Giải pháp công trình thủy lợi nhỏ về thu trữ nước nhằm ứng phó hạn hạn cho nông nghiệp khu vực Tây Nguyên

KHOA HỌC  
CÔNG NGHỆ  
GIẢI PHÁP CÔNG TRÌNH THỦY LỢI NHỎ  
VỀ THU TRỮ NƯỚC NHẰM ỨNG PHÓ HẠN HẠN  
CHO NÔNG NGHIỆP KHU VỰC TÂY NGUYÊN  
Trần Minh Thái, Lê Hồng Lưu, Dương Ngọc Hùng  
Viện Khoa học Thủy lợi miền Trung và Tây Nguyên  
Tóm tắt: Trong những năm gần đây tình trạng hạn hán và thiếu nước về mùa khô ở Tây Nguyên ngày  
càng trầm trọng. Bài báo nêu lên thực trạng sử dụng nước và đưa ra các giải pháp phát triển công  
nghệ thủy lợi nhỏ về thu, trữ nước mặt nhằm tạo nguồn cấp nước tưới cho những vùng thường xuyên  
bị thiếu nước, hạn hán phù hợp với điều kiện tự nhiên và xã hội khu vực Tây Nguyên.  
Từ khóa: Công trình thuỷ lợi nhỏ, thu trữ nước mặt, hạn hán, Tây Nguyên.  
Summary: In recent years, drought and water shortage in the dry season in the Central Highlands  
has been getting worse. This article discusses the current state of water use and proposes solutions to  
develop small hydraulic work as collection, archive of surface water to create sources of surface water  
reserves for irrigation of the region where often face water shortages and droughts consistent with  
natural conditions and social in the Central Highlands of Vietnam.  
Keywords: Small hydraulic works, surface water storage, droughts consistent, the Central  
Highlands of Vietnam.  
1. ĐẶT VẤN ĐỀ*  
chảy mùa kiệt (chiếm 23-30% lượng dòng chảy  
Tây Nguyên bao gồm 5 tỉnh, (Kon Tum, Gia Lai, năm). Vào mùa khô, trong nhiều năm có tới 60-  
Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng) với diện tích 90 ngày liên tục không có mưa, nhiều sông suối  
vào khoảng 54.641 km2 là vùng có vị trí chiến nhỏ hoàn toàn khô hạn.  
lược quan trọng về chính trị, quốc phòng và an Với trữ lượng nước mặt lớn với lưu lượng dòng  
ninh. Giá trị kinh tế trong lĩnh vực Nông nghiệp chảy năm có khoảng 51,05 tỷ m3/năm với 4 hệ  
chiếm 55,9%. Về dân số theo số liệu thống kê, sông lớn như: Sông Sêsan (13,8 tỷ m3/năm);  
năm 2016 có 5.693.200 người.  
Sông Sêrêpôk (15,7 tỷ m3/năm); Sông Ba (8,25  
tỷ m3/năm); Sông Đồng Nai (13,3 tỷ m3/năm),  
nhu cầu sử dụng nước ở Tây Nguyên năm 2015  
không xét đến đảm bảo dòng chảy tối thiểu vào  
khoảng 6,67 tỷ m3. So với tiềm năng nguồn  
Không có nơi nào ở Việt Nam như Tây Nguyên,  
nơi bắt nguồn của nhiều hệ thống sông, thu  
nước từ Tây Nguyên đổ các vùng xung quanh.  
Hệ thống sông Sê San, Srêpok, Đồng Nai thu  
nước từ Tây Nguyên đổ vào sông Mê Kông ở  
nước có được chỉ chiếm khoảng (13 14)%. [6]  
phía Tây. Hệ thống sông Ba, sông Thu Bồn, Theo thống kê [5], Tây Nguyên hiện có khoảng  
sông Trà Khúc lấy nước ở Tây Nguyên đổ ra hơn 1.200 hồ chứa Thủy Lợi, tuy nhiên hiện tại  
biển Đông.  
năng lực của các hồ chứa trên địa bàn không  
Về tiềm năng nước mặt, lượng dòng chảy năm còn đảm bảo được nhiệm vụ chống hạn; theo  
trên lãnh thổ miền Trung và Tây Nguyên phân đánh giá của các cơ quan chức năng thì:  
phối rất không đều trong năm, dòng chảy mùa  
lũ (chiếm 70-77% lượng dòng chảy năm), dòng  
Nguyên mới chỉ đảm bảo cấp nước tưới cho  
Các công trình thủy lợi hiện tại khu vực Tây  
Ngày nhận bài: 08/10/2018  
Ngày duyệt đăng: 06/12/2018  
Ngày thông qua phản biện: 20/11/2018  
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 51 - 2018  
1
KHOA HỌC  
CÔNG NGHỆ  
khoảng 20% diện tích canh tác (trong đó, chủ bơm nước trực tiếp từ sông, suối và từ các ao hồ  
yếu là lúa, còn phần lớn cây trồng cạn vẫn do trong khu vực);  
người dân tự tưới sử dụng bơm nước ngầm,  
Hình 1.1. Hình ảnh khô hạn các hồ chứa nhỏ ở Tây nguyên tháng 3/2016  
Trong những năm gần đây (từ năm 2012 đến thôn) tính đến đầu tháng 6/2016, tổng diện tích  
trước tháng 7/2016), vào mùa khô do khí hậu cây công nghiệp, cây ăn quả bị ảnh hưởng do hạn  
ENSO hoạt động mạnh đã tác động xấu đến hán là 110.766ha, trong đó diện tích mất trắng là  
nguồn nước các tỉnh Tây Nguyên ảnh hưởng rất 7.586ha (trong đó có 496ha hồ tiêu bị chết cháy  
lớn đến sản xuất cuối vụ Đông Xuân, đầu vụ Hè tập trung chủ yếu tại Gia Lai 218ha, Đắk Lắk  
Thu và nước sinh hoạt của nhân dân. Theo Cục 277ha còn lại là cây cà phê bị mất 100% năng  
Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông suất cho niên vụ 2016/2017).  
Hình 1.2. Hồ tiêu khô héo, cà phê phải chặt bỏ vì hạn hán  
Trước tình hình cấp bách trên, nếu chúng ta có Lãnh thổ Tây Nguyên nằm trong phạm vi của  
một giải pháp để thu, trữ nước mặt đáp ứng cho nam dãy Trường Sơn gồm hệ thống núi, cao  
các vùng khan hiếm nước mà CTTL hiện tại nguyên với những thung lũng và đồng bằng  
chưa thể vươn thì sẽ có thể giảm thiểu các thiệt giữa núi. Nét nổi bật của địa hình Tây Nguyên  
hại do hạn hán xảy ra ở Tây Nguyên.  
là tính phân bậc rõ ràng, các bậc cao nằm về  
phía Đông, bậc thấp nằm về phía Tây, mạng  
sông suối tương đối phát triển. Quá trình xâm  
2. GIẢI PHÁP THU, TRỮ NƯỚC MẶT  
2.1. Cơ sở khoa học chính để đề xuất giải pháp  
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 51 - 2018  
2
KHOA HỌC  
CÔNG NGHỆ  
thực tại đây diễn ra mạnh mẽ tạo ra mạng lưới thẩm thấu vào lớp 1 đến bề mặt lớp do không  
đường chia nước (phân thủy) dày đặc tùy theo thấm được nên chảy theo theo bề mặt không  
hướng mà các đường chia nước này tạo nên thấm (bề mặt của lớp 2) và xuất lộ ra ở bề mặt  
những lưu vực nhỏ, quá trình vận chuyển vật của sườn đồi và ta thương gọi là mạch lộ.  
liệu của các dòng chảy này tạo ra các các dạng  
địa hình bồi tụ dọc theo các sông suối nhỏ có  
chiều rộng khoảng 15m đến 30.0m với cấu trúc  
địa chất (phần bồi tích) đặc trưng như sau [4]:  
Lớp 1: Thành phần chủ yếu là cát, cuội sỏi, cát  
pha, phân bố trong lòng và hai bên bờ suối.  
Chiều dày của lớp từ 1.0 đến 3.0m. hệ số thấm  
Hình 2.2: Cấu trúc địa chất đặc trưng của các  
của lớp từ 10 -3cm/s đến 10-2 cm/s.  
sườn đồi khu vực Tây Nguyên  
Lớp 2: Sét pha nhẹ -cát pha. Chiều dày từ 1.0  
đến 4.0m hệ số thấm khoảng 10-4cm/s  
Để lưu trữ nước lại trong lớp 1 chúng ta chỉ cần  
Lớp 3: Set pha, sét (edQ) là sản phẩm phong hóa  
dùng hào thu nước cắt ngang theo đường đồng  
từ đá gốc ( Bazan, Granit.....) Chiều dày của lớp  
mức với chân khay của tường hào đặt vào lớp  
này tương đối lớn có đôi chỗ đến 40.0m. Hệ số  
2. Sau đó tùy theo mục đích cụ thể (giữ nước để  
thấm của lớp từ 10-5 cm/s đến 10-6 cm/s  
dùng mùa kiệt, hoặt thoát nước để chống trượt  
cho các mái ta luy) để thiết kế hệ thống thu nước  
cho hợp lý.  
Các hệ thống sông lớn Sêsan, Srêpôk (đổ về  
sông Mê Kông), sông Ba (đổ về Tuy Hoà, Phú  
Yên) và sông Đồng Nai (đổ về Đồng Nai),  
Hình 2.1: Mặt cắt địa chất đặc trưng của các  
thung lũng sông suối khu vực Tây Nguyên  
ngoài ra còn có một hệ thống sông suối nhỏ đổ  
xuống vùng Duyên hải Nam Trung Bộ đã cung  
Các đặc trưng địa chất địa hình nêu trên rất  
cấp cho Tây Nguyên một lượng nước là 53,7  
thuận lợi cho việc bố trí xây dựng các hệ thống  
km3/năm. Trung bình hàng năm là 972.000  
đập ngầm. Chân khay của đập ngầm được đặt  
m3/km2. Mạng lưới sông suối dày đặc với mật  
vào lớp 3, các lớp 1, 2 trở thành các đới chứa  
độ sông suối trung bình vào khoảng 0,6 km đến  
nước.  
1,2 km/km2. Với mô đun dòng ngầm về mùa  
Sườn đồi khu vực Tây Nguyên thường được cấu kiệt được phân vùng như sau [4]:  
tạo nên bởi sản phẩm phong hóa các thành tạo  
- Vùng I. Có nguồn nước ngầm khá dồi dào, có  
Mác Ma (Bazan, granit....) và có cấu trúc đặc  
môđun kiệt tuyệt đối từ 4 đến 10 l/s.km2. Sự dồi  
trưng như sau [5]:  
dào của dòng chảy kiệt ở vùng này được tạo nên  
- Lớp 1: Sét pha lẫn dăm mảnh màu nâu đỏ, nâu do đặc điểm ưu việt của đất đai. Toàn vùng đều  
vàng kết cấu rời rạc, đất thường có độ lỗ rỗng có đồng nhất một loại đất feralit phát triển trên  
n=60-70%, Hệ số thấm k = 10-4 m/s  
đá bazan có tầng phong hóa dày, khả năng thấm  
nước lớn. Đất có dộ dốc nhỏ, đại bộ phận là đồi.  
Toàn bộ vùng này nằm trùng với khối bazan  
Buôn Ma Thuột và Pleiku có thể là những vùng  
núi cao có rừng, thảm phủ dày cũng thuộc loại  
này. Trên vùng đất bazan này các nhân tố khác  
- Lớp 2: Sét màu nâu đỏ đốm xám xanh trạng  
thái dẻo cứng, nửa cứng đất thường có độ lỗ  
rỗng n=40-50%, Hệ số thấm k = 10-6 m/s,  
Với cấu trúc đặc trưng như trên thì nước mưa  
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 51 - 2018  
3
KHOA HỌC  
CÔNG NGHỆ  
cùng phối hợp tác động, trong đó độ sâu chia dụng làm sinh hoạt có chất lượng ổn định còn  
cắt của lòng sông là yếu tố quan trọng.  
giữ được độ ẩm cho đất tránh làm khô cằn hóa  
diện tích canh tác cũng như hạn chế bốc hơi mặt  
thoáng.  
- Vùng II có dòng kiệt trung bình M=1 -  
4l/s.km2. Đất đai gồm nhiều loại tổng hợp và có  
chiều dày trung bình, không thấy có sự khác  
nhau nhiều về độ chia cắt của lòng sông. Vai trò  
của địa hình ở đây có vẻ tích cực hơn. Ở vùng  
núi lòng sông đào sâu vào lòng đất, đầu nguồn  
che phủ tốt. Môđun kiệt là 2,5 đến 4,0l/s.km2.  
- Vùng III là vùng kiệt nhất có mô đun kiệt nhỏ  
hơn hoặc bằng 1 l/s.km2. Ở đây đất đai hầu như  
đã thoái hóa bị bóc mòn đến đá gốc hoặc tầng  
đất mặt mỏng, trên mặt có đá lộ đầu, khả năng  
giữ nước không có mấy. Cây cối cằn cỗi, lượng  
mưa dưới 1600m. Nhân tố độc nhất có khả năng  
gây nên sự phân hóa trong vùng là thảm phủ. Ở  
những vùng có thảm phủ khá môđun kiệt có  
nhiều hơn chút ít.  
Hình 2.3: Mô phỏng hệ thống các đập ngầm  
trên suối  
2.2. Giải pháp thu nước  
Hình 2.4: Sơ đồ bố trí công trình Đập ngầm  
trên suối  
2.2.1. Đập ngầm  
Là một dạng đầu mối của công trình thu nước  
bề mặt tầng nông với một số nguyên lý về kết  
cấu và giải pháp xây dựng như sau [1], [2]:  
2.2.2. Hào thu nước mái đồi  
Nước ngầm tầng nông tồn tại trong các đới đá  
phong hóa mãnh liệt, nõn phóng vật hoặc trong  
đới tiếp giáp giữa tầng phong hóa và tầng phủ  
phía trên. Lưu lượng của tầng này thường nhỏ  
và phân bố rộng trên các sườn đồi và chỉ xuất lộ  
ra ngoài tại các vị trí thuận lợi, chất lượng nước  
tương đối ổn định, ít chịu ảnh hưởng của nước  
mặt, nước mưa. Để tận dụng triệt để nguồn nước  
này phải xây dựng một hệ thống hào cắt ngang  
tầng chứa nước này nhằm gom nước về một vị  
trí tập trung để tăng lưu lượng cấp, phục vụ khai  
thác sử dụng. Ngoài ra, các hào thu nước bố trí  
trên sườn đồi còn có tác dụng tăng thêm lưu  
lượng của dòng ngầm thông qua quá trình thẩm  
thấu nước dòng mặt vào lớp đất tầng phủ, đảm  
bảo duy trì nguồn nước cấp vào mùa khô hạn [1],  
[2], [3].  
- Tạo ra một tường chắn cắt qua tầng bồi tích  
bở rời chứa nước (cuội sỏi, cát, cát pha sét pha  
nhẹ), nước dưới đất sẽ bị chặn và giữ lại trong  
tầng bồi tích vào mùa khô kiệt nước và từ đó  
cấp ngược lại cho các tầng nước dưới đất ở các  
vùng ven sông suối. Khai thác nước ở trong các  
tầng chứa nước đó với các giải pháp như giếng  
đào, giếng khoan, ống thu dẫn… để phục vụ  
cho sản xuất, sinh hoạt.  
- Đập ngầm nằm thấp, sát mặt đáy sông suối  
nên sẽ không làm biến đổi hiện trạng tự nhiên  
của dòng chảy, cũng như không chịu ảnh hưởng  
của các hoạt động địa chất động lực như lũ, bùn,  
đá, lũ quét, sạt trượt.. và chất lượng nước ổn  
định không chịu ảnh hưởng của phù sa, bùn đất  
vào mùa lũ do có tầng lọc tự nhiên là cát cuội  
sỏi.  
Hào thu nước bao gồm các hệ thống hào gom  
nước từ mạch lộ và các tường chắn nước tại các  
khe tụ thủy. Hệ thống này ngoài việc tích trữ  
- Nước tồn tại trong đất ngoài mục đích sử  
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 51 - 2018  
4
KHOA HỌC  
CÔNG NGHỆ  
nước lại trong các bể ngầm còn làm chậm chảy đạt tiêu chuẩn nước hợp vệ sinh theo QCVN 02-  
dòng mặt, làm giảm được hiện tượng xói lở dọc BYT.  
các khe tụ thủy.....  
Thi công đơn giản, vật liệu dễ cung cấp, người  
dân địa phương có thể tự thi công được  
Áp dụng phù hợp với điều kiện địa phương và  
tập quán sinh sống của dân cư khu vực miền  
núi, vùng sâu vùng xa. Đặc biệt là hạn chế công  
duy tu bảo dưỡng. (Hệ thống cửa lấy nước và  
lọc nước của các công trình xây dựng trước đây  
được xây dựng theo nguyên lý động lực nên  
nước thường bị đục vào mùa mưa, cửa lấy nước,  
hệ thống bể lọc phải định kỳ thường xuyên bảo  
dưỡng - việc này khó thực hiện ở vùng miền  
núi).  
2.2.4. Khả năng ứng dụng công nghệ thu, trữ  
nước mặt trên địa bàn Tây Nguyên  
Hình 2.5: Sơ họa mô hình hệ thống Hào thu  
Như vậy với mạng lưới sông suối tương đối  
dày, Môđun kiệt nhỏ nhất vào khoảng 1l/s.km2  
nước mái đồi  
thì việc áp dụng công nghệ đập ngầm và hào  
thu nước mái đồi vào địa bàn Tây Nguyên để  
thu nước là rất khả thi. Đập ngầm và hào thu  
nước mái đồi là các giải pháp khoa học công  
nghệ có tính năng lưu giữ nước lại trong đất  
làm chậm chảy dòng mặt, giảm thiểu lượng  
bốc hơi phù hợp với điều kiện tự nhiên của Tây  
Nguyên, bởi các yếu tố như: địa chất, địa chất  
thủy văn và thủy văn,... Vì vậy đây chính là  
giải pháp thu nước phù hợp để giải quyết tình  
trạng thiếu nước vào mùa khô, phục vụ sản  
xuất nông nghiệp cho khu vực Tây Nguyên.  
2.2.3. Một số ưu điểm của đập ngầm và hào  
thu nước mái đồi [1]:  
Cho phép đảm bảo tính ổn định và bền vững của  
công trình trước các tác động tự nhiên: do chôn  
ngầm nên công trình không bị dòng chảy lũ phá  
hoại, hoặc xuống cấp do bị bồi lấp; cửa lấy nước  
cũng như hệ thống lọc không bị ảnh hưởng bởi  
cây rác và bùn cát, cuội sỏi vào mùa lũ nên  
không bị lấp tắc như các công trình hiện có.  
Đảm bảo nguồn cấp nước ổn định trong các  
mùa: hiện nay do tình hình biến đổi khí hậu  
cùng với tác động xã hội đã làm chế độ dòng  
chảy thay đổi, vào mùa khô dòng chảy mặt bị  
cạn kiệt dẫn đến cửa lấy nước bị tê liệt; giải  
pháp đã tận thu dòng chảy ngầm của lưu vực  
làm nguồn nước cấp cho công trình hoạt động.  
Ngoài ra, với hệ thống thu gom, chặn giữ nước  
trên các sườn dốc, khe tụ thủy nên đã cho phép  
xây dựng công trình cấp nước ngay cả ở những  
nơi không có dòng chảy mặt quanh năm.  
2.3. Giải pháp lưu trữ nước  
Lưu trữ nước trên vùng đồi có nhiều giải pháp,  
hiện nay ở Việt Nam đang nghiên cứu và áp  
dụng những giải pháp sau [1]:  
2.3.1. Công trình trữ nước mặt quy mô nhỏ  
Bể chứa gạch xây: bể được thiết kế thành đứng,  
giữa bể có vách ngăn, đáy bể hình lòng thuyền  
với độ sâu của tim đáy so với mép đáy bể 30-50  
cm. Phía dưới vách ngăn có để lỗ thông nước  
kích thước 40 x 60 cm. Ống lấy nước ra được  
đặt cách đáy bể 20 cm. Toàn bộ phần thành và  
phần đáy bể được thiết kế vật liệu là gạch xây  
Đảm bảo ổn định về chất chất lượng nước: do  
nước lấy từ tầng nước chảy ngầm nên nước luôn  
trong vắt ngay cả trong mùa lũ, nước cấp luôn  
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 51 - 2018  
5
KHOA HỌC  
CÔNG NGHỆ  
M100, trát dày 2 cm M75 có đánh bóng chống  
thấm bằng hồ xi măng.  
nhiên được làm sạch sẽ bảo đảm vệ sinh cho  
nước khi tràn mái xuống đến bể. Trước khi vào  
bể nước được qua hệ thống lọc cấp phối thô  
dạng rãnh hay tường.  
Bể xi măng vỏ mỏng: vật liệu xi măng vỏ mỏng  
đã được nghiên cứu áp dụng ở rất nhiều lĩnh vực  
xây dựng trên thế giới. Bể được thiết kế hình  
lòng thuyền hai thành là mái nghiêng (phần mái  
nghiêng 500). Toàn bộ bể được trát lớp vữa xi  
măng cát vàng M100 trong đặt một lớp lưới  
thép chịu lực, phía ngoài đánh bóng chống thấm  
bằng hồ xi măng PC 40. Bốn mép bể được đắp  
một lớp vữa dày 10 cm, rộng 15 cm và đặt một  
thanh sắt 6. Trên mặt bể có đặt ống xả nước  
thừa và ống lấy nước tưới được đặt sát đáy bể.  
- Hệ thống phục vụ cấp nước từ bể: tại bể có  
bố trí các bậc thang xuống bể để người dân  
lên xuống lấy nước và thau rửa bể. Để tạo  
điều kiện thuận lợi cho lấy nước và giữ vệ  
sinh, có thể bố trí hệ thống bơm tay hút nước  
trực tiếp từ bể hay giếng thông với bể. Nếu  
có điều kiện có thể làm đường ống dẫn cấp  
nước đến hộ dùng nước. Phương pháp này  
cần bố trí thêm một bể lọc tinh sau bể trữ.  
Loại hồ chứa vải địa kỹ thuật này có ưu điểm là  
diện tích thu hứng nước rộng, đơn giản, dễ thi  
công, tận dụng được nhiều vật liệu địa phương  
nên giá thành rẻ. Nhược điểm của loại hồ chứa  
này là bề mặt rộng dẫn đến bốc hơi lớn, nước  
trong bể mới được lọc thô, đòi hỏi am hiểu về  
vải địa kỹ thuật. Theo đánh giá thì hiệu quả sử  
dụng hồ chứa vải địa kỹ thuật thấp do một số  
nguyên nhân sau:  
Bể bằng bê tông cốt thép: có dạng hình trụ, hình  
hộp hoặc các dạng khác bằng bê tông cốt thép  
đặt ngầm, đặt trên mặt đất hoặc đặt nửa nổi nửa  
chìm. Toàn bộ bể được làm bằng bê tông cốt  
thép, trong lòng bể được đánh bóng chống thấm  
bằng hồ xi măng PC40. Trên mặt bể có đặt ống  
xả nước thừa và ống lấy nước tưới được đặt sát  
đáy bể.  
- Hồ được xây dựng ở vị trí thấp nên mùa mưa  
là nơi tập trung bùn cát, rác… chảy vào do vậy  
phải thường xuyên nạo vét.  
- Ý thức quản lý, bảo quản, duy tu hàng năm  
của chính quyền và người dân địa phương còn  
kém nên sau một số năm, một số hạng mục  
công trình bị hư hỏng như hàng rào bảo vệ, rọ  
đá xung quanh hồ, lớp vải lọc… Hàng năm  
lòng hồ không được nạo vét, vệ sinh nên nước  
trong hồ rất bẩn, không đảm bảo dùng cho sinh  
hoạt.  
Hình 2.6: Bể chứa bê tông cốt thép  
2.3.2. Công trình trữ nước mặt quy mô quy mô  
vừa  
- Do điều kiện địa hình, địa chất, một số hồ  
được xây dựng xa khu dân cư tập trung, lượng  
dân cư được phục vụ ít nên hiệu quả khai thác  
sử dụng thấp. Mặt khác tuy dung tích lớn song  
không đủ trữ lượng để lắp hệ thống ống và bơm  
dẫn nước tới từng hộ gia đình.  
Hồ chứa vải địa kỹ thuật: là loại hình mới được  
đưa vào đầu tư xây dựng trong những năm gần  
đây. Thường một công trình hồ chứa vải địa kỹ  
thuật gồm 3 hạng mục sau:  
- Bể chứa: lợi dụng các chỗ trũng (có thể là bể  
hốc đá lớn) tạo bể sau đó trải lót vải chống thấm  
tạo thành bể chứa nước.  
- Hệ thống thu nước từ mái sườn dốc: mái tự  
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 51 - 2018  
6
KHOA HỌC  
CÔNG NGHỆ  
những vùng địa hình khó khăn, địa chất nền  
không ổn định; thay thế cho công nghệ cấp  
nước bằng hồ treo vách núi (bằng cách lắp đặt  
nhiều túi có thể tích lớn); khắc phục cho những  
bể trong công trình cấp nước tập trung bị nứt,  
rò rỉ nước.  
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, công nghệ  
này còn một số nhược điểm như: chiều cao bể  
thấp, hạn chế áp lực trong cấp nước tự chảy  
(khắc phục bằng cách bố trí bể ở vị trí cao); cần  
diện tích mặt bằng lớn để xây dựng.  
Hình 2.7 Hồ chứa nước bằng HDPE  
Công nghệ túi nhựa dẻo: là bể kín nên lượng  
nước trong bể không bị mất đi do bốc hơi,  
không bị ô nhiễm do phơi nhiễm. Vận hành đơn  
giản, thau rửa dễ dàng, nếu cần dễ dàng di  
chuyển sang vị trí khác (Bồn có thể gập đi gập  
lại 70 lần), khối lượng nhẹ (bồn 10m3 có khối  
lượng 70 kg), vận chuyển rất dễ dàng, phù hợp  
với vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa có địa  
hình hiểm trở. Công tác thi công, lắp đặt đơn  
giản, tốn ít thời gian. Túi nhựa dẻo có rất nhiều  
kích cỡ, dung tích có thể từ 5-2.000 m3, đáp ứng  
với từng loại hình, quy mô cấp nước khác nhau.  
Có thể tận dụng các vùng đất trống, mái nhà mái  
bằng… để lắp đặt bể. Độ bền cao và chịu áp lực  
45 kg/1 cm2, có thể chịu được nhiệt độ từ -30  
đến 700C. Tuổi thọ của bể được 40 năm và nhà  
sản xuất bảo hành 10 năm.  
3. KẾT LUẬN  
Tình hình hạn hán trên địa bàn Tây Nguyên  
ngày càng khốc liệt và gây ra những hậu quả to  
lớn cho sản xuất nông nghiệp trong những năm  
vừa qua. Tình trạng khai thác nguồn nước chưa  
hợp lý và điều tiết nước trên các lưu vực chưa  
triệt để dẫn đến thiếu nước trầm trọng vào mùa  
khô ở Tây Nguyên. Bên cạnh đó do địa hình bị  
chia cắt, các khu vực sản xuất nông nghiệp bị  
phân tán nên việc đầu tư xây dựng các hệ thống  
thuỷ lợi truyền thống gặp nhiều khó khăn và tốn  
kém.  
Phát triển công nghệ thủy lợi nhỏ bằng việc ứng  
dụng các công nghệ thu trữ nước mặt sẽ là một  
hướng nghiên cứu ứng dụng cần được nhân  
rộng trên địa bàn Tây Nguyên vì nó mang lại  
những hiệu ích như sau:  
- Điều kiện tự nhiên phù hợp để ứng dụng các  
công nghệ.  
- Đáp ứng nhu cầu dùng nước phục vụ sản xuất  
nông nghiệp cho những vùng ngoài khu tưới  
của công trình thủy lợi và thường xuyên bị thiếu  
nước là rất lớn.  
- Giá thành rẻ, thi công nhanh và đơn giản, sử  
dụng các vật liệu địa phương nhiều.  
Hình 2.8 Túi nhựa dẻo  
- Phù hợp chính sách xã hội hoá đang được phổ  
biến và nhân rộng trong việc đầu tư xây dựng  
các công trình.  
Với tính chất linh hoạt, gọn nhẹ, công nghệ này  
có khả năng áp dụng thay thế bể chứa nước sạch  
bằng bê tông trong hệ thống cấp nước cho  
Với đặc điểm điều kiện tự nhiên tương đối phù  
hợp, việc ứng dụng các công nghệ này để tạo  
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 51 - 2018  
7
KHOA HỌC  
CÔNG NGHỆ  
nguồn cấp nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, thiết cần được ứng dụng và nhân rộng vào thực  
ứng phó hạn hạn là một giải pháp đúng đắn, cần tế cho khu vực Tây Nguyên.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
[1] Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam (2012), Đề tài nghiên cứu đề xuất các giải pháp nâng cao  
năng lực hồ chứa vừa và nhỏ đáp ứng nhu cầu cấp nước cho sản xuất, sinh hoạt và phát triển  
bền vững tài nguyên nước vùng Tây Nguyên.  
[2] Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam (2012), Đề tài nghiên cứu ứng dụng giải pháp cấp nước  
hữu hiệu phục vụ sinh hoạt kết hợp sản xuất vùng di dân tái định cư hai huyện Phong Thổ  
và Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu.  
[3] Trường Đại học thủy lợi (2012), Đề tài nghiên cứu xây dựng đập dưới đất để trữ nước ngầm  
nhằm phát triển bền vững tài nguyên nước ở các khu vực thường xuyên bị hạn, các vùng ven  
biển và hải đảo.  
[4] Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Trung (2014), Chuyên khảo nước  
dưới đất Tây Nguyên.  
[5] Viện Quy hoạch Thủy lợi (2014), Quy hoạch tổng thể thủy lợi vùng Tây Nguyên  
[6] Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng thể Thủy lợi Tây Nguyên 2015.  
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 51 - 2018  
8
pdf 8 trang Hứa Trọng Đạt 09/01/2024 660
Bạn đang xem tài liệu "Giải pháp công trình thủy lợi nhỏ về thu trữ nước nhằm ứng phó hạn hạn cho nông nghiệp khu vực Tây Nguyên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfgiai_phap_cong_trinh_thuy_loi_nho_ve_thu_tru_nuoc_nham_ung_p.pdf