Mấy suy nghĩ về nghiên cứu làng xã tiếp cận theo hướng liên ngành và khu vực học
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 9 (265) 2020
56
MẤY SUY NGHĨ VỀ NGHIÊN CỨU LÀNG XÃ
TIẾP CẬN THEO HƯỚNG LIÊN NGÀNH
VÀ KHU VỰC HỌC
ĐỖ DANH HUẤN*
Nghiên cứu về làng xã ở Việt Nam từ trước đến nay, chủ yếu tiếp cận dựa trên
các khoa học chuyên ngành, như: lịch sử, văn hóa học, dân tộc học, xã hội học,
luật học, kinh tế học... Trong bối cảnh hiện nay, sự phát triển của khoa học xã
hội và nhân văn đã xuất hiện nhiều lý thuyết, nhiều phương pháp tiếp cận mới,
trong đó có tiếp cận theo hướng liên ngành và khu vực học. Chính vì vậy, việc
vận dụng hướng tiếp cận liên ngành và khu vực học vào nghiên cứu khoa học
xã hội và nhân văn nói chung và nghiên cứu làng xã ở Việt Nam nói riêng đòi hỏi
nhiều cố gắng của mỗi nhà nghiên cứu cũng như nhóm nghiên cứu. Bài viết
bước đầu đưa ra nhận thức về tiếp cận liên ngành và khu vực học trong nghiên
cứu làng xã ở Việt Nam, qua đó làm cơ sở lý thuyết trả lời câu hỏi nghiên cứu:
Tiếp cận làng xã Việt Nam theo hướng liên ngành và khu vực học – hó hăn và
triển vọng
Từ khóa: liên ngành, khu vực học, làng xã, phương pháp nghiên cứu
Nhận bài ngày: 12/4/2020; đưa vào biên tập: 26/5/2020; phản biện: 12/6/2020; duyệt
đăng: 24/9/2020
1. DẪN NHẬP
Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, tập
I, II (Viện Sử học, 1977, 1978); Cơ
cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở
Bắc Bộ (Trần Từ, 1984); Về một số
làng buôn ở đồng bằng Bắc Bộ thế kỷ
XVIII - XIX (Nguyễn Quang Ngọc,
1993); Làng xã Việt Nam một số vấn
đề kinh tế, văn hóa, xã hội (Phan Đại
Doãn, 2001); Bảo tồn và phát triển các
làng nghề trong quá trình công nghiệp
hóa (Dương Bá Phượng, 2001); Làng
Việt đối diện tương lai, hồi sinh quá
khứ (John Kleinen, 2007); Hương ước
cổ làng xã đồng bằng Bắc Bộ (Vũ Duy
Mền, 2010); Hiện đại hóa làng nghề
theo chiến lược tăng trưởng xanh
Nghiên cứu về làng xã ở Việt Nam
(đặc biệt là làng xã vùng châu thổ Bắc
Bộ) đã đạt được nhiều thành tựu với
sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước thuộc chuyên
ngành khoa học xã hội và nhân văn và
cả khoa học tự nhiên. Có thể kể đến
một số công trình như: Người nông
dân châu thổ Bắc Kỳ (Pierre Gourou,
1936); Nền kinh tế công xã Việt Nam
(Vũ Quốc Thúc, 1950); Xã thôn Việt
Nam (Nguyễn Hồng Phong, 1958)…
* Viện Sử học.
ĐỖ DANH HUẤN – MẤY SUY NGHĨ VỀ NGHIÊN CỨU LÀNG XÃ…
57
trường hợp vùng Đồng bằng sông 43) khi đặt vấn đề nghiên cứu làng xã
Hồng (Nguyễn Xuân Dũng, 2016)...
ở Việt Nam đã cho biết: “Làng được
coi như một hệ thống riêng gồm
những yếu tố hợp thành. Tùy theo đối
tượng nghiên cứu của mình mà người
nghiên cứu chọn lựa các yếu tố hợp
thành khác nhau của hệ thống. Chẳng
hạn có thể nghiên cứu làng như hệ
thống xã hội gồm các nhóm xã hội,
các đẳng cấp, các nhóm tuổi... hay
nghiên cứu làng như một hệ thống
kinh tế gồm các nhóm, các ngành
hoạt động sản xuất nghề nghiệp...
hoặc là như một hệ thống kinh tế - xã
hội mà các yếu tố hợp thành chằng
chéo, phức tạp hơn. Bản thân các yếu
tố của hệ thống làng lại cũng có thể
coi là hệ thống con để nghiên cứu
riêng biệt như gia đình, dòng họ, phe
giáp... Điểm chủ yếu mà người nghiên
cứu hướng tới là vạch ra mối liên hệ
tương tác giữa các yếu tố bên trong
của hệ thống, nêu lên cơ chế vận
hành của cấu trúc”.
Trong đó, một số nghiên cứu về làng
xã ở vùng châu thổ Bắc Bộ gần đây
theo khuynh hướng đa ngành và liên
ngành, xem làng xã như một khu vực,
một không gian văn hóa, xã hội, lịch
sử, một không gian phát triển, như:
Làng ở vùng châu thổ sông Hồng: Vấn
đề còn bỏ ngỏ (Philippe Papin, Oliver
Tessier, 2002); Mông Phụ - Một làng
ở đồng bằng sông Hồng (Nguyễn
Tùng, 2003); Địa chí Cổ Loa (Nguyễn
Quang Ngọc, Vũ Văn Quân, 2007).
Đặc biệt, trong số này phải kể tới
Chương trình nghiên cứu làng Bách
Cốc tại huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định
do các nhà khoa học Nhật Bản chủ trì,
Chương trình đã tổ chức tổng kết 20
năm nghiên cứu vào năm 2013 và
hiện tại vẫn còn triển khai. Nghiên cứu
này được thực hiện bài bản, nhưng
kết quả nghiên cứu vẫn chưa được
xuất bản để công bố rộng rãi. Tuy
nhiên, nhìn chung thành tựu của Thời gian gần đây, dưới tác động của
hướng nghiên cứu này còn khá khiêm
tốn.
quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế,
mà đặc biệt là quá trình đô thị hóa và
chương trình xây dựng nông thôn mới,
nên làng xã đang diễn ra những vận
động, chuyển biến mạnh mẽ trên
nhiều phương diện. Từ đó, yêu cầu
đặt ra cho các nghiên cứu về làng xã
là cần nhận thức tổng hợp, nhiều
chiều cạnh về làng xã để góp phần
khơi dậy, phát huy lợi thế vốn có,
thanh lọc những bất cập, tham gia tư
vấn chính sách và định hướng phát
triển nông thôn… Điều này đòi hỏi các
nhà nghiên cứu phải vận dụng những
Làng xã ở Việt Nam là một thực thể
phức hợp, bao gồm nhiều thành tố:
kinh tế, văn hóa, xã hội, không gian,
cảnh quan và môi trường… với nhiều
thiết chế: phường hội nghề nghiệp,
hội tư văn, các liên kết theo địa vực,
lứa tuổi, giới tính… Do đó, làng xã là
đối tượng nghiên cứu của nhiều
chuyên ngành khoa học lịch sử, văn
hóa học, kinh tế học, xã hội học, nhân
học, luật học, chính trị học, tâm lý
học… Giáo sư Hà Văn Tấn (2007: 42-
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 9 (265) 2020
58
kỹ năng và phương pháp tiếp cận mới. những nhận thức rõ ràng và cụ thể về
Hiện nay, ở Việt Nam, khuynh hướng các hướng nghiên cứu này. Tổng hợp
tiếp cận liên ngành và khu vực học từ một số nguồn tài liệu, chúng tôi
đang bắt đầu được áp dụng và hứa bước đầu dẫn ra một số quan điểm về
hẹn sẽ mang tới những nhận thức nghiên cứu liên ngành và khu vực học
tổng hợp, nhiều chiều và toàn diện như sau.
trong nghiên cứu khoa học xã hội và
Liên ngành: Tại hội thảo Khu vực học:
nhân văn nói chung và làng xã nói
Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương
riêng. Tuy nhiên, việc vận dụng những
pháp nghiên cứu, quan điểm liên
phương pháp và lý thuyết mới áp
ngành được nêu lên như sau: “Liên
dụng vào nghiên cứu làng xã, đặc biệt
ngành là một loại hình hợp tác học
là hướng tiếp cận liên ngành và khu
thuật, trong đó các nhà chuyên môn
vực học có những khó khăn và thuận
được lấy từ hai hay nhiều chuyên
lợi gì? Triển vọng của phương pháp
ngành khác nhau cùng làm việc với
này khi áp dụng cho nghiên cứu làng
nhau để cùng đạt đến những mục tiêu
xã ra sao? Bài viết dựa trên nhận thức
chung trong nhận thức đối tượng
về làng xã ở vùng châu thổ Bắc Bộ,
nghiên cứu” (Viện Việt Nam học và
bước đầu tìm hiểu về những vấn đề
Khoa học phát triển, 2006: 2).
trên.
Theo Nguyễn Quang Ngọc (2018:
2. NGHIÊN CỨU LÀNG XÃ THEO
254): “Nghiên cứu liên ngành một
HƯỚNG TIẾP CẬN LIÊN NGÀNH VÀ
cách chính quy, bài bản đòi hỏi phải
KHU VỰC HỌC
sử dụng đồng thời, tổng thể và hiệu
2.1. Nhận thức về hướng tiếp cận quả của nhiều phương pháp đặc thù
liên ngành và khu vực học trong cho một đối tượng nghiên cứu và đem
nghiên cứu
đến một nhận thức khoa học chung.
Ở đây, các phương pháp nghiên cứu
phải được đặt ngang nhau, không
thiên kiến, không phân biệt chính phụ”.
Những năm gần đây, khi triển khai
nghiên cứu hay tổ chức hội thảo, tọa
đàm khoa học giới nghiên cứu khoa
học xã hội và nhân văn ở Việt Nam Tác giả Trần Lê Bảo (2009: 22) đã viết:
thường đề cập tới thuật ngữ liên “Liên ngành không chỉ là sự liên kết
ngành và khu vực học, mặc dù đôi khi giữa các chuyên gia từ các ngành
việc vận dụng như thế nào và đến khác nhau, mà có khi còn là việc sử
mức độ nào các hướng tiếp cận còn dụng đồng thời ít nhất hai phương
chưa được làm rõ. Một điều đáng nói pháp nghiên cứu chuyên ngành trở
nữa là, mặc dù xuất hiện một “khuynh lên. Các phương pháp này tồn tại trên
hướng”, một “xu thế” hướng tới tiếp nguyên tắc là phải có quan hệ mật
cận liên ngành và khu vực học, song thiết với nhau, hỗ trợ lẫn nhau và bình
chúng ta vẫn chưa có một công trình đẳng với nhau về vai trò và nhiệm vụ
chuyên khảo nào đầy đủ để trang bị trong nhận thức đối tượng nghiên cứu”.
ĐỖ DANH HUẤN – MẤY SUY NGHĨ VỀ NGHIÊN CỨU LÀNG XÃ…
59
Tại hội thảo Quốc tế: Nghiên cứu Liên của mọi cộng đồng dân cư, do vậy
ngành trong khoa học xã hội và nhân cũng trở thành một đối tượng không
văn, tác giả Trần Thúc Việt (2009: 229) thể thiếu trong nghiên cứu khu vực
cũng nêu: “Nghiên cứu liên ngành là học”.
sự tổng hợp tri thức của nhiều lĩnh
David L. Szanton thì cho rằng:
vực và nhiều ngành học, là quá trình
“Nghiên cứu khu vực nên được hiểu
liên kết, thiết lập các mối quan hệ qua
là khái niệm chỉ một nhóm gồm nhiều
lại, quy định và ảnh hưởng lẫn nhau
lĩnh vực và hoạt động học thuật có
giữa những phương pháp và quy trình
những đặc điểm chung sau: Nghiên
của nhiều chuyên gia khác nhau. Do
cứu sâu về ngôn ngữ; Nghiên cứu
vậy, nghiên cứu liên ngành rất khác
thực địa (điền dã) sâu sắc bằng tiếng
với tiếp cận chuyên ngành là sử dụng
địa phương; Nghiên cứu kỹ lịch sử,
các phương pháp và quy trình của
các quan điểm, tư liệu và những lý
nhiều chuyên ngành một cách riêng
giải của địa phương; Kiểm tra, thảo
biệt, độc lập”.
luận, phê bình, hay phát triển các lý
Khu vực học: Nguyễn Quang Ngọc thuyết cơ sở dựa trên những quan sát
(2008: 6) cho rằng: “Khu vực học lấy cụ thể; Có những thảo luận đa ngành
không gian văn hóa - xã hội bao gồm liên quan đến nhiều ngành khoa học
các lĩnh vực hoạt động của con người xã hội và nhân văn” (dẫn theo Trịnh
và quan hệ tương tác giữa con người Cẩm Lan, 2007: 47).
và điều kiện tự nhiên làm đối tượng
Xem đối tượng như một khu vực hoàn
nghiên cứu. Mục đích của khu vực
chỉnh, ở đó có sự tương tác qua lại
học là đạt tới những nhận thức tổng
giữa con người với điều kiện tự nhiên,
hợp về một không gian, tìm ra những
hoàn cảnh lịch sử và môi trường xã
đặc điểm của tự nhiên và đời sống
hội, nên mục đích cuối cùng của khu
con người trong không gian đó”.
vực học là nhận thức tổng hợp về khu
Tiếp cận đối tượng nghiên cứu theo vực đó và nhìn khu vực đó như một
quan điểm khu vực học, Nguyễn Thị không gian phát triển, một không gian
Việt Thanh (2008: 220) khi triển khai luôn vận động. “Nếu như trước đây,
các nghiên cứu về ngôn ngữ đã viết: khu vực học đặt mục tiêu là đưa lại
“Với tư cách là một ngành khoa học nhận thức tổng quát về một không
mang tính liên ngành điển hình, khu gian lịch sử - văn hóa nào đó thì khu
vực học chọn một vùng lãnh thổ làm vực học hiện đại hướng tới mục tiêu
đối tượng nghiên cứu từ nhiều góc độ: hàng đầu là ứng dụng những nhận
kinh tế, văn hóa, xã hội, tôn giáo, địa thức tổng quát đó vào việc giải quyết
lý, lịch sử trong mối quan hệ tương hỗ, hàng loạt các vấn đề có độ phức hợp
tác động lẫn nhau. Ngôn ngữ với tư cao đang đặt ra trong thực tiễn phát
cách là phương diện giao tiếp, là một triển bền vững của các khu vực. Khu
bộ phận cấu thành không thể thiếu vực giờ đây hông còn chỉ là một
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 9 (265) 2020
60
không gian lịch sử - văn hóa mà còn học có: Định hướng phát triển làng -
là, và trước hết là một không gian phát xã đồng bằng sông Hồng ngày nay
triển. Vì vậy, khu vực học phải hướng (Tô Duy Hợp, 2003); Ngành Văn hóa
tới đích cuối cùng là đánh giá các học có: Biến đổi văn hóa ở các làng
nguồn lực, tiềm năng, cơ hội phát quê hiện nay (Nguyễn Thị Phương
triển của không gian xác định nào đó” Châm, 2009); Ngành Hán Nôm có:
(Phạm Hồng Tung, 2017: 108-109). Văn bia thời Lê xứ Kinh Bắc và sự
Khi tiếp cận đối tượng như một khu phản ánh sinh hoạt làng xã (Phạm Thị
vực, một không gian, Giáo sư Yumio Thùy Vinh, 2003); Ngành Kinh tế học
Sakurai (2014: 315) cũng cho rằng: có: Làng nghề truyền thống trong quá
“Mục đích khu vực học là để hiểu toàn trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
bộ khu vực”.
(Trần Minh Yến, 2004)… Hơn nữa,
vào thời gian các công trình nêu trên
triển khai nghiên cứu, thì việc áp dụng
hay sự có mặt của khuynh hướng tiếp
cận làng xã theo hướng liên ngành và
khu vực học còn có phần xa lạ đối với
các nhà nghiên cứu ở Việt Nam, hoặc
bước đầu mới được nhắc tới ở ngành
này, nhưng chưa được nhắc tới ở
ngành kia. Do vậy, khuynh hướng chủ
đạo vẫn là tiếp cận đối tượng (làng xã)
bằng lợi thế của các phương pháp
chuyên ngành.
Qua những quan điểm trên, chúng ta
có thể hiểu khái quát liên ngành và
khu vực học là sự kết hợp của nhiều
chuyên ngành khoa học khác nhau,
cùng tiếp cận một đối tượng nghiên
cứu, qua đó mang lại sự nhận thức
đầy đủ, đa chiều về đối tượng.
2.2. Nghiên cứu làng xã theo hướng
liên ngành và khu vực họ - h
h n và t i n vọng
Nhìn lại các công trình nghiên cứu về
làng xã ở Việt Nam, chúng ta thấy đa
phần các công trình được thực hiện
bởi một nhà nghiên cứu độc lập (chỉ
một số ít công trình được triển khai
theo nhóm) nên hướng tiếp cận và kết
quả nghiên cứu đều dựa trên lợi thế
của kiến thức chuyên ngành và có
kinh nghiệm nghiên cứu về chủ đề
(hoặc một phần nào đó mang tính đa
ngành). Chẳng hạn, về nghiên cứu
làng xã, ngành sử học có Một làng
Việt cổ truyền ở đồng bằng Bắc Bộ
(Nguyễn Hải Kế, 1996); Tìm lại làng
Việt xưa (Vũ Duy Mền, 2006); Một số
Trong khi đó, yêu cầu và mục đích
của liên ngành và khu vực học là có
sự kết hợp của ít nhất hai chuyên
ngành trở lên và xem đối tượng
nghiên cứu như một không gian, một
chỉnh thể để kết quả cuối cùng là cơ
sở dữ liệu phải bao quát và nhận thức
tổng hợp về không gian đó. Khi tiếp
cận làng xã bằng khoa học chuyên
ngành, thì các kết quả nghiên cứu chỉ
phản ánh được một chiều cạnh, hoặc
một giai đoạn của đời sống làng xã
(hoặc là kinh tế, hoặc là văn hóa, hoặc
vấn đề làng xã Việt Nam (Nguyễn là tôn giáo, tín ngưỡng của làng xã),
mà chưa đi đến nhận thức tổng hợp
Quang Ngọc, 2009)...; Ngành Xã hội
ĐỖ DANH HUẤN – MẤY SUY NGHĨ VỀ NGHIÊN CỨU LÀNG XÃ…
61
về đối tượng nghiên cứu, chưa bao làm nổi bật vai trò của nó với các giá
trị mà nó đem lại cho cư dân làng xã.
Trong đó, không gian ao làng - một bộ
phận cấu thành của nông nghiệp bóng,
qua góc nhìn kinh tế đã đem lại giá trị
và hỗ trợ một phần nhu cầu cuộc sống,
là nguồn lợi hàng ngày của người dân
trong làng. Còn qua lăng kính của nhà
nghiên cứu văn hóa, nó lại chứa đựng
nhiều nét của đời sống văn hóa cư
dân. Ví như: các câu hò vè, ca dao
liên quan tới ao làng (Ta về ta tắm ao
ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn;
hay Một giọt máu đào, hơn ao nước lã;
Ao cá gá bạc...); ao làng còn là một
không gian diễn xướng của các trò
chơi dân gian, như: thi đua thuyền,
múa rối nước trong những dịp hội hè,
đình đám... Do vậy, để bổ khuyết cho
nhận thức từ những chuyên ngành
riêng nên tiếp cận theo hướng liên
ngành để có cái nhìn bao quát hơn về
đối tượng.
quát, xuyên suốt từ quá khứ đến hiện
tại.
Nếu là một nhà kinh tế học khi nghiên
cứu làng xã, họ sẽ vận dụng các lý
thuyết và phương pháp của kinh tế
học, do đó, kết quả của công trình sẽ
thiên về những chiều cạnh kinh tế hay
đời sống kinh tế ở làng, còn lại, chiều
cạnh lịch sử hay văn hóa, xã hội vẫn
cần được bổ khuyết. Khi nghiên cứu
về kinh tế nông nghiệp ở Bách Cốc
(Cốc Thành, Vụ Bản, Nam Định), Abe
Ken-ichi đã đứng trên góc nhìn của
nhà kinh tế học mà phân tích, lý giải
hoạt động kinh tế nông nghiệp của cư
dân nơi đây, trong đó, bức tranh kinh
tế nông nghiệp được chia thành kinh
tế nông nghiệp ở ngoài đồng (cày cấy,
làm cỏ, gặt hái...) và kinh tế nông
nghiệp trong làng – tác giả gọi là nông
nghiệp bóng (Shadow Agriculture),
gồm: vườn, ao, chuồng. Theo Abe
Ken-ichi (2006: 112): “Người ta thực
hiện rất nhiều các hoạt động lặt vặt
không tên ở trong làng. Ví dụ như, bà
xắt thân chuối trong vườn, chuẩn bị
cho lợn ăn. Cháu thì bắt cua cá trong
ao để chuẩn bị bữa tối. Còn mẹ thì
dầm nước đến ngang thắt lưng mò ốc
làm cái ăn. Mẹ còn vơ bèo làm thức
ăn cho lợn gà. Từ ngoài đồng về,
người này cắt cỏ bên vệ đường mang
về ném xuống ao cho cá ăn. Người
khác thì chặt bờ rào bờ dậu để lót
chuồng lợn” là những công việc được
gọi là nông nghiệp bóng.
Đối với một nhà xã hội học, khi nghiên
cứu làng xã thì kết quả thu được chủ
yếu là đời sống của cư dân trong làng
đang diễn ra ở thời điểm triển khai
chương trình nghiên cứu đó (có thể cả
kinh tế, xã hội và văn hóa), bằng các
chỉ số định tính hay định lượng về
mức sống, bình quân thu nhập, nhu
cầu hưởng thụ các loại hình dịch
vụ/văn hóa, hay mức độ chuyển đổi
nghề nghiệp, mức độ hài lòng về cuộc
sống hiện tại, bức tranh về lao động,
việc làm và tình trạng di cư con lắc, di
cư mùa vụ... kèm theo khả năng dự
Rõ ràng, qua cái nhìn của nhà kinh tế báo/giải pháp trong những năm tiếp
học thì hoạt động kinh tế bóng đã được theo; còn lại mảng chìm của làng xã là
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 9 (265) 2020
62
lịch sử hình thành mấy trăm năm, một làng ở huyện Nông Cống, tỉnh
Thanh Hóa, theo tài liệu xưa [...], thì
vốn tên tục là Kẻ Nưa [...], rồi đến khi
đặt tên chữ cho làng thì trở thành Cổ
Ninh, sau đổi làm Cổ Định. Đối chiếu
chữ Cổ Loa với lai lịch chữ Cổ Bôn và
Cổ Định, chúng ta có thể đoán rằng
tên Cổ Loa hẳn là do tên Nôm cũ Kẻ
Loa mà ra. Trong tiếng Việt Nam, có
cái lệ lấy chữ Kẻ đặt lên trên một chữ
khác để gọi tên một làng, chữ thứ hai
này thường là chỉ một đặc điểm gì về
địa lý hay về kinh tế của làng ấy, ví
như Kẻ Chợ, Kẻ Noi, Kẻ Vẽ, Kẻ Mộc
ở Bắc Bộ...”.
nguồn gốc dân cư, bức tranh sở hữu
ruộng đất xưa kia lưu trong địa bạ của
làng, hay dấu tích lịch sử của làng
biên chép qua nguồn tư liệu gia phả,
văn bia chữ Hán… hầu như chưa
được các nhà xã hội học bàn tới hoặc
chưa khai thác triệt để.
Để khắc phục những hạn chế khi tìm
hiểu về làng xã, và “bước đầu” đáp
ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra
khi tiếp cận làng xã bằng khoa học
chuyên ngành theo hướng liên ngành
và khu vực học, nhà nghiên cứu độc
lập (cá nhân đơn lẻ phải tự trang bị và
tổng hợp lý thuyết và phương pháp
nghiên cứu của nhiều ngành khoa học
khác nhau. Một nhà nghiên cứu trong
lĩnh vực sử học, khi nghiên cứu về
làng xã theo hướng liên ngành và khu
vực học, cần phải trang bị kiến thức
về cơ sở lý thuyết và phương pháp
Tuy nhiên, nhà nghiên cứu ngôn ngữ
học Trần Trí Dõi lại cho rằng cách giải
thích tên làng Cổ Loa của Đào Duy
Anh (từ Kẻ chuyển thành Cổ) là chưa
thuyết phục.
Theo quy tắc biến đổi ngữ âm lịch sử
của tiếng Việt và cơ chế chuyển hóa
nghiên cứu của văn hóa học, kinh tế ngữ âm từ địa danh Nôm (thuần Việt)
học, xã hội học, tôn giáo học, nhân sang địa danh Hán Việt, Trần Trí Dõi
(2008: 209) cho rằng: “Chúng tôi
nghiêng về cách giải thích Cổ Loa là
địa danh Hán Việt liên quan về ngữ
âm với một địa danh Hán Việt khác là
Khả Lũ. Đồng thời, cả hai địa danh
Hán Việt này lại có mối liên hệ ngữ
âm địa danh Nôm là Chủ. Vậy là, ở
đây để tìm hiểu xuất xứ của Cổ Loa,
theo chúng tôi, chúng ta sẽ tìm hiểu
trong mối quan hệ/liên hệ: Chủ - Khả
Lũ - Cổ Loa”.
học, ngôn ngữ học…
Một ví dụ cho thấy khi đứng trên quan
điểm lịch sử để nghiên cứu về làng xã,
chúng ta chưa thể lý giải đầy đủ và
cặn kẽ lịch sử xa xưa của một làng,
đó là, khi nghiên cứu về tên gọi của
làng Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội), Đào
Duy Anh (1997: 31-32) đã giải thích
tên làng Cổ Loa như sau: “Muốn tìm ý
nghĩa chữ Cổ, chúng ta hãy so sánh
tên Cổ Loa với những tên Cổ Bôn và
Cổ Định, Cổ Bôn là tên một làng ở
tỉnh Thanh Hóa, huyện Thiệu Hóa,
vốn có tên tục là Kẻ Bôn, khi đặt tên
chữ đã trở thành Cổ Bôn. Cổ Định là
Theo tư liệu dân gian làng Cổ Loa, thì
vua Thục Phán An Dương Vương có
tên gọi là Vua Chủ, do vậy, trong một
nghiên cứu của mình, Nguyễn Từ Chi
ĐỖ DANH HUẤN – MẤY SUY NGHĨ VỀ NGHIÊN CỨU LÀNG XÃ…
63
khi tìm hiểu về Cổ Loa đã có bài viết Chúng tôi cho rằng, giải pháp hiệu
lấy tên là “Vua Chủ”. Để có bằng quả nhất khi nghiên cứu làng xã theo
hướng tiếp cận liên ngành và khu vực
học là tổ chức thành các nhóm nghiên
cứu (Team Research/Team Working)
mà ở đó có sự cộng tác, được tổ chức
bởi nhiều nhà khoa học đến từ nhiều
chuyên ngành khác nhau.
chứng thuyết phục hơn tên gọi làng
Cổ Loa, nhà ngôn ngữ học Trần Trí
Dõi (2008: 208) đã thống kê, phân tích
tên gọi của 51 đơn vị làng xã vùng
châu thổ Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ,
bao gồm cả tên Nôm và tên Hán Việt,
từ đó đưa ra lập luận và giải thích về
tên gọi Cổ Loa là một quá trình biến
đổi ngữ âm lịch sử mà thành, đó là:
“klu/khlu - lũ/loa (Khả Lũ/Cổ Loa) và
kl/khl/k - khả (Khả Lũ/Cổ Loa)”; và kết
luận: “Nếu nhìn thuần túy ở mặt ngữ
âm lịch sử tiếng Việt, rõ ràng sự hiện
diện của tên Nôm chạ Chủ tương ứng
với tên Hán Việt Cổ Loa hay Khả Lũ
cho thấy khả năng Cổ Loa hay Khả Lũ
hiện nay là hệ quả của cách Hán Việt
hóa địa danh klủ hay tlủ trước kia”
(Trần Trí Dõi, 2008: 217).
Giáo sư Yumio Sakurai (2014: 319)
cho rằng, một chuyên gia sẽ gặp khó
khăn khi tiếp cận theo hướng liên
ngành và khu vực học, do vậy, sẽ hiệu
quả hơn nếu tổ chức ra nhóm nghiên
cứu: “Một chuyên gia không thể
nghiên cứu nhiều lĩnh vực được.
Nghiên cứu liên ngành khu vực học
phải là nghiên cứu nhóm. Nghiên cứu
liên ngành nhóm chia ra 3 loại: - Loại
1: Đa ngành (Multidiscipline) là các
lĩnh vực nghiên cứu bằng phương
pháp riêng đối với một khu vực. Cho
nên kết quả độc lập, ít có quan hệ với
các lĩnh vực khác; - Loại 2: Hợp tác
ngành (Transdiscipline) là các lĩnh vực
trao đổi kết quả để tương đối hóa kết
quả của lĩnh vực riêng; - Loại 3: Liên
ngành (Interdiscipline) là cả nhóm
nghiên cứu toàn thể tổng hợp kết quả
của mỗi lĩnh vực để quyết định cá tính
khu vực”.
Chúng tôi cho rằng cách tiếp cận của
Trần Trí Dõi khi giải thích tên gọi Cổ
Loa mang tính hệ thống và có thể
thuyết phục.
Như vậy, nhà nghiên cứu độc lập khi
tiếp cận làng xã theo hướng liên
ngành và khu vực học phải cập nhật,
bổ sung phương pháp tiếp cận của
một số chuyên ngành liên quan. Song
một nhà nghiên cứu độc lập khó có
thể nắm bắt và tích hợp được đầy đủ
phương pháp của nhiều chuyên ngành
khác trong thời gian ngắn. Nhiều
nghiên cứu đã tích hợp được nhưng
thể hiện quan điểm của cá nhân, nên
kết quả nghiên cứu vẫn mang tính chủ
quan và bị chi phối bởi nhận thức đơn
lẻ của nhà nghiên cứu đó.
Cùng quan điểm với Yumio Sakurai,
Trần Lê Bảo (2009: 23) cho rằng: “Tiếp
cận liên ngành phải dựa trên những
hiểu biết sâu sắc về những chuyên
ngành đó, nên cách tiếp cận này chỉ
thực hiện được bởi những người có
trình độ cao và khó có thể thực hiện
chỉ bởi một nhà nghiên cứu mà đòi hỏi
phải nghiên cứu theo nhóm”.
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 9 (265) 2020
64
Chương trình nghiên cứu về làng thừa và học hỏi những kỹ năng, thao
Bách Cốc - một mô hình nghiên cứu tác mà Chương trình này đã sử dụng,
tiêu biểu xưa nay chưa từng có ở Việt coi đây như một “hình mẫu” để hướng
Nam khi tiếp cận làng Việt theo hướng tới.
liên ngành và khu vực học. Cũng là
Khi so sánh khuynh hướng tiếp cận
một làng như bao làng quê khác ở
liên ngành và khu vực học giữa một
châu thổ Bắc Bộ, Chương trình này
đã huy động tổng lực với sự tham gia
của hàng trăm nhà khoa học, đến từ
nhiều chuyên ngành khác nhau: “Tuy
không gian nghiên cứu chủ yếu chỉ ở
một làng, nhưng số lượt các chuyên
gia nghiên cứu lên tới 150 người
thuộc hàng chục lĩnh vực khoa học
bên là nhà nghiên cứu độc lập được
trang bị lý thuyết và phương pháp
của nhiều ngành khoa học khác nhau,
với một bên là nhóm nghiên cứu tập
hợp các chuyên gia của nhiều lĩnh
vực để tiếp cận đối tượng là làng xã
ở Việt Nam, thì điều chắc chắn là ưu
thế sẽ thuộc về nhóm nghiên cứu, chứ
khác nhau như địa chất, lịch sử, nông không phải nhà nghiên cứu độc lập. Vì
nhóm nghiên cứu là những đại diện từ
các chuyên ngành, với lý thuyết và
phương pháp tiếp cận vững chắc
cùng hợp lại giải quyết một vấn đề.
Những hạn chế trong quá trình tiếp
cận của bất kỳ thành viên nào trong
nhóm sẽ được bổ trợ bởi các thành
viên khác. Với tính chất như vậy, ranh
giới hay biên độ giữa các ngành sẽ
mờ đi, qua đó tính liên ngành sẽ được
đẩy lên cao. Đây là lợi thế so sánh
vượt trội giữa một bên là nhóm
nghiên cứu và một bên là cá nhân
nghiên cứu độc lập cùng thực hiện
một nhiệm vụ khoa học, mà ở đó yêu
cầu liên ngành và khu vực học đặt lên
hàng đầu.
học, kinh tế học, xã hội học, khảo cổ
học, nhân học, y học… và việc hội ý
trao đổi thông tin qua từng ngày thu
thập tư liệu luôn được duy trì…” (Vũ
Minh Giang, 2009: 427). Hơn nữa,
thời gian triển khai nghiên cứu không
chỉ dừng ở 5 năm hay 10 năm mà
thậm chí còn tiếp tục và lâu hơn nữa.
Chúng tôi cho rằng, cho đến nay,
chưa có chương trình nào nghiên cứu
về làng xã ở Việt Nam vượt qua và xô
đổ những “kỷ lục” mà Chương trình
Bách Cốc đã xác lập. Nói như vậy
không có nghĩa là tất cả những nghiên
cứu về làng xã ở Việt Nam khi tiếp
cận liên ngành và khu vực học phải
“sao chép” hay phải triển khai như
Chương trình Bách Cốc. Trong khuôn
khổ hạn hẹp về lực lượng nghiên cứu
và năng lực tài chính, cùng nhiều yếu
tố khác, bản thân giới khoa học Việt
3. THAY LỜI KẾT
Nghiên cứu về làng xã ở Việt Nam
tiếp cận bởi khoa học chuyên ngành
đã đạt được nhiều thành tựu. Mặc dù
Nam khó mà triển khai được các vậy, trong bối cảnh vận động và biến
nghiên cứu về làng xã theo mô hình đổi của làng xã hiện nay, nếu chúng ta
tiếp tục duy trì cách nghiên cứu truyền
của Bách Cốc, nhưng chúng ta nên kế
ĐỖ DANH HUẤN – MẤY SUY NGHĨ VỀ NGHIÊN CỨU LÀNG XÃ…
65
thống, chủ yếu dựa vào lý thuyết đã bổ khuyết cho các nghiên cứu và
có của khoa học chuyên ngành mà nhận thức trước đây.
không cập nhật, áp dụng các phương
pháp, lý thuyết nghiên cứu mới, các
công cụ phân tích bổ trợ… từ nhiều
ngành khác nhau thì sẽ không giải
quyết triệt để và nhận thức đầy đủ về
đối tượng nghiên cứu - làng xã. Việc
áp dụng hướng nghiên cứu liên ngành
và khu vực học để nghiên cứu làng xã
có thể được xem là luồng gió mới,
mang tới những nhận thức mới, đầy
đủ và toàn diện về làng xã, đồng thời
Để thực hiện được các nghiên cứu về
làng xã theo hướng tiếp cận liên
ngành và khu vực học, ngoài nghiên
cứu chuyên ngành truyền thống thì
hình thức tổ chức hoạt động nghiên
cứu theo nhóm có ưu thế. Tuy nhiên,
theo hình thức tổ chức nghiên cứu
mới này đòi hỏi một quá trình tổ chức,
chuẩn bị lâu dài của một tập thể các
nhà khoa học và đối mặt với rất nhiều
thách thức.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
1. Abe Ken-ichi. 2006. “Nông nghiệp bóng (Shadow Agriculture): Các hoạt động nông
nghiệp phi đồng ruộng ở vùng đồng bằng sông Hồng”, trong Hội Nghiên cứu làng xã
Việt Nam, Nhật Bản. Thông tin Bách Cốc (số đặc biệt), tháng 7.
2. Dương Bá Phượng. 2001. ảo tồn và phát triển làng nghề trong quá tr nh công
nghiệp hóa. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội.
3. Đào Duy Anh. 1997. Đất nước Việt Nam qua các đời. Huế: Nxb. Thuận Hóa.
4. Gourou Pierre. 2003. Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ (bản dịch). TPHCM: Nxb. Trẻ.
5. Hà Văn Tấn. 2007. “Làng, liên làng và siêu làng (Mấy suy nghĩ về phương pháp)”,
trong Hà Văn Tấn. Một số vấn đề lý luận sử học. Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
6. Kleinen John. 2007. Làng Việt đối diện tương lai hồi sinh quá khứ (bản dịch). Đà
Nẵng: Nxb. Đà Nẵng.
7. Nguyễn Hải Kế. 1996. Một làng Việt cổ truyền ở đồng bằng Bắc Bộ. Hà Nội: Nxb.
Khoa học Xã hội.
8. Nguyễn Hồng Phong. 1959. Xã thôn Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Văn sử địa.
9. Nguyễn Quang Ngọc. 1993. Về một số làng buôn ở đồng bằng Bắc Bộ thế kỷ XVIII-
XIX. Hà Nội: Hội Sử học Việt Nam.
10. Nguyễn Quang Ngọc. 2008. “20 năm Việt Nam học theo định hướng liên ngành”,
trong Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển. 20 năm Việt Nam học theo định hướng
liên ngành. Hà Nội: Nxb. Thế giới.
11. Nguyễn Quang Ngọc. 2009. Một số vấn đề làng xã Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Đại học
Quốc gia Hà Nội.
12. Nguyễn Quang Ngọc. 2018. Nông thôn và Đô thị Việt Nam: Lịch sử, thực trạng và
huynh hướng biến đổi. Hà Nội: Nxb. Giáo dục Việt Nam.
13. Nguyễn Thị Phương Châm. 2009. Biến đổi văn hóa ở các làng quê hiện nay
(Trường hợp làng Đồng Kỵ, Trang Liệt và Đ nh ảng thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh).
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 9 (265) 2020
66
Hà Nội: Nxb. Văn hóa Thông tin và Viện Văn hóa.
14. Nguyễn Thị Việt Thanh. 2008. “Nghiên cứu ngôn ngữ trong khu vực học”, trong Viện
Việt Nam học và Khoa học phát triển. 20 năm Việt Nam học theo định hướng liên ngành.
Hà Nội: Nxb. Thế giới.
15. Nguyễn Từ Chi. 2003. “Vua Chủ”, trong Nguyễn Từ Chi: Góp phần nghiên cứu văn
hóa và tộc người. Hà Nội: Nxb. Văn hóa Dân tộc - Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật.
16. Nguyễn Xuân Dũng (chủ biên). 2016. Hiện đại hóa làng nghề theo chiến lược tăng
trưởng xanh: Trường hợp vùng đồng bằng sông Hồng. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội.
17. Phạm Hồng Tung. 2017. Hà Nội học: Cơ sở thực tiễn, nền tảng học thuật và định
hướng phát triển. Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
18. Phạm Thị Thùy Vinh. 2003. Văn bia thời Lê xứ Kinh Bắc và sự phản ánh sinh hoạt
làng xã. Hà Nội: Nxb. Văn hóa Thông tin.
19. Phan Đại Doãn. 2001. Làng xã Việt Nam một số vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội. Hà
Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia.
20. Sakurai, Yumio. 2014. “Khu vực học là gì?”, trong Viện Việt Nam học và Khoa học
phát triển: 25 năm Việt Nam học theo định hướng liên ngành. Hà Nội: Nxb. Thế giới.
21. Tô Duy Hợp (chủ biên). 2003. Định hướng phát triển làng - xã đồng bằng sông Hồng
ngày nay. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội.
22. Tô Duy Hợp. 1999. “Tác động của quá trình Đổi mới đối với các quan hệ xã hội cơ
bản trong làng-xã đồng bằng sông Hồng”. Tạp chí Xã hội học, số 1.
23. Trần Lê Bảo. 2009. Khu vực học và Nhập môn Việt Nam học. Hà Nội: Nxb. Giáo dục
Việt Nam.
24. Trần Minh Yến. 2004. Làng nghề truyền thống trong quá tr nh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội.
25. Trần Thúc Việt. 2009. “Sử dụng phương pháp liên ngành trong nghiên cứu văn học
khu vực”, trong Université du Maine, Université Angers, Université De Nantes, Đại học
Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà
Nội), International School (Đại học Quốc gia Hà Nội): Hội thảo quốc tế: Nghiên cứu Liên
ngành trong khoa học xã hội và nhân văn. Hà Nội, tháng 12.
26. Trần Trí Dõi. 2008. “Ba bài viết về địa danh Cổ Loa”, trong Viện Việt Nam học và
Khoa học phát triển. 20 năm Việt Nam học theo định hướng liên ngành. Hà Nội: Nxb.
Thế giới.
27. Trần Từ. 1984. Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ. Hà Nội: Nxb. Khoa
học Xã hội.
28. Trịnh Cẩm Lan. 2007. “Ngôn ngữ như là phương tiện và đối tượng của nghiên cứu
khu vực”. Tạp chí Khoa học (Khoa học xã hội và nhân văn), (Đại học Quốc gia Hà Nội),
số 1.
29. Viện sử học. 1977. Nông thôn Việt Nam trong lịch sử (nghiên cứu xã hội nông thôn
truyền thống), tập 1. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội.
30. Viện sử học. 1978. Nông thôn Việt Nam trong lịch sử (nghiên cứu xã hội nông thôn
truyền thống), tập 2. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội.
ĐỖ DANH HUẤN – MẤY SUY NGHĨ VỀ NGHIÊN CỨU LÀNG XÃ…
67
31. Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển (Đại học Quốc gia Hà Nội) - Khoa Khu
vực học (Đại học Quốc gia Tokyo). 2006. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc tế Khu vực
học: Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu. Hà Nội, tháng 11.
32. Vũ Duy Mền. 2006. Tìm về làng Việt xưa. Hà Nội: Nxb. Văn hóa Thông tin
33. Vũ Duy Mền. 2010. Hương ước cổ làng xã đồng bằng Bắc Bộ. Hà Nội: Nxb. Chính
trị Quốc gia.
34. Vũ Minh Giang. 2009. “Chương trình Bách Cốc trong lịch sử nghiên cứu làng xã Việt
Nam”, trong Vũ Minh Giang. Lịch sử Việt Nam: Truyền thống và hiện đại. Hà Nội: Nxb.
Giáo dục Việt Nam.
35. Vũ Quốc Thúc. 1950. Nền kinh tế công xã Việt Nam (Tư liệu đánh máy lưu tại Thư
viện Viện Xã hội học, ký hiệu TL1481).
Bạn đang xem tài liệu "Mấy suy nghĩ về nghiên cứu làng xã tiếp cận theo hướng liên ngành và khu vực học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- may_suy_nghi_ve_nghien_cuu_lang_xa_tiep_can_theo_huong_lien.pdf