Quan hệ Ấn Độ - Tiểu vùng sông Mekong và vị trí của Việt Nam
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
TẠP CHÍ KHOA HỌC
ĐẠI HỌC SÀI GÒN
Số 74 (02/2021)
SAIGON UNIVERSITY
SCIENTIFIC JOURNAL
OF SAIGON UNIVERSITY
No. 74 (02/2021)
QUAN HỆ ẤN ĐỘ - TIỂU VÙNG SÔNG MEKONG
VÀ VỊ TRÍ CỦA VIỆT NAM
India – The Mekong subregion relations and the role of Vietnam
Võ Thị Thanh Tuyền
Học viên cao học Trường Đại học Sài Gòn
TÓM TẮT
Quan hệ Ấn Độ - Tiểu vùng sông Mekong đã hình thành từ rất lâu, trải qua nhiều thăng trầm, có lúc
“nóng” lúc “lạnh” và cũng có lúc dường như vắng bóng Ấn Độ tại khu vực này. Sau Chiến tranh Lạnh,
Tiểu vùng sông Mekong với vị trí, vai trò và tiềm năng phát triển đã nổi lên như một điểm sáng ở khu
vực, thu hút sự quan tâm của nhiều cường quốc trong đó có Ấn Độ. Đến nay, mối quan hệ đó vẫn tiếp
tục phát triển tốt đẹp với nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Là nước có vị trí quan trọng trong Tiểu vùng
và là đối tác chiến lược toàn diện của Ấn Độ, Việt Nam đóng vai trò then chốt trong quan hệ Ấn Độ -
Tiểu vùng sông Mekong. Trong bài viết này chúng tôi làm rõ hai vấn đề: quan hệ Ấn Độ - Tiểu vùng
sông Mekong và vị trí của Việt Nam trong quan hệ Ấn Độ - Tiểu vùng sông Mekong.
Từ khóa: Ấn Độ, quan hệ Ấn Độ - Mekong, Tiểu vùng sông Mekong, Việt Nam
ABSTRACT
It has been a long time since the relation between India and the Mekong Subregion was established.
After the Cold War, the Mekong Subregion has strived to become a driving force of the whole area,
attracting a lot of attention from powerful countries, especially India thanks to its location, role and
development potential. Despite having gone through ups and downs and sometimes without the
presence of India, this relation has continued to grow significantly with many remarkable achievements.
Being an important part in the Mekong Subregion and in a strategic partnership with India, Vietnam
plays a key role in the relation between India and the Mekong Subregion. This article will clarify the
two matters: India - The Mekong Subregion relations and the role of Vietnam in these relations.
Keywords: India, India - The Mekong Subregion relations, The Mekong subregion, Vietnam
Ủy ban sông Mekong Việt Nam, dòng sông
này dài khoảng 4.909km, bắt nguồn từ
Trung Quốc, qua các nước Myanmar, Thái
Lan, Lào, Campuchia trước khi vào Việt
Nam rồi đổ ra Biển Đông. Lưu vực sông
Mekong là “ngôi nhà” của hơn 60 triệu
người với trên 100 dân tộc khác nhau, “tạo
thành một trong những vùng đa dạng văn
hoá nhất trên thế giới” (Ban Thư ký Ủy hội
1. Quá trình phát triển quan hệ Ấn
Độ - Tiểu vùng sông Mekong
1.1. Khái quát về Tiểu vùng sông
Mekong
Tiểu vùng sông Mekong hình thành từ
sự ra đời của Tiểu vùng sông Mekong mở
rộng (GMS) - tổ chức được thành lập theo
sáng kiến của Ngân hàng phát triển châu Á
(ADB) vào năm 1992. Theo ước tính của
Email: ltv.thanhtuyen.1993@gmail.com
111
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY
No. 74 (02/2021)
sông Mekong, 2002).
nước Tiểu vùng sông Mekong qua các thời
kỳ lịch sử.
Với vị trí tiếp giáp biển Đông (trừ
Lào) cùng hệ thống sông ngòi, nguồn tài
nguyên dồi dào, Tiểu vùng sông Mekong
trở thành khu vực có tiềm năng kinh tế
biển, tiềm năng thủy điện, là thị trường
cung cấp sức lao động và tiêu thụ sản phẩm
rất lớn. Trong những thập kỷ gần đây, với
xu thế phát triển mới của quá trình toàn cầu
hoá, khu vực hoá, các nước lớn có xu
hướng tăng cường hợp tác ở khu vực châu
Á - Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương. Tiểu
vùng sông Mekong đã và đang thu hút
được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế
cũng như các đối tác phát triển, trong đó có
các nước lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nhật
Bản, Hàn Quốc và Ấn Độ. Đến nay, tại
Tiểu vùng sông Mekong đã hình thành
nhiều cơ chế hợp tác khác nhau như Ủy hội
sông Mekong (1995), Hợp tác Tam giác
phát triển Campuchia - Lào - Việt Nam
(1999), Chiến lược Hợp tác Kinh tế
Ayeyawady - Chao Phraya - Mekong
(2003), Hợp tác Tiểu vùng sông Mekong
mở rộng (1992), Hợp tác Mekong - sông
Hằng (2000), Hợp tác Mekong - Lan
Thương (2015), v.v.
1.2.1. Quan hệ giữa Ấn Độ - Tiểu vùng
sông Mekong trước năm 1991
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Ấn
Độ và các nước trong khu vực Đông Nam
Á đã cùng ủng hộ nhau chống chủ nghĩa
thực dân, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Sau khi thoát khỏi sự đô hộ của Anh mặc
dù còn gặp nhiều khó khăn nhưng Ấn Độ
vẫn nỗ lực để ủng hộ phong trào giải phóng
dân tộc ở khu vực Đông Nam Á. Tháng
3/1947, Thủ tướng Ấn Độ J. Nehru đã tổ
chức cuộc họp nhân dân châu Á tại New
Delhi kêu gọi dư luận phản đối cuộc xâm
lược phi nghĩa của thực dân, đế quốc. Ấn
Độ là quốc gia đầu tiên công nhận nền độc
lập của Myanmar, đồng thời ủng hộ phong
trào giành độc lập của nhân dân Việt Nam
trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Quan
hệ hữu nghị Ấn Độ - Đông Nam Á đạt đến
đỉnh cao vào thời gian diễn ra Hội nghị
Bandung (1955). Cuộc họp này cho thấy,
phần lớn các nước Đông Nam Á đã thừa
nhận vai trò tích cực của Ấn Độ trong
những vấn đề của châu Á và quốc tế.
Tuy nhiên, đầu những năm 60 của thế
kỉ XX, quan hệ giữa Ấn Độ và các nước
khu vực Đông Nam Á đã bắt đầu xuất hiện
một số bất đồng về kinh tế, chính trị. Bên
cạnh đó quan hệ Ấn Độ - Pakistan trở nên
căng thẳng cho nên Ấn Độ cũng gần như
“sao nhãng” mối quan hệ với các nước
Đông Nam Á. Năm 1979, khi quân đội
Việt Nam tiến vào Campuchia để giúp đỡ
nhân dân Campuchia chống lại chế độ Pol
Pot và xây dựng đất nước, mặc dù đứng
trước nhiều sức ép khác nhau, nhưng “ngày
7/7/1980 Chính phủ Ấn Độ đã lên tiếng
công nhận Chính phủ Campuchia do Việt
Nam hậu thuẫn và tìm mọi cách hạn chế sự
phản đối của các nước đối với Việt Nam”
1.2. Quan hệ Ấn Độ - Tiểu vùng sông
Mekong
Là một trung tâm văn minh lớn của
phương Đông, các thành tố văn minh Ấn
Độ đã ảnh hưởng sâu rộng tới các quốc gia
trong khu vực, trong đó có các nước Đông
Nam Á. Theo dòng chảy lịch sử, các nước
trong khu vực Tiểu vùng sông Mekong
cũng có quá trình tiếp thu các thành tựu
văn minh Ấn Độ trên nhiều lĩnh vực như tổ
chức nhà nước, phương thức canh tác lúa
nước, chữ viết, văn học, nghệ thuật, tôn
giáo, kiến trúc, v.v. Đó cũng chính là cơ sở
và nguyên nhân quan trọng để thúc đẩy
mối quan hệ hợp tác giữa Ấn Độ với các
112
VÕ THỊ THANH TUYỀN
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
(Nguyễn Cảnh Huệ, 2003, tr.77). Bước
sang thập kỉ 80, tình hình quan hệ giữa các
nước Đông Nam Á không được lạc quan vì
khác nhau về quan điểm, trong đó có “vấn
đề Campuchia”.
Về an ninh quốc phòng, thông qua các
chuyến thăm làm việc và học tập kinh
nghiệm, quan hệ hữu nghị và hiểu biết về
nhau giữa Ấn Độ và các nước Tiểu vùng
sông Mekong ngày càng có những bước
phát triển tốt đẹp, đánh dấu bằng những
cuộc trao đổi, chuyến thăm giữa các quan
chức cấp cao của Bộ Quốc phòng. Tháng
3/1997, Tổng Tư lệnh quân đội Ấn Độ
chính thức thăm Myanmar, hai bên đã có
nhiều hợp tác trên lĩnh vực an ninh quốc
phòng. Các nước Tiểu vùng cũng tăng
cường các chuyến thăm Ấn Độ, như tháng
12/1999 Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt
Nam cùng với phái đoàn quan chức cấp
cao của Việt Nam thăm Ấn Độ, v.v.
Về kinh tế, Ấn Độ đã khuyến khích
các công ty tăng cường đầu tư và xây dựng
những công trình liên doanh ở Đông Nam
Á. Đến năm 1997, cuộc khủng hoảng tài
chính khu vực làm cho quan hệ thương mại
giữa hai bên chậm lại trong một khoảng
thời gian ngắn và sau đó bắt đầu phục hồi.
Cùng với việc hợp tác kinh tế là sự tăng
cường quan hệ ngoại giao cấp nhà nước
với những chuyến thăm lẫn nhau của các
cấp lãnh đạo các bên. Đặc biệt chỉ trong
vòng 3 tháng, từ tháng 12/1999 đến tháng
2/2000 đã có nhiều chuyến thăm Ấn Độ
của Chủ tịch nước Việt Nam (Trần Đức
Lương), Thủ tướng Campuchia (HunSen),
v.v. Điều đó chứng tỏ rằng, Ấn Độ thực sự
là một đối tác tin cậy, luôn nhận được sự
quan tâm của các nước trong Tiểu vùng
sông Mekong.
Như vậy, mối quan hệ giữa Ấn Độ với
Tiểu vùng trong giai đoạn này chủ yếu
thông qua khu vực Đông Nam Á với nhiều
biến cố, thăng trầm, khi “nóng” khi “lạnh”,
có lúc tốt đẹp, ủng hộ, giúp đỡ nhau trong
quá trình giành độc lập dân tộc, cũng có
lúc trở nên xấu đi. Tuy chủ yếu là dựa trên
quan hệ chính trị, còn nhiều hạn chế, chưa
có điều kiện để phát triển như mong muốn
của cả hai bên, nhưng thời kỳ này là tiền đề
quan trọng để phát triển mối quan hệ cuối
thế kỉ XX và là bước đột phá về cả chiều
sâu lẫn chiều rộng trong thế kỉ XXI.
1.2.2. Quan hệ Ấn Độ - Tiểu vùng sông
Mekong từ năm 1991 đến năm 2000
Có thể nói đây là khoảng thời gian mối
quan hệ giữa Ấn Độ và các nước Đông
Nam Á có môi trường thuận lợi để phát
triển. Từ đầu thập niên 90, Ấn Độ triển
khai “Chính sách Hướng Đông - Look East
Policy”, một trong những mục tiêu chủ yếu
là đẩy mạnh hợp tác kinh tế với khu vực
Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình
Dương. Năm 1993, Ấn Độ trở thành thành
viên đối thoại của ASEAN, Thủ tướng
Narasimha Rao thăm Thái Lan (1993),
thăm Việt Nam (1994), v.v. Những sự kiện
này được coi như một dấu hiệu tích cực
trong mối quan hệ của Ấn Độ với khu vực
Đông Nam Á và làm gia tăng mối quan hệ
giữa Ấn Độ với các nước thuộc Tiểu vùng
sông Mekong sau một khoảng thời gian dài
Ấn Độ dường như vắng bóng ở khu vực
này, đồng thời góp phần tạo điều kiện
thuận lợi cho việc hợp tác chặt chẽ giữa Ấn
Độ và các nước trong Tiểu vùng trên nhiều
lĩnh vực như chính trị, an ninh, kinh tế, v.v.
Bên cạnh quan hệ kinh tế, chính trị
đóng vai trò chủ đạo, mối quan hệ văn hóa,
khoa học kỹ thuật của hai bên cũng được
chú trọng và đẩy mạnh. Các doanh nghiệp
của Ấn Độ mở các trung tâm đào tạo phần
mềm tại Việt Nam, Campuchia… nhằm tạo
ra nhân tài phần mềm cho các nước. Như
113
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY
No. 74 (02/2021)
một phần trong hoạt động văn hóa của
MGC (Mekong - Ganga Cooperation), Ấn
độ đã cấp 1 triệu USD xây dựng bảo tàng
về ngành dệt truyền thống ở Siem Riep của
Campuchia.
Như vậy, sau khi tiến hành cải cách
kinh tế toàn diện và triệt để, Ấn Độ đã đề
ra “Chính sách Hướng Đông” nhằm tăng
cường mối quan hệ với các nước khu vực
Đông Nam Á, trong đó có các nước Tiểu
vùng sông Mekong. Tuy nhiên, trong giai
đoạn này mối quan hệ giữa Ấn Độ và Tiểu
vùng sông Mekong vẫn còn “mờ nhạt”, chủ
yếu là nằm trong mối quan hệ chung của
khu vực.
ngoại giữa các bên. Tháng 2/2001, Ngoại
trưởng Ấn Độ Jas. Wan Singh thăm
Myanmar - là sự kiện mở màn cho mối
quan hệ tốt đẹp giữa hai bên. Từ ngày 6
đến ngày 10/11/2002, Thủ tướng Ấn Độ
thăm Lào, Thái Lan, Campuchia; tháng
3/2007, Chủ tịch Hạ viện Quốc hội
Somnath Chaterjee thăm Việt Nam, v.v.
Các nước Tiểu vùng dành cho Ấn Độ sự
quan tâm thể hiện bằng hàng loạt các
chuyến thăm của Tổng Bí thư Đảng Cộng
sản Việt Nam (3/2004), Thủ tướng
Myanmar (11/2005), Thủ tướng Việt Nam
(7/2007),v.v. Chính các chuyến thăm
thường xuyên giữa các nước là nhân tố
thúc đẩy quan hệ Ấn Độ - Tiểu vùng ngày
càng tốt đẹp hơn cũng như thể hiện sự
thống nhất trên nhiều vấn đề của khu vực
và quốc tế, khẳng định sự ủng hộ và giúp
đỡ lẫn nhau trong quá trình hội nhập vào
dòng chảy của thế giới, làm sâu sắc thêm
mối quan hệ giữa hai bên.
Về kinh tế, tại Tuyên bố chung của
Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao hợp tác
MGC lần thứ 8 (tháng 8/2017 - Manila,
Philippines), Ấn Độ và các nước Mekong
nhất trí mở rộng các lĩnh vực hợp tác, kết
nối giao thông và thúc đẩy phát triển
thương mại. Chính sách “Hành động ở phía
Đông” của Ấn Độ (Thủ tướng Narendra
Modi quyết định chuyển từ “Chính sách
Hướng Đông” sang “Hành động ở phía
Đông” ngày 5/10/2014) và chiến lược phát
triển “Hướng ra bên ngoài” của các nước
Tiểu vùng sông Mekong cho thấy, tiềm
năng hợp tác của hai bên còn rất lớn. Ấn
Độ chủ động thúc đẩy việc thực hiện các
“trụ cột chính” trong “Hành động ở phía
Đông” bằng các mối quan hệ hợp tác mạnh
mẽ với ASEAN trên nhiều lĩnh vực. Giữa
Ấn Độ và các nước Tiểu vùng đã có dự án
kết nối đường bộ, đường thuỷ, rút ngắn
1.2.3. Quan hệ Ấn Độ - Tiểu vùng sông
Mekong từ năm 2000 đến nay
Bước sang những thập niên đầu của
thế kỉ XXI, với mục tiêu tái định vị vai trò
trong bản đồ khu vực châu Á - Thái Bình
Dương, Chính phủ Ấn Độ đã ưu tiên liên
kết, thắt chặt mối quan hệ với các nước
láng giềng và tiếp tục “Chính sách Hướng
Đông”, tập trung tăng cường quan hệ trên
mọi lĩnh vực với các nước Tiểu vùng sông
Mekong; cơ chế hợp tác chính là Hợp tác
Mekong - sông Hằng với 5 nước Tiểu vùng
sông Mekong là Campuchia, Lào, Thái
Lan, Myanmar, Việt Nam.
Tháng 7/2000, hợp tác Mekong - sông
Hằng được hình thành với 4 lĩnh vực chủ
yếu là du lịch, văn hóa, giao thông liên lạc
và đào tạo. Trong những năm đầu, việc
triển khai hợp tác không thực sự hiệu quả,
thậm chí có lúc không tổ chức được các
Hội nghị Bộ trưởng định kỳ. Trước áp lực
cạnh tranh từ các cường quốc khác, nhất là
Trung Quốc, thời gian sau Ấn Độ đã quan
tâm đầu tư hơn cho cơ chế hợp tác này.
Chính vì vậy, hoạt động ngoại giao giữa
Ấn Độ và các nước Tiểu vùng cũng được
tăng cường, thể hiện ở các sự kiện đối
114
VÕ THỊ THANH TUYỀN
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
khoảng cách giữa khu vực sông Mekong và
Tây Ấn Độ. Tuyến đường cao tốc dự kiến
dài 1400 km đi qua Ấn Độ - Myanmar -
Thái Lan kết nối Campuchia, Lào và Việt
Nam. Theo một số nhà nghiên cứu, tuyến
đường này là một phần trong kế hoạch mở
rộng “Hành lang Ấn Độ - Mekong” để thúc
đẩy liên kết Ấn Độ và Tiểu vùng. Một
tuyến đường giao thương xuyên Đông Nam
Á bắt đầu được định hình.
Tháng 6/2019, ASEAN đưa ra “Tầm
nhìn Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương”,
thúc đẩy sự hợp tác giữa Ấn Độ Dương và
Thái Bình Dương. Ấn Độ hưởng ứng tích
cực chủ trương này, công khai thừa nhận
địa vị trung tâm của Đông Nam Á ở khu
vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương,
hoan nghênh ASEAN đưa ra chiến lược
của mình ở khu vực này.
Như vậy, từ năm 2000 đến nay, quan
hệ Ấn Độ - Tiểu vùng sông Mekong có
nhiều bước phát triển vượt bậc. Trong bối
cảnh khu vực có nhiều chuyển biến từ sự
vận động “xoay trục” của các nước lớn, Ấn
Độ cũng hướng về các “con hổ” ở khu vực
Đông Nam Á mà các nước thuộc Tiểu
vùng là những đối tác có lợi ích “sát sườn”
với mình.
Năm 2007, Tuyên bố chung Việt Nam
- Ấn Độ được ký kết, khẳng định nâng cấp
quan hệ hai nước lên đối tác chiến lược,
trong đó cam kết tăng cường hợp tác quốc
phòng ngày càng đi vào chiều sâu. Năm
2016, quan hệ Việt Nam - Ấn Độ được
nâng lên đối tác chiến lược toàn diện. Thủ
tướng Ấn Độ tái khẳng định quan tâm của
Ấn Độ trong việc đẩy mạnh hợp tác công
nghiệp quốc phòng với Việt Nam và hỗ trợ
gói tín dụng (500 triệu USD) để triển khai
thực hiện dự án hợp tác trong lĩnh vực này;
“Thương mại song phương Việt Nam - Ấn
Độ trong 10 tháng đầu năm 2019 đạt 11,07
tỷ USD. Trong đó, Ấn Độ xuất khẩu sang
Việt Nam đạt 4,52 tỷ USD và nhập khẩu từ
Việt Nam đạt 6,55 tỷ USD, tăng 4,77%,
Việt Nam có mức thặng dư thương mại
2,03 tỷ USD với Ấn Độ” (Thế giới và Việt
Nam, 2019).
Trong kỳ họp lần thứ 17 của Ủy ban
Hỗn hợp Việt Nam - Ấn Độ diễn ra ngày
25/8/2020, hai nước tiếp tục phối hợp chặt
chẽ, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm ứng
phó đại dịch Covid-19 ở cả các kênh song
phương và đa phương. Hai bên tích cực
ủng hộ lẫn nhau ứng cử vào các tổ chức,
diễn đàn đa phương, đồng thời khẳng định
tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình,
ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải,
hàng không; giải quyết hòa bình các tranh
chấp ở Biển Đông dựa trên luật pháp quốc
tế.
2. Vị trí của Việt Nam trong quan hệ
Ấn Độ - Tiểu vùng sông Mekong
2.1. Mối quan hệ giữa Việt Nam -
Ấn Độ
Quan hệ hữu nghị truyền thống Việt
Nam - Ấn Độ được khởi nguồn từ lịch sử
sâu xa về văn hóa, tôn giáo, thương mại.
Kể từ sau khi hai nước thiết lập quan hệ
ngoại giao cấp Đại sứ ngày 7/1/1972, mối
quan hệ hữu nghị truyền thống tốt đẹp và
hợp tác toàn diện Việt Nam - Ấn Độ không
ngừng được thúc đẩy và mở rộng, vươn tới
những mục tiêu có ý nghĩa to lớn và thiết
thực hơn đối với cả hai nước.
Hơn 45 năm qua, Việt Nam và Ấn Độ
đã xây dựng được quan hệ hợp tác tốt đẹp
với độ tin cậy chính trị cao. Tuy nhiên, để
hiện thực hóa quan hệ đối tác chiến lược
toàn diện, hai bên cần nâng cao tinh thần
trách nhiệm, thái độ nhiệt thành, sự thấu
hiểu nhau thông qua các diễn đàn, đặc biệt
là diễn đàn khoa học và trên hết là tư duy
nhạy bén, năng động.
115
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY
No. 74 (02/2021)
chính phủ cùng với nhân dân hai nước đã
không ngừng cố gắng và tiếp tục phát huy
những thành tựu mà hai bên đã xây dựng.
2.3. Cơ hội và thách thức trong quan
hệ đa phương Việt Nam - Ấn Độ - Tiểu
vùng sông Mekong
2.2. Vị trí của Việt Nam trong quan
hệ Ấn Độ - Tiểu vùng sông Mekong
Việt Nam là một trong những quốc gia
có vị thế quan trọng trong Tiểu vùng sông
Mekong. Việt Nam đã tích cực tham gia và
có nhiều đóng góp cho hợp tác phát triển
Tiểu vùng sông Mekong dưới nhiều hình
thức như tổ chức các hội nghị, hội thảo,
xây dựng các văn bản quan trọng, xây
dựng và thúc đẩy các sáng kiến, hỗ trợ tài
chính cho các nước láng giềng. Sự tham
gia tích cực, chủ động của Việt Nam đã
góp phần quan trọng củng cố quan hệ hợp
tác hữu nghị và láng giềng thân thiện với
các nước trong Tiểu vùng, tạo môi trường
quốc tế thuận lợi cho sự phát triển của đất
nước, từng bước nâng cao vai trò, vị thế và
phát huy những lợi thế của Việt Nam trong
Tiểu vùng sông Mekong.
Việt Nam đã đánh giá cao các hoạt
động mà hợp tác MGC đã triển khai trong
thời gian qua và sự hỗ trợ của Ấn Độ dành
cho khu vực sông Mekong tại Hội nghị Bộ
trưởng MGC lần thứ 9 (2/8/2018)
Singapore và Hội nghị Bộ trưởng MGC lần
thứ 10 (1/8/2019) tại Bangkok, Thái Lan.
Đồng thời, Việt Nam đưa ra nhiều sáng
kiến cũng như đề xuất một số ưu tiên hợp
tác trong thời gian tới, bao gồm: tăng
cường hợp tác kết nối, tích cực nghiên cứu
các dự án hỗ trợ phát triển mạng lưới giao
thông đa phương thức nối liền khu vực
Mekong và Ấn Độ, thuận lợi hóa thương
mại và đầu tư, thúc đẩy quản lý nguồn
nước bền vững, v.v.
Bối cảnh hiện nay có rất nhiều thuận
lợi cho quan hệ Ấn Độ - Tiểu vùng sông
Mekong. Thuận lợi cơ bản là, khu vực Ấn
Độ - Thái Bình Dương vẫn tiếp tục duy trì
sự phát triển năng động nhất trên thế giới,
cùng với sự mở rộng quy mô nền kinh tế
của các quốc gia là quá trình tự do hóa và
liên kết khu vực, sự phụ thuộc lẫn nhau và
nhu cầu đối thoại, hợp tác giữa các nước.
Các cơ chế đối thoại như Cấp cao ASEAN,
Thượng đỉnh Đông Á... đã được thể chế
hóa, trở thành diễn đàn thường niên để các
nhà lãnh đạo cấp cao trong khu vực tăng
cường gặp gỡ, chia sẻ quan điểm và xây
dựng lòng tin. Ấn Độ cũng có những thay
đổi theo hướng tích cực hơn về vấn đề
Biển Đông, từ việc các nhà lãnh đạo Ấn Độ
gần đây thể hiện lập trường rõ ràng, mạnh
mẽ hơn trong việc bảo đảm tự do, an ninh
hàng hải và quyền tiếp cận các nguồn tài
nguyên trong khu vực, đến việc tăng cường
hợp tác quốc phòng với một số nước trong
khu vực. Sự thay đổi này cho thấy ngày
càng có sự tương đồng rõ nét về lợi ích
chiến lược, nhất là hợp tác hiệu quả trong
các lĩnh vực quốc phòng an ninh, chia sẻ
thông tin, đào tạo huấn luyện, cung cấp
trang thiết bị, hợp tác khoa học công nghệ,
văn hóa và giáo dục đào tạo.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã
từng khẳng định, quan hệ Việt Nam - Ấn
Độ được coi là mối quan hệ lịch sử, truyền
thống, thủy chung và “trong sáng như bầu
trời không một gợn mây”. Trải qua thời
gian dài, để giữ vững mối quan hệ hữu
nghị tốt đẹp giữa Việt Nam và Ấn Độ,
Tuy nhiên, quan hệ Ấn Độ - Tiểu vùng
sông Mekong cũng đang đứng trước những
thách thức, đặc biệt là tình hình khu vực
đang có nhiều biến động, phức tạp, đan xen
nhiều xu hướng khác nhau vừa cạnh tranh
ảnh hưởng, vừa gia tăng phụ thuộc lẫn
nhau giữa các cường quốc, đặt ra nhiều bài
116
VÕ THỊ THANH TUYỀN
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
toán lợi ích cùng lúc cho mỗi quốc gia.
Đồng thời các vấn đề an ninh phi truyền
thống cũng đang trở thành vấn đề lớn của
khu vực, trong đó vấn đề tội phạm xuyên
quốc gia (khủng bố, cướp biển, an ninh
mạng), dịch bệnh, biến đổi khí hậu, an ninh
nguồn nước… cùng với các thách thức an
ninh nói trên là những khó khăn, bất ổn của
kinh tế toàn cầu. Bên cạnh đó, kết quả hợp
tác giữa Ấn Độ và Tiểu vùng sông Mekong
trong một số lĩnh vực trụ cột vẫn ở mức
thấp so với khả năng và kỳ vọng của hai
bên; còn nhiều khó khăn trong việc thúc
đẩy quan hệ, nhất là vấn đề kết nối, tăng
cường hiểu biết lẫn nhau, vấn đề triển khai
hiệu quả, kịp thời những thỏa thuận đã ký.
Mặt khác, Việt Nam và Ấn Độ cần đưa
ra giải pháp làm cho mối quan hệ hợp tác
phát triển hơn nữa, không chỉ về chính trị,
an ninh quốc phòng mà còn cả về kinh tế
và các lĩnh vực khác, nhằm khai thác sức
mạnh toàn diện của nhau.
vùng sông Mekong nói riêng đã được hình
thành và ngày càng phát triển, nhất là từ
sau Chiến tranh lạnh. Đông Nam Á, trong
đó có Tiểu vùng sông Mekong, giữ vị trí
quan trọng trong chính sách “Hành động ở
phương Đông” của Ấn Độ và Chính phủ
Ấn Độ đã liên tục có những điều chỉnh
theo hướng ngày càng tham gia mạnh mẽ
hơn vào những vấn đề ở khu vực. Với vị
thế của mình trong khu vực, Việt Nam đã
thể hiện thái độ tích cực, chân thành, có
nhiều đóng góp quan trọng cho việc tăng
cường tính gắn kết và chia sẻ giữa các
thành viên. Tính sáng tạo và năng động của
Việt Nam đã khẳng định và gia tăng uy tín
của Việt Nam trong nhận thức của các
quốc gia trong và ngoài khu vực. Có thể
nói, Việt Nam ngày càng chứng tỏ được
vai trò là một “cầu nối” hòa bình và tin
tưởng để các quốc gia ngoài khu vực thiết
lập quan hệ ngày càng sâu sắc với Tiểu
vùng, đồng thời có quan hệ tốt đẹp với Ấn
Độ. Do đó Việt Nam luôn giữ vị trí quan
trọng trong quan hệ Ấn Độ - Tiểu vùng
sông Mekong.
3. Kết luận
Quan hệ giữa Ấn Độ với các nước
Đông Nam Á (ASEAN) nói chung và Tiểu
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ban Thư ký Ủy hội sông Mekong. (2002). Giới thiệu khoa học môi trường trong lưu vực
sông Mekong. Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, 3(25).
Binoj Basnyat. (25/9/2020). Power Rivalry in the Indo-Pacific Region, truy xuất
Đỗ Thanh Hà. (2019). Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ từ đầu thế kỉ XXI đến nay. TP.HCM:
NXB Văn hóa Nghệ thuật.
Lê Trung Kiên. (2018). Sự can dự của một số nước tại Tiểu vùng Mekong qua các cơ chế
hợp tác Tiểu vùng và liên hệ tới Việt Nam. Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, 1(112).
Lê Văn Toan. (chủ biên) (2017). Quan hệ Việt - Ấn trên lĩnh vực kinh tế, thương mại, năng
lượng. Hà Nội: NXB Thông tin và Truyền thông.
Lê Văn Toan. (chủ biên) (2017). Việt Nam - Ấn Độ, 45 năm quan hệ ngoại giao và 10 năm
đối tác chiến lược. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
117
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY
No. 74 (02/2021)
Nguyễn Cảnh Huệ. (2003). Tìm hiểu quan điểm của chính phủ Cộng hòa Ấn Độ trong việc
giải quyết vấn đề Campuchia (1979-1991). Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, 1(77).
Nguyễn Tiến Lực. (chủ nhiệm) (2015). Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học: Vị
thế của Việt Nam trong Tiểu vùng Mekong-Nhìn từ quan hệ với Nhật Bản. TP. Hồ
Chí Minh: NXB Đại học Quốc gia.
Phạm Đức Dương. (2007). Có một vùng văn hóa Mekong. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.
Sonal Shukla. (1/10/2020). India’s Road to Economic Recovery, truy xuất
Thế giới và Việt Nam. (2019). Việt Nam xuất siêu sang Ấn Độ hơn 2 tỷ USD, truy xuất từ
Trần Nam Tiến. (chủ biên) (2016). Ấn Độ với Đông Nam Á trong bối cảnh quốc tế mới.
TP.HCM: NXB Văn hóa - Văn Nghệ.
Trần Thị Lý. (chủ biên) (2002). Sự điều chỉnh chính sách của Cộng hòa Ấn Độ từ năm
1991 đến năm 2000. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.
Udai Bhanu Singh. (4/3/2020). Five Years of India’s Act East Policy and the way Ahead,
Ngày nhận bài: 03/11/2020
Biên tập xong: 15/02/2021
Duyệt đăng: 20/02/2021
118
Bạn đang xem tài liệu "Quan hệ Ấn Độ - Tiểu vùng sông Mekong và vị trí của Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- quan_he_an_do_tieu_vung_song_mekong_va_vi_tri_cua_viet_nam.pdf