt thứ nhất thể hiện ở
xu hướng bám sát hiện thực lịch sử của tác phẩm,
yếu tố thần kỳ xuất hiện thưa thớt trong hệ thống
truyền thuyết địa danh có liên quan đến những sự
kiện và nhân vật có công chống giặc ngoại xâm
vùng ĐBSCL, cốt truyện thường đơn giản và ít
tình tiết.
Tài liệu tham khảo
[1]. Trần ThịAn (1999), “Truyện kể địa danh, từ góc nhìn thể loại”, Tạp chí Văn học, (số 3), tr. 50.
[2]. Nguyễn Tấn Đắc (2001), Truyện kể dân gian đọc bằng type và Motif, NXB Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
64
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 36 (02-2019)
[3]. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1992), Từ điển thuật ngữ Văn học, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
[4]. Kiều Thu Hoạch (2004), Tổng tập Văn học dân gian người Việt, tập 4, NXB Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
[5]. A. Hornby (2010), Oxford Advanced Learners Dictionary, Oxford University press.
[6]. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam (2006), Lý luận Văn học, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
[7]. Nguyễn Thị Nguyệt (2000), Khảo sát và so sánh một số type và motif truyện cổ dân gian Việt
Nam - Nhật Bản, Luận án tiến sĩ Ngữ văn.
[8]. Lê Trường Phát (2000), Thi pháp Văn học Dân gian, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[9]. Hoàng Phê (1988), Từ điển Tiếng Việt, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
[10]. Nguyễn Minh Phúc (2008), “Anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ với chiến thắng Rạch Gầm
- Xoài Mút”, Tiền Giang - Nhân vật lịch sử và di tích liên quan, tập 1, Sở Văn hóa Thể thao Du lịch
Tiền Giang.
THE CHARACTERISTICS OF PLACE-NAME LEGENDS RELATED TO HISTORICAL
EVENTS AND ANTI-INVASION FIGURES IN THE MEKONG DELTA
Summary
This article analyzes and identifies the characteristics of place-name legends related to historical
events and anti-invasion figures in the Mekong Delta. These characteristics are identified by surveying
and analyzing the plot, structural features of narrative elements in the Mekong Delta place-name legends.
Keywords: Legends, place names, history, plot, the Mekong Delta.
Ngày nhận bài: 03/01/2019; Ngày nhận lại: 15/02/2019; Ngày duyệt đăng: 25/02/2019.
65
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm truyền thuyết địa danh có liên quan đến những sự kiện lịch sử và nhân vật có công chống giặc ngoại xâm ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- dac_diem_truyen_thuyet_dia_danh_co_lien_quan_den_nhung_su_ki.pdf