Cơ chế hình thành “vòng xoáy của sự im lặng” - Từ lý thuyết đến thực tiễn xã hội vùng dân tộc thiểu số Việt Nam
Cơ chế hình thành “vòng xoáy của sự im lặng”
- Từ lý thuyết đến thực tiễn xã hội vùng
dân tộc thiểu số Việt Nam1
Phan Thuận(*)
Từ Thúy Quỳnh(**)
Tóm tắt: Trên cơ sở lý thuyết “vòng xoáy của sự im lặng” của Noelle-Neumann, bài viết
nhận diện cơ chế hình thành “vòng xoáy của sự im lặng” trong việc đưa ra ý kiến ở người
dân vùng dân tộc thiểu số Việt Nam hiện nay. Sự im lặng - e ngại khi cất lên tiếng nói của
người dân có nhiều lý do, như sợ mâu thuẫn với hàng xóm, sợ bị đối xử thiếu công bằng,
do thiếu trách nhiệm giải trình của cán bộ địa phương… Bài viết cũng gợi mở một số kiến
nghị để cởi bỏ “vòng xoáy của sự im lặng”, góp phần giảm thiểu nguy cơ hình thành các
điểm nóng chính trị, xã hội vùng dân thiểu số ở Việt Nam trong thời gian tới.
Từ khóa: Thuyết vòng xoáy của sự im lặng, Vùng dân tộc thiểu số, Dư luận xã hội
Abstract: Based on Noelle-Meumann’s “the spiral of silence” theory, the article identifies
the silence spiral formation mechanism in ethnic minority areas today. The silence - the
fear of speaking out comes from several reasons including that of conflicts with neighbors
and unfair treatment, due to the lack of accountability of local officials, etc. Thence, some
recommendations are provided to cast off the spiral of silence, partly minimize political
and social risk hot spots in ethnic minority regions in Vietnam in the coming time.
Keywords: The Spiral of Silence, Ethnic Minority Areas, Public Opinion
1. Đặt vấn đề12(*)3(**)
phát triển xã hội. V. Lenin từng khẳng định,
Dư luận xã hội (DLXH) đang ngày để cách mạng chiến thắng thì cần phải dựa
càng phát huy mạnh mẽ vai trò của mình vào sức mạnh vật chất và tinh thần của
trong hoạt động duy trì trật tự, ổn định và DLXH (Dẫn theo: Học viện Chính trị -
Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2005).
Vì vậy, Nghị quyết số 03- NQ/TW ngày
1
Bài viết là sản phẩm của Đề tài khoa học cấp Nhà
26/6/1992 Hội nghị Trung ương 3 khóa
VII của Đảng Về một số nhiệm vụ đổi mới
và chỉnh đốn Đảng đã xác định cần “nâng
cao chất lượng thông tin nội bộ và công tác
tuyên truyền, coi trọng biện pháp điều tra
DLXH”, coi đây là một trong những nhiệm
vụ quan trọng của công tác tư tưởng. Tinh
nước “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về dư luận xã
hội ở vùng dân tộc thiểu số nước ta trong bối cảnh toàn
cầu hóa” (2018-2020), mã số CTDT.37.18/16-20, do
TS. Phan Tân chủ nhiệm, Học viện Khoa học xã hội
(Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) chủ trì.
(*) ThS., NCS., Học viện Chính trị khu vực IV;
Email: phanthuanhv482@gmail.com
(**) ThS., Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội.
Thông tin Khoa học xã hội, số 9.2020
40
thần này tiếp tục được khẳng định tại Nghị thành cộng đồng trên lãnh thổ đất nước. Bài
quyết số 16-NQ/TW ngày 18/3/2002 Hội viết phân tích “vòng xoáy của sự im lặng” từ
nghị Trung ương 5 khóa X của Đảng Về góc nhìn lý thuyết, đồng thời phác họa thực
công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước tiễn “vòng xoáy của sự im lặng” ở vùng dân
yêu cầu mới: Chú trọng công tác nghiên tộc thiểu số Việt Nam hiện nay.
cứu, điều tra xã hội học, nắm bắt DLXH 2. Cơ chế hình thành “vòng xoáy của sự im
phục vụ công tác tư tưởng.
lặng” từ góc nhìn lý thuyết
DLXH được hình thành từ tiếp nhận
Thuyết “vòng xoáy của sự im lặng”
thông tin đi đến bàn bạc - thống nhất quan (The Spiral of Silence) của nhà tâm lý học
điểm - phán xét. Từ cơ chế hình thành này người Đức Elisabeth Noelle-Neumann
của DLXH có thể thấy, công khai, minh (1916-2010) lần đầu tiên được công bố tại
bạch thông tin là một trong những yếu tố Đại học Chicago năm 1974. Theo Noelle-
quan trọng để hình thành DLXH. Thực hiện Neumann, “vòng xoáy của sự im lặng” là
tốt cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân một mô hình giải thích tại sao con người
kiểm tra” là động lực để thúc đẩy DLXH không sẵn sàng bày tỏ công khai quan điểm
hình thành. Tuy nhiên, thực tế khảo sát của của mình khi họ tin rằng mình thuộc về
Đề tài1 cho thấy, ở một số địa phương nước thiểu số. Noelle-Neumann đặc biệt quan
ta hiện nay, tình trạng thiếu vắng dân chủ ở tâm đến khía cạnh tâm lý cá nhân khi tham
cơ sở đã hiện hữu. Việc bưng bít thông tin gia vào DLXH. Nếu cá nhân là số ít, hoặc
hoặc phớt lờ ý kiến của quần chúng nhân cho rằng mình thuộc về số ít, họ sẽ giữ im
dân là môi trường thuận lợi để tin đồn xảy lặng để đảm bảo không bị cô lập. Khi đưa
ra. Đồng thời, trách nhiệm giải trình của ra quan điểm này, Noelle-Neumann dựa
chính quyền trước những thắc mắc của nhân trên ba tiền đề: thứ nhất, con người có khả
dân còn hạn chế cũng sẽ làm cho nhân dân năng tự thống kê, một thứ “giác quan thứ
thờ ơ với các hoạt động của địa phương. sáu”, cho phép họ nắm được DLXH đang
Trong nghiên cứu DLXH, những biểu hiện phổ biến mà không cần phải thăm dò; thứ
đó được gọi là “vòng xoáy của sự im lặng”. hai, con người sợ bị cô lập, họ biết thái độ
Việt Nam có 53 dân tộc thiểu số. nào sẽ làm tăng khả năng bị cô lập; thứ
Theo Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày ba, con người rất dè dặt trong việc biểu lộ
14/01/2011 của Chính phủ về công tác dân những quan điểm mang tính thiểu số của
tộc, vùng dân tộc thiểu số là địa bàn có đông mình, chủ yếu là vì họ sợ bị cô lập (Theo:
các dân tộc thiểu số cùng sinh sống ổn định Nguyễn Quý Thanh, 2011: 92).
Câu hỏi đặt ra là, làm thế nào để cởi bỏ
1
“vòng xoáy của sự im lặng”? Theo Noelle-
Neumann, khi các cá nhân cho rằng quan
điểm của họ mang tính phổ biến và được
ủng hộ bởi những người khác, hoặc họ có
cảm giác được “bảo vệ”, khi đó họ sẽ thể
hiện ý kiến của mình trước đám đông với
thái độ tự tin.
Như vậy, lý thuyết “vòng xoáy của sự
im lặng” nhấn mạnh rằng DLXH không
lập tức xuất hiện, bởi các cá nhân còn phải
Bài viết dựa trên kết quả khảo sát thực tế năm
2019 tại các vùng đồng bào dân tộc thiểu số của
Đề tài “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về dư
luận xã hội ở vùng dân tộc thiểu số nước ta trong
bối cảnh toàn cầu hóa”. Đề tài đã triển khai khảo
sát trong thời gian 2 năm 2018-2019 trên địa bàn 11
tỉnh có đông đồng bào DTTS sinh sống (gồm: Lạng
Sơn, Hà Giang, Lai Châu, Sơn La, Nghệ An, Kon
Tum, Đắk Lắk, Ninh Thuận, Bình Phước, Trà Vinh,
Kiên Giang) với 3.283 bảng hỏi, 550 phỏng vấn sâu
(PVS). Bài viết này chỉ sử dụng một số tư liệu PVS
ở địa bàn ba tỉnh: Bình Phước, Đăk Lăk, Kon Tum.
Cơ chế hình thành…
41
im lặng để chờ đợi, nghe ngóng các ý kiến
K. Marx đã chỉ rõ, bản chất của con
khác xung quanh. Nếu các cá nhân thấy ý người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội,
kiến của họ có khả năng được nhiều người điều này có nghĩa rằng, thông qua tương tác
chia sẻ, đồng tình, ủng hộ, họ sẽ vững tin xã hội, con người được phát triển cả tư duy
bày tỏ ý kiến. Nếu không, họ sẽ im lặng vì lẫn hành động. Tuy nhiên, trong những lần
e ngại, sợ nói ra ý kiến của mình. Chính vì giao tiếp, tương tác giữa các cá nhân trong
điều này mà Noenlle-Neuman đưa ra định cộng đồng, không ít lần xảy ra những mâu
nghĩa rằng, DLXH là ý kiến được nói ra thuẫn, bất hòa. Ở những trường hợp này,
mà không bị trừng phạt. Đơn giản là nếu bị người ta thường lựa chọn biện pháp nào để
trừng phạt thì im lặng không bày tỏ ý kiến giải quyết bất hòa? Kết quả khảo sát của
(Theo: Phan Tân, 2015).
Đề tài tại địa bàn nghiên cứu cho thấy, có
3. Cơ chế hình thành “vòng xoáy của sự 23,8% số người được khảo sát lựa chọn im
im lặng” từ thực tiễn vùng dân tộc thiểu số lặng chấp nhận tuân theo cho dù không bằng
Theo lý thuyết “vòng xoáy của sự im lòng với cách giải quyết công việc của cán
lặng”, cơ chế im lặng được hình thành từ bộ chính quyền xã/thị trấn. Khi bất đồng với
sự độc đoán, hoặc mất dân chủ, hoặc dân hàng xóm láng giềng, cũng có tới 29,2%
chủ hình thức. Thực tế khảo sát của Đề tài người được khảo sát chọn cách im lặng.
cho thấy, hiện tượng “vòng xoáy của sự im
Như vậy, im lặng là cách giải quyết
lặng” ở một số vùng dân tộc thiểu số Việt vấn đề của một bộ phận không ít người
Nam không phải ít. Trong nhiều trường hợp, dân vùng dân tộc thiểu số hiện nay, do họ
người dân biết và thấy những hiện tượng sai “sợ” đụng chạm, “sợ” mất lòng hàng xóm.
trái nhưng không dám nói thẳng hoặc nói ra Hơn nữa, một bộ phận người dân tham gia
những điều không đúng với suy nghĩ, cảm PVS còn cho rằng, nếu họ lên tiếng, góp ý
xúc thật của mình, họ có tâm lý lo ngại về sự về những hành động sai trái của hàng xóm
không an toàn khi nói ra sự thật. Chính tâm láng giềng thì cũng không thay đổi được
lý cộng đồng đã khiến cái “tôi” của cá nhân gì, cho nên họ không muốn quan tâm đến.
bị nhòa lẫn trong cái “ta” chung, khiến các Ngoài ra, cũng có một bộ phận người dân
cá nhân e ngại khi nêu lên quan điểm của “sợ” bị hàng xóm trả thù. Thực tế những
riêng mình, đặc biệt trong việc tố giác những chuyến khảo sát điền dã đã cho chúng tôi
hành vi tham nhũng, hành vi trái pháp luật… thấy nhiều câu chuyện mà người dân gọi
Điều này sẽ ảnh hưởng đến công tác đấu là “tự chuốc họa vào thân”: Nhiều khi thấy
tranh phòng chống tham nhũng và tệ nạn xã thanh niên trong ấp làm sai như đua xe,
hội thông qua DLXH. Hơn nữa, việc không đánh lộn, mình đứng ra nói chuyện với
dám nói lên quan điểm của mình cũng khiến hắn nhưng bị hắn chửi nên không dám nói
người làm công tác DLXH không thể nắm nữa (PVS, nữ, Stiêng, 38 tuổi, làm thuê,
bắt chính xác tâm tư, nguyện vọng, ý chí của xã Lộc Quang, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình
nhân dân. Hậu quả là có thể xảy ra những Phước). “Nỗi sợ” của cá nhân và sự thiếu
điểm nóng về chính trị và xã hội.
tôn trọng của người khác là những yếu tố
Từ kết quả khảo sát của Đề tài, có thể khiến sự im lặng của người dân có cơ hội
rút ra một số nguyên nhân chính của sự im được hình thành.
lặng như sau:
* Im lặng do sợ bất đồng, sợ mâu thuẫn cách tiếp thu và thực hiện trách nhiệm của
với cán bộ cơ sở, với hàng xóm chính quyền
* Im lặng do những hạn chế trong
Thông tin Khoa học xã hội, số 9.2020
42
Sự hạn chế trong việc lắng nghe ý kiến dân hoặc không để ý đến những người phát
người dân và sự thiếu trách nhiệm của một biểu, cho nên người dân cảm thấy chán
bộ phận chính quyền là những yếu tố góp không muốn phát biểu (PVS, nữ, Mnông,
phần tạo nên sự im lặng của nhiều người dân 47 tuổi, làm thuê, thị trấn Liên Sơn, huyện
vùng dân tộc thiểu số. Kết quả khảo sát cho Lăk, tỉnh Đăk Lăk). Ý kiến của người dân
thấy, 45,5% số người tham gia khảo sát cho chưa được lắng nghe, cán bộ địa phương
rằng chính quyền địa phương chỉ tiếp thu còn thực hiện theo suy nghĩ của họ; nếu có
một phần ý kiến của người dân tại các cuộc tham khảo ý kiến của dân thì chỉ là hình
họp; 19,9% cho rằng cán bộ địa phương chỉ thức. Chính điều này đã khiến cho người
tham khảo ý kiến của một số người khi xây dân bức xúc, đặc biệt là nhóm dân tộc
dựng, sửa chữa một công trình công cộng Kinh (PVS, nam, Kinh, 64 tuổi, làm nông,
nào đó trên địa bàn. Điều đó cho thấy việc xã Ngọk Wang, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon
tham khảo, tiếp thu ý kiến người dân của Tum). Cán bộ ấp, xã có lắng nghe ý kiến,
chính quyền địa phương vùng dân tộc thiểu đề xuất của bà con nhưng giải quyết còn
số ở nhiều nơi còn hạn chế. Đa số đồng bào rất hạn chế; thậm chí không làm. Có trách
dân tộc thiểu số đều ít được học hành, trình nhiệm giải thích những vấn đề bức xúc của
độ hạn chế, điều kiện kinh tế khó khăn, điều người dân nhưng giải quyết không thỏa
đó khiến cho tiếng nói của họ có vẻ như ít đáng. Chủ yếu chỉ hứa với dân (PVS, nam,
được chính quyền địa phương chú trọng: Kinh, 53 tuổi, buôn bán, xã Lộc Quang,
Chính quyền có biểu hiện phân biệt đối xử huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước).
đối với người phát biểu (giàu - nghèo), tiếp
Như vậy, việc tiếp thu hạn chế và thiếu
thu ý kiến của người giàu, còn người nghèo trách nhiệm giải trình của cán bộ chính
chẳng quan tâm, cho nên người nghèo ít quyền địa phương ở một số nơi đã tạo ra
nói lên ý kiến của mình (PVS, nữ, Mnông, tâm lý không còn muốn phát biểu ý kiến,
41 tuổi, làm thuê, thị trấn Liên Sơn, huyện không còn quan tâm đến các vấn đề của địa
Lăk, tỉnh Đăk Lăk).
phương trong nhiều người dân vùng dân
Người dân ở một số nơi đã phản ánh sự tộc thiểu số.
thiếu trách nhiệm của cán bộ địa phương
* Im lặng do lo ngại bị đối xử không
trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong xây công bằng
dựng các công trình công cộng. Điều đó
Kết quả khảo sát cho thấy, hơn 20% số
khiến người dân không còn muốn tiếp tục người trả lời rằng họ không phản ứng, chấp
quan tâm đến các vấn đề của địa phương. nhận tuân theo hoặc tùy vấn đề để phản ứng
Một số ý kiến dưới đây là minh chứng: Cán khi không đồng tình với cách giải quyết
bộ địa phương thường không làm theo góp vấn đề của cán bộ xã và cán bộ thôn. Bằng
ý, tham khảo ý kiến của người dân. Trách chứng này cho thấy, người dân vùng dân
nhiệm giải trình ở lĩnh vực đầu tư công, xây tộc thiểu số còn khá dè chừng khi nói lên
dựng cơ sở hạ tầng (đường nội bộ, kênh ý kiến của mình đối với chính quyền địa
mương nội đồng, đường liên thôn…) còn phương. Mặc dù chiếm tỷ lệ không nhiều
hạn chế; chưa giải quyết dứt điểm theo nhưng con số này đã cho thấy có “khoảng
mong muốn của đa số người dân (PVS, cách” giữa cán bộ với nhân dân ở một số
nam, Mnông, 50 tuổi, làm nông, xã Yang nơi vùng dân tộc thiểu số, tạo ra rào cản
Tao, huyện Lăk, tỉnh Đăk Lăk). Chính khiến người dân hạn chế chia sẻ thái độ,
quyền có biểu hiện phớt lờ ý kiến của người góp ý đối với chính quyền.
Cơ chế hình thành…
43
Một trong những nguyên nhân khiến đề bức xúc với chính quyền trong các cuộc
cho “vòng xoáy của sự im lặng” trong đồng họp là vì sợ bị trù dập hoặc cán bộ có ác
bào dân tộc thiểu số ngày càng nhiều hơn cảm với bản thân người phát biểu. Như vậy,
đó là người dân lo sợ bị đối xử không công thử hỏi làm sao phát huy dân chủ theo chủ
bằng. Điều này được thể hiện qua hai câu trương của Nhà nước? (PVS, nam, Kinh,
chuyện dưới đây (được ghi chép trong nhật 63 tuổi, buôn bán, thị trấn Đức Phong,
ký các chuyến diền dã của Đề tài). Câu huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước). Việc trù
chuyện thứ nhất của ông Nguyễn Văn Th dập người thẳng, nói thật và ý kiến nhiều
(dân tộc Tày, 54 tuổi, làm nông, xã Thống trong các cuộc họp cũng khiến cho người
Nhất, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước), là dân rất ngại phát biểu thẳng thắn (PVS,
người di cư từ miền Bắc đến sinh sống lập nữ, Mnông, 47 tuổi, làm thuê, thị trấn Liên
nghiệp ở Tây Nguyên do cuộc sống ở quê Sơn, huyện Lăk, tỉnh Đăk Lăk).
cũ gặp nhiều khó khăn. Khi di cư đến đây,
cuộc sống gia đình ông vẫn khá chật vật
* Im lặng do thiếu tự tin
Người dân vùng dân tộc thiểu số đang
nhưng cũng dần ổn định hơn do được cộng gặp một vấn đề cũng rất đáng lưu tâm, đó là
đồng nơi đây đùm bọc. Là một người sống sự thiếu tự tin. Nguyên nhân là do trình độ
có trách nhiệm, hiểu được những khó khăn học vấn thấp, khả năng giao tiếp bằng tiếng
của người nghèo, ông luôn thể hiện chính phổ thông còn hạn chế: Người dân còn ngại
kiến của mình trong các cuộc họp dân để chia sẻ ý kiến cá nhân trong các cuộc họp
làm rõ quyền lợi của bà con địa phương. vì nhiều lý do như không hiểu tiếng người
Tuy nhiên, cũng vì vậy mà chính quyền địa Kinh, trình độ hạn chế (PVS, nam, Mnông,
phương xem ông “là người nhiều chuyện, 50 tuổi, làm nông, xã Yang Tao, huyện Lăk,
đòi hỏi quá nhiều”. Gia đình ông dường tỉnh Đăk Lăk). Có thể nói, đây là rào cản
như luôn bị loại ra đầu tiên khỏi danh sách lớn khiến người dân ít bày tỏ ý kiến với cán
nếu có sự hỗ trợ. Từ đó, ông rút ra kết luận bộ, chính quyền địa phương. Nhiều người
rằng “người dân không dám phát biểu dân tham gia khảo sát cho rằng, họ ngại
thẳng, thật với cán bộ vì sẽ bị họ trù dập”. phát biểu ý kiến trước các cuộc họp là do sợ
Câu chuyện thứ hai của ông Nguyễn Văn bị chê cười hoặc nói tiếng phổ thông không
T (dân tộc Kinh, sinh năm 1955, buôn bán, thành thạo: Đồng bào dân tộc ít tham gia
thị trấn Đức Phong, huyện Bù Đăng, tỉnh phát biểu trong các cuộc họp; trong khi
Bình Phước), cũng là một người di cư từ đó người Kinh phát biểu nhiều hơn, bởi vì
miền xuôi đến Tây Nguyên. Gia đình ông người Kinh người ta hiểu biết hơn nhiều,
có chút vốn nên mở được một cửa hàng tạp còn người dân tộc thì ít hiểu biết, nói sai sợ
hóa nhỏ. Là người có trách nhiệm và có người ta cười (PVS, nữ, Stiêng, 37 tuổi, làm
chút hiểu biết, ông thường xuyên phát biểu nông, thị trấn Đức Phong, huyện Bù Đăng,
nhiều trong các cuộc họp để chính quyền tỉnh Bình Phước). Thậm chí có trường hợp
đảm bảo quyền lợi của bà con đồng bào. người dân có trình độ khá cao (cao đẳng)
Kết quả là, những lần họp sau đó ông không nhưng trong các cuộc họp vẫn ngại phát
nhận được giấy mời họp. Hai câu chuyện biểu vì bản thân họ cảm thấy nhận thức
điền dã trên cho thấy, tình trạng người dân chưa đầy đủ, “sợ người ta cười”.
vùng dân tộc thiểu số ít dám nói thẳng, nói 4. Thay lời kết
thật đang diễn ra ở một số nơi: Tình trạng
Như vậy, “vòng xoáy của sự im lặng”
người dân không dám nói lên những vấn là hiện tượng xã hội đang hiện hữu ở một
Thông tin Khoa học xã hội, số 9.2020
44
số vùng dân tộc thiểu số nước ta hiện nay. trong thời gian tới. Dân chủ là bạn đồng
Thực tiễn cho thấy, “vòng xoáy của sự im
lặng” thường xuất hiện ở những nơi nào
còn tồn tại tình trạng mất dân chủ, dân chủ
hình thức và bản thân người dân nơi đó
thiếu tự tin. Các bằng chứng thực tiễn từ
kết quả khảo sát của Đề tài cho thấy, tỷ
lệ biểu hiện “vòng xoáy của sự im lặng”
không cao, song qua một số PVS có thể
thấy “vòng xoáy của sự im lặng” có tồn
tại trong một bộ phận người dân ở một số
vùng dân tộc thiểu số. Cơ chế hình thành
“vòng xoáy của sự im lặng” này rất đa
dạng, cần có nhiều nghiên cứu sâu để tìm
ra các giải pháp phù hợp nhằm tạo ra một
xã hội cởi mở hơn, dân chủ hơn đối với
vùng dân tộc thiểu số.
hành với DLXH, kẻ thù của tin đồn. Muốn
có DLXH, người dân bày tỏ được ý kiến
của mình thì không thể bỏ qua dân chủ. Ở
nơi nào mất dân chủ, dân chủ hình thức
thì nguy cơ tin đồn và nảy sinh điểm nóng
chính trị, xã hội là rất lớn. Phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa giúp người dân có
cơ hội tham gia đóng góp vào những công
việc quan trọng của địa phương, phát hiện
ra những bức xúc trong dân nhằm hạn chế
điểm nóng chính trị, xã hội. Việc đảm bảo
cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm và dân
kiểm tra” là một trong những phương châm
giúp các cá nhân dám nói lên những ý kiến,
quan điểm của mình
Có thể nói, việc vận dụng lý thuyết
“vòng xoáy của sự im lặng” vào công tác
nắm bắt DLXH có ý nghĩa lớn. Một tiêu
chí quan trọng, cần thiết để nắm bắt được,
nắm bắt đúng, nắm bắt đủ DLXH là cơ
chế đảm bảo quyền tự do ngôn luận, tự do
phát biểu ý kiến. Nếu không có cơ chế bảo
đảm quyền này thì khó có thể hình thành,
xuất hiện DLXH. Từ cách tiếp cận của lý
thuyết “vòng xoáy của sự im lặng” và thực
tiễn biểu hiện của nó ở vùng dân tộc thiểu
số Việt Nam hiện nay, có thể thấy vấn đề
dân chủ ở cơ sở cần phải được đẩy mạnh
Tài liệu tham khảo
1. Học viện Chính trị - Hành chính Quốc
gia Hồ Chí Minh (2005), Giáo trình Xã
hội học trong lãnh đạo, quản lý, Nxb.
Lý luận chính trị, Hà Nội.
2. Học viện Chính trị - Hành chính Quốc
gia Hồ Chí Minh (2005), Xã hội học
trong lãnh đạo, quản lý, Nxb. Lý luận
chính trị, Hà Nội.
3. Nguyễn Quý Thanh (2011), Xã hội học
về dư luận xã hội, Nxb. Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội.
văn, tập 5, số 4, tr. 400-411.
(tiếp theo trang 13)
3. Hoàng Khắc Nam (2020a), “Cấu trúc
trong lịch sử quan hệ quốc tế”, Tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử, số 3 (527), tr. 3-15.
4. Hoàng Khắc Nam (2020b), “Quan điểm
về cấu trúc trong các lý thuyết quan hệ
quốc tế”, trong: Kỷ yếu Hội thảo quốc
tế Triển vọng cấu trúc ở châu Á - Thái
Bình Dương đến năm 2025 và đối sách
của Việt Nam, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
Tài liệu tham khảo
1. Hoàng Khắc Nam (2017), “Chủ nghĩa
Mác”, trong: Hoàng Khắc Nam (chủ
biên, 2017), Lý thuyết Quan hệ quốc tế,
Nxb. Thế giới, Hà Nội.
2. Hoàng Khắc Nam (2019), “Các nhân tố
quy định cấu trúc trong quan hệ quốc
tế”, Tạp chí Khoa học xã hội và nhân
Bạn đang xem tài liệu "Cơ chế hình thành “vòng xoáy của sự im lặng” - Từ lý thuyết đến thực tiễn xã hội vùng dân tộc thiểu số Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- co_che_hinh_thanh_vong_xoay_cua_su_im_lang_tu_ly_thuyet_den.pdf