Đạo tin lành và kinh tế tôn giáo ở Đông Nam Á: Bối cảnh lịch sử của một vấn đề mang tính thời sự khu vực

Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 – 2019  
69  
PASCAL BOURDEAUX*  
ĐẠO TIN LÀNH VÀ KINH TẾ TÔN GIÁO Ở ĐÔNG NAM Á:  
BỐI CẢNH LỊCH SỬ CỦA MỘT VẤN ĐỀ MANG TÍNH  
THỜI SỰ KHU VỰC1  
Tóm tắt : Bài viết phác họa mối quan hệ chặt chẽ và lâu đời  
giữa đạo Tin Lành và kinh tế qua việc nghiên cứu trường hợp  
diễn ra ở Thái Lan, Indonesia và Singapore. Trước hết, tác giả  
gợi lại nguồn gốc của cuộc thảo luận này rồi đặt nó trong  
chiều dài lịch sử, từ thời tiền công nghiệp đến thời hậu thuộc  
địa. Tác giả phân chia theo niên đại để phục nguyên và đánh  
giá tốt hơn sự tương tác giữa kinh tế và văn hóa trong sự vận  
hành tiến triển của thế kỷ XXI và từ đó đặt ra câu hỏi là làm  
thế nào mà các nước Đông Nam Á điều chỉnh các vấn đề đa  
dạng tôn giáo và phát triển kinh tế ở cấp độ quốc gia. Chuyên  
khảo được lấy cảm hứng từ các thuật ngữ trong “Research and  
Training on Religion and Rule of Law Program”1 (Chương  
trình nghiên cứu và giảng dạy Tôn giáo và Pháp quyền) đặc  
biệt là phạm vi lý luận và thực tiễn được viết dưới hình thức  
tổng hợp hơn là phân tích. Bài viết với ba mục đích: Chia sẻ  
những suy ngẫm mang tính phương pháp luận về những tương  
tác Tôn giáo- Kinh tế trong khối ASEAN; đưa ra một số kết  
luận qua công trình tập thể về truyền giáo của đạo Tin Lành ở  
Đông Nam Á mà tác giả là đồng chủ biên; và cung cấp thêm  
một số suy ngẫm về sự đóng góp của khoa học lịch sử vào cuộc  
thảo luận và kinh nghiệm thực tế.  
Từ khóa: Tôn giáo-Kinh tế, Tin Lành, truyền giáo, Đông Nam Á.  
*
Trường Cao học Thực hành - École Pratique des Hautes Études- Paris Sciences et  
Lettres Research Université.  
1
Bài viết đã được sửa đổi chút ít từ bài thuyết trình tại Hội thảo Quốc tế Tôn giáo,  
kinh tế và cộng đồng ASEAN (21-24/10/2017). Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn tới  
các đơn vị tổ chức gồm Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, Đại  
học Brigham Young và Viện Liên kết Toàn cầu (IGE).  
70  
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2019  
Giới thiệu chung  
Vào đầu thế kỷ XXI, Đông Nam Á quả nhiên là một trong những  
khu vực sinh lợi và phát triển nhất trên thế giới trong lĩnh vực kinh tế. Ở  
quy mô quốc gia, các phân tích cho thấy tình trạng tương phản về các  
chỉ số phát triển con người (IDH), điều tiết cơ chế thị trường hay thích  
ứng kinh tế toàn cầu. Mặc dù có sự chênh lệch lớn, Đông Nam Á qua  
cộng đồng ASEAN đã cố gắng vươn mình để trở thành nền kinh tế hòa  
nhập nhất gắn liền với khu vực, một thị trường đang khởi sắc trong đó  
những khái niệm như đói nghèo, hỗ trợ phát triển, công nghiệp nặng  
được thay thế bằng các khái niệm như tiêu dùng, phát triển bền vững,  
phồn vinh thịnh vượng. Điều này đã đưa tới sự xuất hiện những hoạt  
động kinh tế, xã hội mới trong các thập kỷ gần đây. Dù tán thành hay  
phản đối, những biến đổi này vẫn là các hiện tượng xã hội đã và đang  
diễn ra, là những thách thức đối với xã hội truyền thống, các nhà nước  
thế tục cũng như các bài thuyết giảng luân lý được khuyến khích bởi  
các tôn giáo và nhiều tín ngưỡng dân gian khác nhau.  
Trong số các tổ chức tôn giáo hiện nay, đạo Tin Lành là một trong  
những tổ chức năng động nhất đến mức mà châu Á hiện nay đã trở  
thành châu lục đứng đầu trong việc truyền giáo Tin lành trên toàn cầu.  
Sự khởi sắc của tôn giáo này vô cùng hiện đại. Mặc dù sự có mặt lâu  
đời của một số hệ phái xuất phát từ Luther. Sự xuất hiện dày đặc và  
nhanh chóng trước hết được giải thích bằng việc xuất hiện tràn ngập các  
nhà thờ như là sự thử nghiệm cách thức hội nhập văn hóa-tôn giáo hiệu  
quả qua tinh thần truyền giáo mới, đó là mục tiêu cải đạo toàn cầu2 và  
cũng là sự nhạy bén điển hình đậm chất Á Đông. Vượt ra khỏi sự bài  
trừ khắc nghiệt mang tính xã hội, kinh tế và tôn giáo, các cộng đồng Tin  
lành tập hợp hơn 200 triệu tín hữu ở châu Á. Con số này lớn hơn các  
cộng đồng thuộc lục địa châu Phi (170 triệu người) và Nam Mỹ (122  
triệu người) dù những châu lục này nổi tiếng là những miền đất mới của  
tín lý Ngũ Tuần, lục địa Bắc Mỹ (99 triệu người) hoặc châu Âu (23  
triệu người) ở những lục địa được coi là cái nôi của đạo Tin Lành3.  
Những phong trào Ngũ Tuần mới và Đặc Sủng dường như cũng rất  
năng động trong việc truyền bá ý niệm toàn diện về tính hiện đại, về  
đạo đức và sự giàu sang thịnh vượng. Việc truyền bá Phúc Âm biết  
Pascal Bourdeaux. Đạo Tin Lành và kinh tế tôn giáo ở Đông Nam Á…  
71  
cách thu lợi nhuận từ bối cảnh phổ truyền mang tính ôn hòa. Nhưng  
các giáo hội cũng biết cách tác động lẫn nhau bằng việc khởi xướng  
phương thức tiếp cận lý thuyết Weber mới về chức năng kinh tế trong  
tôn giáo và tái hội nhập phông văn hóa nền của các cộng đồng thuộc  
Đông Nam Á. Từ nhiều thập kỷ, sự tương tác và thâm nhập lẫn nhau  
giữa Kinh tế và Tôn giáo đã được phân tích dưới nhiều góc độ. Để cụ  
thể hóa ý nghĩa của cụm từ “Kinh tế tôn giáo” ở khu vực Đông Nam  
Á, bài viết này phác họa mối quan hệ chặt chẽ và lâu đời giữa đạo Tin  
Lành và kinh tế tự do qua việc nghiên cứu từng trường hợp diễn ra ở  
Thái Lan, Indonesia và Singapore. Để làm việc này, trước hết, chúng  
tôi gợi lại nguồn gốc của cuộc thảo luận này rồi đặt nó trong chiều sâu  
lịch sử, từ thời Tiền công nghiệp đến thời Hậu thuộc địa. Chúng tôi đề  
nghị phân chia theo niên đại để phục nguyên và đánh giá tốt hơn các  
tương tác giữa kinh tế và văn hóa trong sự vận hành tiến triển của thế  
kỷ XXI và từ đó đặt ra câu hỏi là làm thế nào mà các nước Đông Nam  
Á điều chỉnh các vấn đề đa dạng tôn giáo và phát triển kinh tế ở cấp  
độ quốc gia. Chính tư duy lịch sử này cần tính đến các định hướng  
mong muốn hay thực tế của khu vực ASEAN trong sự biến chuyển  
của nền kinh tế thị trường, hội nhập vào một tổ chức khu vực nơi mà  
sự đa dạng tôn giáo được tôn trọng và các bài thuyết giảng về kinh tế  
được lắng nghe.  
Ba tổ hợp Kinh tếTôn giáo”  
Định nghĩa sự tương tác giữa hoạt động kinh tế và niềm tin tôn giáo  
cũng như niềm tin kinh tế và hoạt động tôn giáo cố gắng ngược dòng  
trở về sự khởi đầu rối rắm, trước cả thời kỳ mà các khu vực kinh tế và  
tôn giáo tự trị tồn tại song song với chính trị, pháp luật, văn hóa theo  
cơ chế hiện đại, cần thiết phải đi từ những mâu thuẫn sơ khai về  
những mối tương tác không ngừng diễn ra.  
Về bản chất, cả tôn giáo và kinh tế cùng kết nối con người qua các  
hoạt động sống cơ bản (sản xuất, tái phân phối) và ý nghĩa (thực tiễn,  
biểu tượng) mà chúng đem lại. Cả hai đều là sự đồng nhất về việc  
chấp nhận các quy chuẩn chung (tín ngưỡng, quy tắc, cách thức) và  
các giá trị chung với mục đích tổ chức xã hội và/hoặc cộng đồng tín  
hữu. Có thể thấy những phê bình phổ biến, không chỉ đến từ trường  
72  
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2019  
phái vô thần, rằng người ta hướng về thế giới tôn giáo trong mối quan  
hệ với thế giới vật chất và kinh tế, nghĩa là các nguy cơ về sự ăn bám  
và không sinh lợi, sự mâu thuẫn giữa các bài thuyết giảng về sự nghèo  
đói và sự tích lũy tài sản, nhà cửa, đất đai; niềm hy vọng hão huyền  
vào các thế lực siêu nhiên trong những lúc bất ổn về vật chất và tâm  
lý, việc truyền giáo chú trọng vào những thời điểm khủng hoảng kinh  
tế hay còn là sự lợi dụng lòng tin từ các tổ chức giả dạng tôn giáo.  
Ngược lại, các tôn giáo có thể có những can thiệp tích cực trên nhiều  
phương diện xã hội, chính trị và triết học: Tôn giáo có thể đóng vai trò  
tái phân phối, liên kết, bác ái từ thiện, đồng hành hoặc quản trị các  
phúc lợi Nhà nước, đề xuất các giải pháp khác để giải quyết tình trạng  
chính trị và kinh tế độc quyền, đề xuất một tầm nhìn theo hướng vượt  
ra ngoài sự vị lợi và tính hợp lý khoa học bằng việc đưa các khái niệm  
như lợi ích, lợi nhuận, sự lựa chọn lý tính vào các cuộc thảo luận; đặt  
câu hỏi về sự cần thiết của việc làm sản sinh lợi nhuận, về sự toàn cầu  
hóa hiện nay, thậm chí đôi khi dùng những cách thức phản ứng tranh  
chấp triệt để (Chính thể thần quyền không tưởng chống chủ nghĩa Tư  
bản và công kích tiêu dùng).  
Định nghĩa mối quan hệ “kinh tế và tôn giáo” đặt vấn đề về bản  
chất mối quan hệ bình đẳng hoặc lệ thuộc của lĩnh vực này đối với  
lĩnh vực kia. Chúng ta có thể giả định rằng quyền tự trị rõ nét trong  
khuôn khổ các xã hội thế tục bảo đảm sự trung lập và sự bình đẳng  
về mặt lý thuyết. Trong những bối cảnh khác, tình trạng cũng sẽ khác  
đi: ở những nơi ủng hộ thuyết vô thần trong nền chính trị quốc gia,  
tôn giáo với tư cách là một cấu trúc sẽ bị yếu đi và kinh tế được nâng  
cao thành thượng tầng có hiệu lực và làm cho xã hội biến chuyển. Ở  
những nơi mà tôn giáo được ủng hộ khuyến khích ở cấp quốc gia,  
thần học và các quan điểm về sự khổ hạnh tại thế4 trong các tổ chức  
tôn giáo dùng để xác định các chuẩn mực và giá trị kinh tế. Các  
chuẩn mực và giá trị xã hội rất thường xuyên bị tác động, rằng kết  
quả mong đợi từ các hành động này phải diễn ra ngay lập tức (ở ngay  
trần thế) hay sự báo đáp sẽ đến (nhân quả, nghiệp). Sự liên kết giữa  
hai thuật ngữ “Kinh tế và Tôn giáo” thiết lập mối quan hệ đầu tiên vô  
cùng sâu rộng và kém hiệu quả bởi vì nó mở ra một số lượng gần  
Pascal Bourdeaux. Đạo Tin Lành và kinh tế tôn giáo ở Đông Nam Á…  
73  
như không hạn chế những tình huống theo các định nghĩa mà chúng  
ta đặt ra liên quan đến tôn giáo theo hệ thống và theo quy mô kinh tế  
liên quan.  
Cụm từ “kinh tế tôn giáo” trong tổng thể kinh tế cho phép định  
nghĩa lĩnh vực này rõ hơn. Nó khoanh vùng các hoạt động kinh tế ủng  
hộ việc thực hành tôn giáo hoặc bảo đảm sự vận hành cả mặt tài chính  
trong cộng đồng giáo hữu. Nó cũng liên quan đến các hoạt động được  
khuyến khích hoặc bị cấm đoán trong một tín ngưỡng. Thường thì tác  
dụng của nó rõ rệt, có thể định lượng và làm nổi bật các xu hướng.  
Tuy nhiên, cách tiếp cận này quá thiển cận và máy móc để có thể đề  
cập đến tất cả sự phức tạp của các hoạt động tôn giáo.  
Qua nhiều thập kỷ, cụm từ “kinh tế tôn giáo” đã không ngừng được  
lưu truyền. Nó mở rộng phạm vi nghiên cứu trong khi đề xuất một góc  
độ tiếp cận mới: để lập lại sự tương tác giữa hai thuật ngữ này, cần  
nhớ rằng hai thành tố này vốn là các thành tố tự trị trong chế độ xã hội  
thế tục, tôn giáo quả nhiên được xem như một hiện tượng kinh tế thực  
thụ. Tôn giáo có thể bị quy phục bởi các thuyết kinh tế nhằm nghiên  
cứu sự trao đổi giữa các “tài sản dâng cúng” và các dịch vụ tâm linh,  
các hiện tượng thương mại và hàng hóa, các mô hình cộng đồng hóa  
(cách tiếp cận doanh nghiệp hóa- giáo hội), tiếp thị tôn giáo, tác động  
của sự cạnh tranh tôn giáo.  
Người ta nhận thấy rõ tác dụng của thuyết kinh tế phổ biến. Cách  
tiếp cận này bắt nguồn một cách tự nhiên từ mô hình tư bản được củng  
cố từ những năm 1980 do sự suy tàn của mô hình kinh tế Xô Viết đã  
sụp đổ hoặc chuyển thành “nền kinh tế thị trường Xã hội chủ nghĩa”  
(như trường hợp Trung Quốc và Việt Nam) bởi việc đặt lại nghi vấn  
về cách nhìn tuyến tính và độc nhất về sự trần tục hóa (sự thiết lập các  
nhà nước Islam giáo ở Iran vào năm 1979, “sự trở lại của tôn giáo”  
trong các xã hội Tây phương và các nước Xã hội chủ nghĩa cũ), do sự  
hồi sinh của xã hội Dân chủ và các Nhà nước phúc lợi (trừ trường hợp  
Bolivia ở Nam Mỹ) đối mặt với hoạt động tự do kinh tế mới của xã  
hội đương đại. Sự thoái trào này có lẽ trực tiếp gắn liền với bối cảnh  
toàn cầu hóa mà tác động gây ra có thể nhận thấy qua sự toàn cầu hóa  
lối sống, tư tưởng chính trị và niềm tin tôn giáo.  
74  
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2019  
Chuyên ngành Xã hội học tôn giáo đã chỉ rõ sự tự do ý chí cá nhân  
và các hiện tượng chối bỏ tín ngưỡng đã cho phép cải từ một đạo đang  
thực hành sang một đạo khác do mình tự do lựa chọn, thậm chí có thể  
kết hợp các tôn giáo với nhau5. Xét từ quan điểm xã hội vĩ mô, Peter  
Berger là người đầu tiên đề cập đến vấn đề thị trường tôn giáo6 ngay  
từ những năm 1960. Tiếp theo quan điểm của ông, các nhà xã hội học  
và nhân học, những nhà dự báo về nền kinh tế tôn giáo đã phân tích  
một số phân khúc đặc biệt như Hefner nghiên cứu về động cơ kinh tế  
trong việc gia nhập tôn giáo7. Iannaccone đã chỉ ra sự tập trung tôn  
giáo vẫn luôn tồn tại trong các xã hội hiện đại, bà đã chỉ ra những tác  
động của tôn giáo lên kinh tế theo nhiều cấp độ khác nhau (cá nhân,  
gia đình, các tổ chức đoàn thể) và những tác động của chúng về mặt  
chính trị. Một số nhà nghiên cứu khác đã đảo ngược mối quan hệ khi  
đề xuất rằng tôn giáo không phải là một chất liệu có thể uốn nắn, nó  
thích nghi với bối cảnh tư bản và những điều này đã được chứng  
minh, chẳng hạn như phân tích về các nghi thức và suy tưởng dưới  
góc độ hiệu quả và năng suất, sức hấp dẫn của những không gian  
thiêng liêng và tác dụng của chúng về mặt du lịch tâm linh, sự cuồng  
nhiệt hứng khởi trong các thánh lễ tập thể. Tôn giáo có khuynh hướng  
làm đảo ngược, hành động để tôi luyện thành một “tinh thần tôn giáo  
tư sản mới” tới mức hiện nay có thể nói là “tư bản tôn giáo”, lòng trắc  
ẩn tư sản (compassionate capitalism) hay “tôn sùng chủ nghĩa vật  
chất”. Một lần nữa, điểm gặp gỡ giữa kinh tế và tôn giáo không chỉ  
trên bình diện đạo đức mà còn trong khuôn khổ của chủ nghĩa Tư bản.  
Cách tiếp cận này từ nay đã không còn là bí mật đang có xu hướng  
dần dần bắt buộc trong lĩnh vực Khoa học Xã hội. Lấy ví dụ một  
nghiên cứu gần đây gồm hai tập, “Religion in the neoliberal Age”  
(Tôn giáo trong kỷ nguyên tự do mới), “Religion and Consumer  
Society” (Tôn giáo và xã hội tiêu dùng) đã minh họa cho những vấn  
đề mà chúng tôi đề cập8. Cần chú ý là việc thành lập các hiệp hội đã  
thể hiện cấu trúc của phạm vi nghiên cứu (European Networks of the  
Economics of Religion, Center for the Economic Study of Religions).  
Đó là thư mục chuyên đề được tạo ra và thường xuyên, được cập nhật  
bởi các nhà nghiên cứu ở Đại học Munich và Đại học Salzburrg9 cũng  
đã chứng tỏ rằng các nghiên cứu được mở rộng phát triển liên tục.  
Pascal Bourdeaux. Đạo Tin Lành và kinh tế tôn giáo ở Đông Nam Á…  
75  
Kinh tế tôn giáo và đạo Tin Lành ở Đông Nam Á: Đặt trong bối  
cảnh lịch sử  
Chúng ta đặt các mốc cho vấn đề này trong phạm vi vùng miền.  
Vào thời tiền công nghiệp, Đông Nam Á gắn liền với các trục đường  
giao lưu thương mại lớn và thể hiện khả năng hòa nhập nhanh chóng  
vào các mạng lưới đế chế thuộc địa. Vùng này sau đó đã tiếp tục trải  
nghiệm các hướng phát triển đa dạng (thế giới thứ ba, luận thuyết về  
toàn cầu hóa và quốc gia hóa kinh tế tự do, kinh tế hoạch định thiết lập  
theo lý thuyết về cách thức sản xuất châu Á), đôi khi phải chịu đựng  
hoàn cảnh chiến tranh. Khi hòa bình, ổn định và an toàn được thiết lập  
trở lại, vùng này đã chứng kiến những “con rồng” bay lên mang theo  
những đất nước đang thời kì quá độ hoặc kém phát triển hơn nên phải  
cố gắng vươn mình để trở thành những “con hổ châu Á” tương lai. Do  
vậy, Đông Nam Á đã trở thành động cơ sản xuất kinh tế toàn cầu, một  
địa điểm cải tiến khoa học công nghệ, là phòng thí nghiệm để làm  
phép thử về tài nguyên con người địa phương vào các công nghệ quản  
lý mới (trong đó có kể đến các “giá trị châu Á”), một thị trường mà sự  
cạnh tranh thương mại ngày càng khắc nghiệt nhằm thống trị một số  
hạng mục công nghiệp, nông- công nghiệp, tài sản và dịch vụ, tài  
chính. Lợi ích chính mà vùng này đem lại hiện nay đến từ các thành  
quả kinh tế và tiềm năng phát triển của vùng.  
Suốt chiều dài thế kỷ XX, Khoa học Xã hội và Nhân văn đã phát hiện  
ra nền tảng chính trị, kinh tế và văn hóa trong các xã hội truyền thống  
trước khi quan tâm đến quá trình hiện đại hóa trong phạm vi thuộc địa đô  
hộ hay nói cách khác là sứ mệnh truyền bá văn minh. Từ sự tăng trưởng  
mạnh mẽ trong vòng hai thập kỷ cuối, một mặt là quá trình giải phóng  
dân tộc và mặt khác là sự hội nhập toàn cầu của các xã hội và kinh tế bản  
địa, các chuyển hóa trở nên phổ biến và tăng tốc chứng minh sự cần thiết  
trong việc mở ra những đối tượng nghiên cứu mới dưới sự hỗ trợ của các  
phương pháp phân tích tân tiến. Sự biến đổi của các xã hội nông thôn,  
công nghiệp hóa, sự linh hoạt về tài sản, về dịch vụ và con người, sự toàn  
cầu hóa, truyền thông đại chúng, kinh tế kỹ thuật số, tiêu chuẩn hóa về  
ứng xử trong xã hội tiêu dùng và giải trí, cho thấy sự chênh lệch lớn tất  
yếu giữa cách nhìn phổ biến thời xưa và sự năng động nội sinh hiện tại.  
76  
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2019  
Thực ra thì các nghiên cứu về xã hội, kinh tế, văn hóa cũng như tôn  
giáo đều là sự phát hiện các địa điểm tôn giáo và việc soạn thảo các  
học thuyết lớn, việc nghiên cứu các văn bản Kinh thánh, tín ngưỡng  
truyền thống và dân gian, lịch sử giáo phái, người ta đều cho rằng các  
tôn giáo tồn tại qua những biểu hiện xã hội và chính trị, qua sự phân  
biệt tính năng động trong nội bộ tôn giáo (cải cách tôn giáo, chính  
thống, dân tộc hóa) và ngoại vi (đa nguyên luận, toàn cầu hóa, phi  
lãnh thổ hóa tôn giáo). Các khoa học Nhân văn cũng đã vượt qua  
ngành Dân tộc học tôn giáo Đông Nam Á, ngành Xã hội học về hiện  
đại hóa tôn giáo và gần đây nhất là những phân tích chính trị-pháp lý  
về đa tôn giáo và những biểu hiện của chúng nơi công cộng. Tùy theo  
trường hợp, các nước phải quản lý sự hiện diện của đa số hay thiểu số  
tín đồ Phật giáo, Công giáo, Islam giáo, Hindu giáo, những hiện tượng  
tôn giáo bản địa hoặc ngoại lai mới xuất hiện, những tín ngưỡng thời  
tiền sử và không bỏ qua những yêu sách đôi khi rất mạnh mẽ đến  
những người ngoại đạo, vô thần. Sự huy động nhiều khái niệm và  
công cụ kinh tế khẳng định khuynh hướng mới trong nghiên cứu các  
hiện tượng tôn giáo. Mối tương quan, hay đúng hơn là sự chồng chéo,  
giữa việc mở rộng kinh tế và tính năng động của tôn giáo tạo ra đồng  
thời hai lợi ích khoa học và chính trị.  
Trong lĩnh vực nghiên cứu Đông Nam Á, khuynh hướng nghiên  
cứu có vẻ đồng nhất. Cường độ có vẻ kém đi, phong trào mới hơn  
(đầu những năm 2000)10 nhưng sự gia tăng các công trình nghiên cứu  
có triển vọng trở thành chủ chốt trong tương lai gần. Bằng chứng là  
việc ấn hành gần đây một cuốn sách mang tính nền tảng, theo định  
nghĩa về kinh tế tôn giáo, tìm tòi qua việc đặc cách hóa ý nghĩa của nó  
trong phạm vi Đông Nam Á. Quả vậy, ở mức độ vùng miền, cần phải  
tính đến tính đa dạng tôn giáo cố hữu và sự thích ứng khác nhau với  
mô hình tư bản để đạt đến cấp độ phân tích tiếp theo còn gọi là “mặc  
cảm đạo đức” (moral complexities)11 mà trong đó đề cập đến các bình  
diện về giá trị và động cơ, sự tương tác giữa sự phồn thịnh kinh tế và  
sự linh hoạt về tôn giáo.  
Ở đây, cần nhắc lại rằng những tương tác này có chiều hướng tiến  
triển và chúng phản ánh cả một quá trình lịch sử về sự học hỏi, thích  
Pascal Bourdeaux. Đạo Tin Lành và kinh tế tôn giáo ở Đông Nam Á…  
77  
ứng các lý thuyết hiện đại liên quan đến sự vận hành kinh tế ở Đông  
Nam Á. Những người sáng lập đã phát triển từ xã hội học các tư tưởng  
lịch sử-phê bình để đặt câu hỏi hoặc vượt ra ngoài khuôn khổ lý  
thuyết. Văn học đã đề cập rất nhiều về chủ đề này. Chỉ đơn cử trường  
hợp của Max Weber, dựa trên nền tảng tôn giáo, ông đã cố gắng giải  
thích các hoạt động kinh tế theo sơ đồ các giá trị: theo ông, học thuyết  
Calvin có thể là một trong những yếu tố chủ chốt (không phải là  
nguyên nhân) của sự hình thành chủ nghĩa Tư bản12. Một số nhà tư  
tưởng khác cũng thử kết nối giữa Xã hội học kinh tế và Xã hội học tôn  
giáo. Trường hợp đặc biệt Émile Durkheim và những người thân cận  
(đặc biệt là Marcel Mauss) đã coi tôn giáo như một sức mạnh đối lập  
với thuyết vị lợi, chủ nghĩa tự do và ngay cả chủ nghĩa duy vật lịch sử.  
Đối với họ, trước cả kinh tế, tôn giáo giữ vai trò tự trị, độc lập với  
những bình diện khác của đời sống xã hội và nó chính là cội nguồn  
của mọi thứ được hình thành trong xã hội13. Tiền tệ là đối tượng trung  
tâm. Georg Simmel trong tác phẩm “Triết học về tiền tệ” (Philosophie  
de l’argent) cũng đã giải thích rằng trong các xã hội hiện đại thế tục,  
tiền bạc là một tín ngưỡng và là đức tin. Tình trạng chờ đợi là khởi  
nguồn của khái niệm về giá trị và một dạng thức tư duy tập thể.  
Những cách tiếp cận triệt để hơn cũng cho rằng sự phụ thuộc của kinh  
tế vào tôn giáo đòi hỏi phải vượt ra ngoài khuôn khổ tôn giáo để hành  
động biến đổi và giải phóng kinh tế có thể triển khai. Marx giải thích  
làm thế nào mà tôn giáo ngăn chặn được mọi chỉ trích về hệ thống  
hiện hành và làm thế nào mà con người chịu đựng được đồng thời hai  
hiện tượng tha hóa kinh tế và tôn giáo. Cũng cần đề cập thêm tới  
Walter Benjamin, phê bình của ông dựa vào phép loại suy giữa chức  
năng của tôn giáo và chức năng của chủ nghĩa Tư bản.  
Một số ví dụ nêu trên chứng minh sự đa dạng của các mối quan hệ  
giữa tư duy kinh tế và các hiện tượng tôn giáo. Phần lớn các chứng  
minh này dựa vào việc phân tích các nền kinh tế phương Tây quá độ  
từ Cách mạng Công nghiệp sang chủ nghĩa Thực dân bành trướng. Về  
phương diện tôn giáo thì đều theo các học thuyết độc thần quan trọng  
thuận theo xu hướng hiện đại. Ngay cả khi Weber đã thử một kiểu  
tổng hợp phổ quát bằng cách gộp 4 tôn giáo lớn ở châu Á (Hindu giáo,  
78  
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2019  
Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo) với nhau, ông vẫn bị phụ thuộc vào  
các kiến thức Tây phương14 và vì thế mà sự chứng minh của ông đã  
giải thích những điểm đối lập đã từng được định nghĩa trong giáo lý  
Tin Lành.  
Bản chất của các nền kinh tế và các tôn giáo truyền thống nằm  
ngoài những đề cập này. Các phong trào hiện đại hóa ở châu Á đưa ra  
những giải pháp thay thế khác vẫn còn ở trạng thái trứng nước. Dĩ  
nhiên, trong số các học thuyết lớn về kinh tế chính trị15 có tính cạnh  
tranh với các quan niệm tại thế truyền thống của Đông Nam Á, đó  
chính là phê bình Mác xít, thậm chí là Mác-Lê Nin trong bối cảnh  
thuộc địa của chủ nghĩa Tư bản và các tôn giáo tha hóa đã nhận được  
sự tiếp đón nồng nhiệt nhất. Chủ nghĩa Xã hội Khoa học và Cách  
mạng được truyền bá bởi phong trào Cộng sản quốc tế đã trở thành chỉ  
dẫn nền tảng cho lý tưởng độc lập hơn là các học thuyết Dân tộc chủ  
nghĩa (trường phái bảo thủ hoặc các nhà cách mạng vô thần) đã xác  
định mối quan hệ Kinh tế/Tôn giáo trong quan hệ hoặc cộng sinh hoặc  
phụ thuộc nhưng trong khuôn khổ chặt chẽ của Quốc gia dân tộc và  
còn hơn cả những luận thuyết tự do hoặc dân chủ-xã hội mang tính  
đặc trưng liên quan đến chế độ tự trị và các mối tương tác lẫn nhau.  
Nếu chúng ta trở lại phạm vi khoa học, cần nhớ rằng trong suốt thời  
kỳ chia rẽ này (chiến tranh lạnh và thế giới thứ ba), những xung đột  
chính trị và quân sự tăng gấp đôi, về chiến tranh về hệ tư tưởng diễn ra  
trên tất cả các bình diện kinh tế, công nghệ, xã hội và văn hóa. Người  
ta ước lượng rằng quá trình thế tục hóa diễn ra vào thời điểm này là tất  
yếu. Các yếu tố tôn giáo chẳng hơn gì những dấu vết cổ xưa đã bị xếp  
vào hàng phụ. Vì thế, những cách tiếp cận không thuộc Mác xít đã  
không thực sự đi đến cùng trong việc nghiên cứu các mối quan hệ  
giữa tôn giáo và kinh tế. Trong phạm vi nghiên cứu Đông Nam Á,  
Clifford Geertz có lẽ là người đầu tiên tham khảo một cách công khai  
thuyết Xã hội học của Wenber16 trong cuốn Religion of Java (1960),  
sau đó đến James Peacock trong nghiên cứu về Islam giáo ở Indonesia  
(Muslim Puritans: The Reformist Psychology in Southeast Asian  
Islam, 1978). Cuối những năm 1970 đã diễn ra cuộc tranh luận giữa  
những người theo trường phái kinh tế đạo đức (James Scott) và những  
Pascal Bourdeaux. Đạo Tin Lành và kinh tế tôn giáo ở Đông Nam Á…  
79  
người theo thuyết về sự lựa chọn lý tính (Samuel Popkins). Rồi lĩnh  
vực trí tuệ đã tiếp tục được mở rộng và phổ biến tới tận ngày nay  
trong sự thích ứng không ngừng với những chuyển biến chính trị, kinh  
tế và tôn giáo trong khu vực.  
Yếu tố cuối cùng can thiệp vào nhận định mang tính sử liệu chính  
là nghiên cứu đặc biệt về đạo Tin Lành ở Đông Nam Á. Nghiên cứu  
này trước hết được đặt ngoài ranh giới của lịch sử Cơ Đốc giáo ở châu  
Á (cũng chính là lịch sử Công giáo). Lịch sử truyền giáo của đạo Tin  
Lành không chỉ mới đây mà học thuyết truyền giáo phát triển đã tồn  
tại dưới nhiều dạng thức tùy theo bối cảnh. Nếu như những tài liệu  
viết được giữ kín cho tới giữa thế kỷ XX là do chúng bị cấm trong đời  
sống tôn giáo ở các nhà thờ địa phương (chủ yếu ở các đế chế thực  
dân như Hà Lan và Anh), hoặc các tài liệu này viết về các kế hoạch  
truyền giáo sắp tới. Ngoài các nguồn nội bộ, lợi ích trước hết có thể  
thấy là trong khi sự lôi kéo nhiệt tình của Tin lành xuất phát từ cuộc  
Đại Tỉnh thức lần thứ hai đã khởi động những thách thức đầu tiên về  
mặt pháp lý đối với các nhà chức trách địa phương, bởi vì tôn giáo này  
đã quy phục hàng loạt người theo đạo ở các vùng núi (bán đảo  
Indonesia) hay những người nhập cư (vùng Mã Lai). Tình trạng chiến  
tranh lạnh tiếp tục chính trị hóa các cuộc thảo luận đàm phán (tự do và  
phân biệt tôn giáo) cho tới vấn đề sự “trở lại của tôn giáo” đã khởi  
động một cách mạnh mẽ từ sự ảnh hưởng Tin lành đặt ra từ những  
năm 1980. Từ một nghiên cứu về lòng sùng đạo ngoài lề với ý tưởng  
nghèo nàn thông qua việc phân biệt thần học với Công giáo, theo cách  
này người ta tiến đến một nghiên cứu về sự sùng đạo thiểu số biểu thị  
cho đám đông, từ sự vận hành phức tạp và hậu quả là nó đặt các quốc  
gia và xã hội này đối diện với nhiều thách thức về chính trị-tôn giáo  
và văn hóa-xã hội.  
Sự xuất hiện của nghiên cứu về các Hội thánh Tin Lành ở Đông  
Nam Á kết hợp với lợi ích khoa học xã hội Bắc Mỹ đã góp phần vào  
sự quảng bá một ngành xã hội học “khai phóng” đang tìm cách đặt lại  
vấn đề về mối liên quan giữa Kinh tế và Tôn giáo trong một trật tự  
mới mang tính toàn cầu17. Những chỉ trích ngày càng nặng nề một mặt  
nhắm vào sự vô hiệu của kinh tế kế hoạch và mặt khác, sự xuất hiện  
80  
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2019  
của các thuyết về chủ nghĩa kinh tế tự do mới tiếp đó đã được khẳng  
định bởi sự sụp đổ của Liên minh Xô viết, đặt lại chương trình Luân  
lý Tin Lành và mối quan hệ của tôn giáo và chủ nghĩa Tư sản. Sự hiện  
đại hóa tôn giáo đã được lĩnh hội như vậy trong mối quan hệ với sự  
phát triển kinh tế và sự quá độ, chuyển tiếp của các quốc gia. Sự nhiệt  
thành phúc âm, uy tín, phong trào Ngũ Tuần đã củng cố mạnh mẽ sự  
quy tụ của các ngành khoa học kinh tế và các hiện tượng tôn giáo đều  
thừa hưởng một nền tảng lý luận vững chắc. Chẳng hạn một nghiên  
cứu về các cuộc truyền giáo thuộc dòng Giám lý trong khối Mã Lai  
đầu thế kỷ XX đã xác minh điều này18. Tác giả đã tham khảo khái  
niệm thần học connectionalism, “kết nối quốc gia” xuất phát từ thuyết  
quân bình nhân học để tạo nên các kiểu mẫu Công giáo nhiệt tâm nhất  
(trong hoạt động truyền giáo) và cũng là mạng lưới quan hệ tương tác  
mà cách thức tổ chức nội bộ tựu trung lại rất gần với luận lý tư bản thế  
giới đang hình thành. Từ đó, các nghiên cứu liên quan đến động cơ,  
phương thức gia nhập đạo Tin Lành đã chỉ ra cách thức làm thế nào  
mà chủ nghĩa Tư bản đương đại đã tạo cơ hội cho những hiện tượng  
này khi thiết lập các thuyết thần học về sự giàu có phồn thịnh càng  
ngày càng được thỏa hiệp giữa đời sống tâm linh và đời sống vật  
chất19.  
Nếu khái niệm kinh tế tôn giáo đặc biệt thích đáng cho việc nghiên  
cứu các bộ Kinh thánh Phúc Âm và những lí giải thần học20 mà một số  
người coi như một kiểu chống lại luận thuyết Weber thì nó cũng  
không kém phần xứng đáng cho việc nghiên cứu các tôn giáo khác  
như Phật giáo và Islam giáo21.  
Chúng ta có thể thấy ở đây một sự tiến bộ về lý luận trong nghiên  
cứu các hiện tượng tôn giáo theo chế độ hiện đại không thuộc phương  
Tây. Nhưng đồng thời cũng cần nêu lên khái niệm của chủ nghĩa Tư  
bản, cho rằng đó là mô hình duy nhất đã tồn tại theo cách của chủ  
nghĩa vị chủng tới tận gần đây. Bối cảnh quốc tế từ đó đã tiến triển,  
những cuộc thảo luận lớn về phát triển kinh tế cũng vậy. Và nếu hiện  
nay chúng ta sống trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, các ngành khoa  
học kinh tế cũng đã bị toàn cầu hóa, vì thế mà các trải nghiệm luân  
phiên đối với sự phát triển theo lối Tây phương đã được nhân lên  
Pascal Bourdeaux. Đạo Tin Lành và kinh tế tôn giáo ở Đông Nam Á…  
81  
nhiều. Châu Á đã luôn giữ một vị trí lựa chọn. Nơi hình thành chủ  
nghĩa Cộng sản tâm điểm châu Á và sự hình thành các mô hình Tư  
bản hậu thuộc địa đặc thù, nơi khởi xướng “giá trị châu Á”, từ thời  
điểm đó trở thành động cơ của kinh tế toàn cầu, Viễn Đông, gồm các  
nước phương Đông và khu vực Asean, đang vươn mình trở thành  
trọng điểm mới trong thế kỷ XXI. Robert Hefner đã có lý khi cho rằng  
“Our understanding of capitalism and religiosity differs today [đầu thế  
kỷ XXI] from that a generation or two earlier”22. Đó là từ “tinh thần  
mới của chủ nghĩa Tư bản”23, từ “late-modern capitalism” “hậu Tư  
bản” (Hefner) hay còn là “kỷ nguyên của chủ nghĩa tự do kiểu mới”24  
mà chúng ta đề cập đến hôm nay. Đó là nhờ sự nhận thức liên hợp