Giai thoại – Đặc điểm và bản chất thể loại
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN
Soá 20 - Thaùng 4/2014
GIAI THOẠI – ĐẶC ĐIỂM VÀ BẢN CHẤT THỂ LOẠI
NGUYỄN VĂN THƯƠNG (*)
TÓM TẮT
Giai thoại là một thể loại thuộc loại hình tự sự dân gian. Mặc dù đã có nhiều công
trình nghiên cứu nhưng đến nay, hầu như các nhà nghiên cứu chưa có sự nhất trí cao về
đặc điểm thể loại này. Bài viết này tập trung vào những giác độ cơ bản nhất về lí thuyết
thể loại.
Từ khoá: bản chất thể toại, tự sự dân gian, giai thoại
ABSTRACT
Anecdote is a kind of folk forms of narrative. Although there have been many studies,
but until now, most researchers have not got consensus yet on the characteristics of this
genre. This article focuses on the most basic aspects of category theory.
Keywords: nature, genre, folk narratives, anecdotes
Xung quanh vấn đề lí thuyết thể loại
giai thoại, có thể hình dung một số khía
cạnh cơ bản như khái niệm, phân loại, các
bình diện thi pháp… Những đặc điểm, khía
cạnh ấy phần nào đã được bóc tách, tìm
hiểu qua một số công trình nghiên cứu, sưu
tầm về giai thoại. Ở đây, chúng tôi chỉ đi
sâu vào các yếu tố cơ bản là khái niệm,
phân loại thể loại.
dung một cách bao quát, chúng tôi xin
điểm qua một số ý kiến tiêu biểu nhất.
1.1. Quan niệm của các nhà nghiên cứu
thế giới
Do giới hạn về mặt tư liệu, chúng tôi
xin được phép dừng lại ở một số quan niệm
của các nhà nghiên cứu folklore Nga, một
trong những nền học thuật ảnh hưởng rõ rệt
nhất đến folklore Việt Nam.
V. Ja Propp có lẽ là người đầu tiên chú
ý đến thể loại giai thoại cùng đặc điểm của
nó. Trong công trình Folklore và thực tại, ở
phần Cơ cấu thành phần thể loại, khi bàn
về cổ tích sinh hoạt, học giả uyên bác
người Nga xem giai thoại như một tiểu loại
của cổ tích sinh hoạt: “Nói về cổ tích sinh
hoạt hay truyện cổ tích hiện thực, cần phải
đề cập tới vấn đề giai thoại (…). Theo ý
chúng tôi, nó không phải là một loại hình
riêng của sáng tác dân gian, khác biệt với
loại truyện cổ tích đoản thiên về con người
(…). Nghiên cứu kĩ càng hơn nữa những
truyện cổ tích sinh hoạt về con người, thì
có thể khẳng định được rằng trong folklore
không có ranh giới giữa truyện cổ tích sinh
1. GIAI THOẠI LÀ GÌ? *
Khái niệm thể loại luôn là điều kiện
tiên quyết cho việc nghiên cứu một cách
hoàn chỉnh, hệ thống thi pháp thể loại. Tuy
nhiên, trong khoa học, việc tồn tại nhiều
cách hiểu khác nhau về cùng một thuật ngữ
nào đó không phải là câu chuyện quá mới
mẻ. Trường hợp thể loại giai thoại cũng
nằm trong huống trạng tương tự. Xoay
quanh khái niệm này, đã có rất nhiều ý
kiến, quan niệm khác nhau, từ các nhà
nghiên cứu trong nước cho đến các nhà
nghiên cứu trên thế giới. Để có sự hình
(*) ThS, Trường THPT Phạm Văn Sáng, Hóc Môn,
TP. Hồ Chí Minh.
84
hoạt về con người và truyện giai thoại. Có
chăng thì cũng chỉ có thể xếp giai thoại
thành một tiểu loại riêng trong truyện cổ
tích sinh hoạt” [9, tr.325].
hay điểm khác, song các học giả vẫn xem
giai thoại như một thể loại thuộc văn học
dân gian. Propp căn cứ vào tính hiện thực,
phản ánh những vấn đề có liên quan một
cách gần gũi đến cuộc sống thường nhật
của nhân dân và xem giai thoại như một
tiểu loại của cổ tích sinh hoạt. Trong khi
các nhà nghiên cứu khác như Guxep,
Gipkop, Davlevtop xem giai thoại như một
thể loại độc lập và đặc biêt chú ý ở tính
chất trào phúng hay hài hước. Đó là những
giềng mối cơ bản làm nảy sinh sự khác biệt
trong quan niệm về thể loại này.
Song, chúng tôi không nghĩ rằng lí
thuyết thể loại hay hẹp hơn là phân loại
folklore của dân tộc này sẽ đảm bảo được
tính khả thi khi áp dụng cho môi trường
folklore của dân tộc khác. Điều này cũng
đã được Propp lưu ý khá rõ: “Cơ cấu thành
phần thể loại được xác lập đối với folklore
một dân tộc lại không thể máy móc đem áp
dụng cho folklore một dân tộc khác” [9,
tr.310]. Chỉ có nguyên tắc phân loại là phổ
quát trong khi tư liệu phân loại vốn mang
tính độc lập, là tài sản riêng của từng dân
tộc. Do đó, những ý kiến trên, chỉ có thể
hữu ích khi và chỉ khi đem soi sáng vào
mảng giai thoại đảm bảo được tiêu chí trào
phúng, tức giai thoại hài. Trong khi, theo
quan niệm của các nhà nghiên cứu ở nước
ta, đó chỉ là một bộ phận của giai thoại.
Chúng ta có thể tìm được lời lí giải cho
những khác biệt trên qua lăng kính văn hóa
Đông – Tây. Nếu ở phương Tây, giai thoại
là những mẩu chuyện thiên về trào phúng,
hài hước để đề cao tư duy duy lí; thì ở
phương Đông, nội hàm đó có thể mở rộng
sang cả những câu chuyện hết sức nghiêm
túc về các nhân vật nổi tiếng được khúc xạ
qua tình cảm yêu mến, ngưỡng mộ vô tận
của cộng đồng – tức tư duy duy cảm. Đó
không chỉ là những câu chuyện dí dỏm, vui
Cùng quan điểm với V. Ja Propp,
Guxep cũng xem giai thoại như một thể
loại văn học dân gian, nhưng ông tách hẳn
nó ra khỏi cổ tích sinh hoạt và đ nh nghĩa
như sau: “Chúng tôi tách giai thoại ra khỏi
cổ tích sinh hoạt và cổ tích trào phúng
(loại này dĩ nhiên có thể mang những yếu
tố giai thoại), vì nó có một số đặc điểm cho
phép nó như một thể loại độc lập. Chúng
tôi gọi là giai thoại tác phẩm tự sự trào
phúng hoặc hài hước, được xây dựng trên
một tình tiết có sự tăng tiến đến điểm cao,
biểu hiện rệt và kết thúc bất ngờ” [2,
tr.233]. Như vậy, nguyên nhân khiến
Guxep tách giai thoại ra khỏi cổ tích là tính
trào phúng và hài hước của nó. Soi chiếu
đ nh nghĩa ấy vào tình hình giai thoại Việt
Nam, có thể thấy, tác giả thiên về giai
thoại trào phúng, hài hước với tính cách
tiểu loại hơn là bản thân thể loại giai thoại
trong hình hài của một thể loại độc lập.
Bên cạnh đó, một số nhà nghiên cứu
Nga khác cũng trình bày chính kiến về thể
loại này. Nhìn chung, các ý kiến vẫn thiên
về tính hài, trào phúng. Gipkop cho rằng:
“Giai thoại là một truyện kể ngắn gọn và
bất ngờ, là một sản phẩm chân chính của
các nhà trào phúng” (Những giai thoại về
Khotgia) [8, tr.16]. Davlevtop cũng khẳng
định: “Cái gì đã tạo ra bản chất của giai
thoại, của các hình thức quan trọng và phổ
biến nhất? Cũng dễ quan niệm rằng bản
chất đó dẫn đến sự biểu thị có tính hài
hước của một cái mâu thuẫn duy nhất
trong cuộc sống. Trong giai thoại, không
có cái gì ngoài cái đó” (Sáng tác dân gian,
một loại hình nghệ thuật) [8, tr.16].
Như vậy, dù có khác nhau về điểm này
85
tươi mà còn là những câu chuyện đẹp. Do
đó, giai thoại Việt Nam nói riêng và giai
thoại phương Đông nói chung, ngoài tính
hài còn mang cả tính nghiêm trang, cẩn
trọng, hay thậm chí là những câu chuyện
nhuốm màu bi ai. Nói như Vũ Ngọc
Khánh, đối với người phương Đông, giai
thoại “là cuốn sổ biên niên của cuộc sống,
là người bạn thường xuyên của con người
và của các sự kiện lịch sử xã hội” [8, 10].
1.2. Quan niệm của các nhà nghiên cứu
Việt Nam
Như chúng đã biết, công trình sưu tầm
có đề cập đến thuật ngữ giai thoại đầu tiên
ở Việt Nam là Giai thoại văn học Việt
Nam(4). Trong công trình này, ở phần mở
đầu, tác giả Trần Thanh Mại cho rằng:
“Thoại có nhiều nghĩa nhưng trong trường
hợp chúng ta xét đây, thì thoại là một
truyện kể ngắn gọn, nhẹ nhàng, nói chung
chỉ gồm những sự việc diễn biến với một
vài tình tiết đơn giản. Giai thoại là một
truyện kể nhỏ mà hay, lí thú, có khả năng
gây cười cho người nghe, người đọc một
cảm giác vui thích thoải mái một cảm giác
sảng khoái nhẹ nhàng” [4, tr.9].
bác học, gắn với sinh hoạt văn học thành
văn, nhưng lại tồn tại dưới dạng truyền
miệng, tức là dạng thức tồn tại của các
truyện kể dân gian” [10, tr.519].
Cách hiểu trên diễn giải theo lối chiết
tự và chú ý đối tượng ở hai tính chất: tính
ngắn gọn và tính lí thú. Ở đây, có vẻ không
khó khăn trong việc xác đ nh mâu thuẫn
trong cách nhìn nhận và lập luận. Khi
khẳng đ nh “giai thoại là một thể loại
chuyện kể truyền miệng”, “dạng thức tồn
tại của các truyện kể dân gian”, tức là
không thể không đồng ý rằng giai thoại
thuộc văn học dân gian. Nhưng đến một
chỗ khác, tác giả lại tự phản bác chính điều
vừa xác nhận khi cho rằng: “Nó (tức giai
thoại – NVT) thuộc về văn chương bác học,
gắn với sinh hoạt văn học thành văn”. Như
vậy, về chất, ý kiến này vẫn chưa thể đi xa
hơn điều mà Trần Thanh Mại đã từng
khẳng đ nh. Sự khác biệt duy nhất, có lẽ
nằm ở hình thức diễn đạt. Và một điểm
nữa, khiến chúng ta cảm thấy băn khoăn,
khi tác giả vẫn chưa thể chắc chắn rằng
giai thoại thuộc lĩnh vực nào, bác học hay
bình dân.
Tác giả Lại Nguyên Ân cũng có cách
hiểu tương tự. Trong công trình Từ điển
Văn học (Nxb Thế giới phát hành năm
2004), ở mục giai thoại, tác giả đ nh nghĩa
giai thoại như sau: “Một thể loại chuyện kể
truyền miệng, lưu truyền chủ yếu trong giới
nhà văn và lớp công chúng ưa thích thơ
văn, nhất là những người có hiểu biết Hán
học và văn chương chữ Hán. Thuật ngữ
giai thoại được mượn từ Trung Hoa (thoại:
truyện kể; giai: hay, đẹp, thú vị). Mỗi giai
thoại là một truyện kể ngắn gọn, lí thú,
xoay quanh những nhân vật có thực,
thường là những danh nhân (…). Tuy vậy
giai thoại vẫn mang tính độc lập như một
thể loại độc đáo; nó thuộc về văn chương
Sau đây, là những ý kiến cho rằng giai
thoại là một thể loại độc lập của văn học
dân gian.
Về khái niệm giai thoại, nhà nghiên
cứu Vũ Ngọc Khánh cho rằng: “Thuật ngữ
này là dùng theo ngôn ngữ Trung Quốc, có
nghĩa là câu chuyện đẹp. Câu chuyện -
thoại - là một chuyện! Chuyện thì có chuyện
dài, chuyện ngắn, chuyện giàu hoặc ít tình
tiết lại và chủ yếu được kể bằng lời. Chúng
ta đã quan niệm giai thoại là tương đương
với thuật ngữ anecdote của phương Tây.
Anecdote không phải là câu chuyện, mà là
mẩu chuyện. Mẩu chuyện này bao giờ cũng
ngắn, có khi rất ngắn”[8, tr.9 - 10]. Theo
cách hiểu của Vũ Ngọc Khánh, rõ ràng,
86
không thể áp dụng thuật ngữ anecdote của
phương Tây vào tình hình thể loại ở nước
ta. Nói cách khác, không thể xem dung
lượng như một tiêu chí xác đáng để xác
đ nh thể loại.
dù còn chưa thống nhất ở một số điểm
nhưng nhìn chung, giới nghiên cứu nước ta
đều xem giai thoại như một thể loại độc lập
của văn học dân gian.
Tóm lại, theo cách hiểu trên tinh thần
kế thừa những nhà nghiên cứu đi trước,
chúng tôi quan niệm về giai thoại như sau:
Giai thoại là một thể loại tự sự dân gian, là
cầu nối giữa lịch sử và truyền thuyết; nội
dung xoay quanh những vấn đề có liên
quan đến các nhân vật nổi tiếng trong cộng
đồng, chủ yếu dưới giác độ riêng tư, cá
nhân; có hình thức đa phần ngắn gọn; sử
dụng ít nhiều yếu tố hư cấu, tưởng tượng;
ngôn ngữ giàu tính trí tuệ, uyên bác; phần
lớn được chuyển tải bằng giọng điệu hóm
hỉnh, hài hước.
Gần đây nhất, công trình biên soạn
công phu về thể loại giai thoại là quyển
(6)
Giai thoại văn học Việt Nam
(Tập 11,
Tổng tập văn học dân gian người Việt) do
Kiều Thu Hoạch chủ biên. Ở phần Khải
luận, tác giả đưa ra cách hiểu về thuật ngữ
giai thoại như sau: “Giai thoại vốn là một
thuật ngữ gốc Hán. Giai có nghĩa là hay,
đẹp, thoại là câu chuyện kể. Như vậy giai
thoại là câu chuyện kể hay, đẹp, mà lâu
nay giới nghiên cứu vẫn coi thuật ngữ này
tương đương với anecdote của phương
Tây” [6, tr.23].
2. ĐẶC ĐIỂM, BẢN CHẤT VÀ VẤN ĐỀ
PHÂN LOẠI GIAI THOẠI
Tóm lại, cách hiểu thuật ngữ giai thoại
trong giới nghiên cứu nước ta gần như tách
thành hai nhánh đối lập. Trong khi các nhà
nghiên cứu văn học dân gian (như Vũ
Ngọc Khánh, Kiều Thu Hoạch,…) đều cho
rằng giai thoại là thể loại văn học dân gian;
thì các nhà nghiên cứu không thuộc lĩnh
vực folklore có nhận đ nh ngược lại. Phải
chăng, nguyên nhân sâu xa nhất làm nới
rộng thêm hố sâu ngăn cách giữa họ không
nằm ở phương pháp nghiên cứu, tiếp cận
vấn đề? Và trong cách hiểu xem giai thoại
như một thể loại văn học dân gian, các ý
kiến vẫn chưa có sự thống nhất cao ở một
số đặc điểm thuộc về nội hàm thuật ngữ.
Chẳng hạn như một số ý kiến xem giai
thoại tương đương với thuật ngữ anecdote
của phương Tây và xem sự ngắn gọn là đặc
trưng tất yếu về hình thức. Trong khi đó,
Vũ Ngọc Khánh căn cứ vào thực tế sinh
hoạt folklore để phủ đ nh điều đó và đề
ngh mở rộng nội hàm sang cả những giai
thoại có dung lượng lớn.
2.1. Đặc điểm và bản chất thể loại
giai thoại
Về đặc điểm giai thoại, Trần Thanh
Mại cho rằng: giai thoại là “một loại văn
chương bác học mà lại truyền miệng” [4,
tr.9]. Như vậy, theo cách nhìn nhận của tác
giả, giai thoại nói chung (hay giai thoại văn
học nói riêng) là một thể loại văn học viết.
Bởi lẽ: “Giai thoại văn học là một thể loại
văn học truyền miệng, nhưng trừ một số cá
biệt nói chung thì giai thoại văn học không
thuộc phạm vi văn học dân gian” [22, tr.9].
Ở một chỗ khác, tác giả viết: “giai thoại
văn học chủ yếu là truyện của những người
có điều kiện biết đọc, biết viết, biết thưởng
thức thơ văn chữ Hán và chữ Nôm”
[15, tr.9]. Và như thế, có thể thấy rằng, yếu
tố khiến tác giả quan tâm nằm ở lực lượng
sáng tác và thưởng thức – những người có
vốn kiến thức nhất đ nh về Hán Nôm và
qua đó, tác giả cũng khước từ sự lưu ý ở
dạng thức tồn tại của tác phẩm – phương
thức truyền miệng – một đặc điểm thuộc
Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, mặc
87
quyền năng của văn học dân gian.
Việt Nam, tác giả Vũ Ngọc Khánh không
phủ nhận tính bác học của giai thoại văn
học nhưng lại khẳng đ nh những giai thoại
đậm chất văn chương bác học ấy không thể
khước từ phong cách, thi pháp của văn học
dân gian; tức là đặc trưng được dân gian
hoá: “Nói giai thoại là văn chương truyền
miệng mà lại bác học cũng chỉ là một cách
nói… Những câu thơ, câu đối ở đây có vẻ
giàu chữ nghĩa, điển tích như ở văn chương
bác học, song điều bắt buộc là phải vận
dụng theo phong cách dân gian, lấy chất
liệu và cả biện pháp quen thuộc của ca dao,
câu đố…tác phẩm văn học bác học được
xem như tác phẩm dân gian và có thể sống
trong quần chúng…” [7, tr.13 – 14].
Sau công trình trên, Vũ Ngọc Khánh
tiếp tục giới thiệu quyển Giai thoại folklore
Việt Nam. Sách gồm 2 phần: lí luận thể loại
và giới thiệu tiểu loại giai thoại folklore,
một trong 3 tiểu loại của giai thoại theo
quan niệm của tác giả. Nhìn chung, phần
giới thuyết thể loại là sự phát triển những
quan điểm đã được đưa ra ở công trình Kho
tàng giai thoại Việt Nam trước đó. Tuy
nhiên, tác giả cũng không quên đưa vào
một số lưu ý then chốt về đặc điểm thể
loại, xem như điểm nhấn quan trọng trong
cách hình dung vấn đề thể loại. Sự khác
nhau ấy, theo tác giả, giai thoại của nước
ta, trong không ít trường hợp thiếu hẳn yếu
tố k ch tính, một đặc trưng thi pháp bắt
buộc phải có theo đ nh nghĩa của Guxep:
“Chuyện mà không có chuyện, chỉ là
những nhận xét tình hình. Nếu theo cách
nghiên cứu lí luận của các nhà chuyên môn
(nhất là phương Tây) rằng anecdote phải
có tính kịch, có cao trào, có đỉnh điểm thì
hoàn toàn ở đây không có” [8, tr.39]. Có
lẽ, Vũ Ngọc Khánh không đồng tình lắm
với quan niệm xem giai thoại tương đương
với thuật ngữ anecdote. Theo tác giả, giai
Trong lần tái bản công trình Giai thoại
văn học Việt Nam, nhóm tác giả cũng khẳng
đ nh: “Giai thoại văn học là một loại văn
chương vừa có tính chất bác học lại vừa có
tính chất truyền miệng mang trong cốt cách
của nó nhiều nét dân tộc độc đáo đầy sức
hấp dẫn” [5, tr.5]. Rõ ràng, khái niệm được
nêu ra chưa hề phân đ nh một cách chính
xác, giai thoại văn học (một tiểu loại của
giai thoại) thuộc văn học bình dân hay bác
học. Tính chất nước đôi này thể hiện khá rõ
nét trong cách diễn giải vấn đề: “giai thoại
văn học là một loại văn chương vừa có tính
chất bác học lại vừa có tính chất truyền
miệng”. Do đó, có thể nói dù thời gian xuất
hiện có độ lùi so với lần xuất bản đầu tiên,
nhưng về mặt lí luận thể loại, vẫn chưa thể
khắc phục được sở đoản trong quan niệm về
giai thoại của Trần Thanh Mại.
Công trình nghiên cứu văn học dân
gian đầu tiên có đề cập và xem giai thoại
như một thể loại văn học dân gian là quyển
Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt
Nam của Cao Huy Đỉnh. Trong công trình
này, mặc dù chưa đưa ra khái niệm, cũng
như nhận diện về thi pháp thể loại nhưng
tác giả, trong một nhận xét ngắn gọn về nội
dung, cũng đã gợi mở một số ý tưởng đáng
chú ý: “Giai thoại thể hiện lòng tự hào dân
tộc, và những nguyện vọng tự chủ của
nhân dân. Giai cấp phong kiến càng suy
tàn, hệ thống quan liêu càng cồng kềnh sa
đọa, thì tính chất châm biếm, đả kích của
giai thoại càng mạnh mẽ và nó sẽ lẫn lộn
với truyện cười” [1, tr.55]. Cách đánh giá
của Cao Huy Đỉnh có phần thiên về chức
năng thể loại. Ở đây, sự quy đ nh về tính
l ch sử đã mở ra một vùng giao thoa của
hai thể loại (giai thoại và truyện cười) ở
tính châm biếm, đả kích.
Trong công trình Kho tàng giai thoại
88
thoại không nhất thiết phải là những mẩu
chuyện kể ngắn gọn: “Tiếu lâm, truyện
cười, dù là cười liên hoàn đi chăng nữa, thì
cũng phải ngắn gọn, sinh động, còn với
giai thoại thì dài ngắn không quan trọng”
[8, tr.56]. Ở một chỗ khác, tác giả hiểu nội
hàm thuật ngữ này khác hẳn với quan niệm
thông lệ của phương Tây, xem giai thoại
như những mẩu chuyện hài hước, trào
phúng. Tác giả cho rằng, giai thoại không
chỉ vui, hài mà còn dung chứa cả những
cung bậc khác: “Rồi còn những câu chuyện
buồn, buồn mà vẫn là giai thoại. Qua thực
tế sưu tầm, tôi đã gặp nhiều câu thơ, câu
đối, hoặc những mẫu chuyện xứng đáng là
những câu chuyện đẹp, hay song lại không
vui tí nào. Vì nó không vui nên không được
xem là giai thoại ư? Nếu như vậy thì hoá
ra bắt thực tế phải tuân theo lí luận” [8,
tr.20], và “trong cái hay, cái đẹp có cả cái
đúng, cái vui có cả vui buồn lẫn lộn”
[8, tr.26].
Như vậy, theo quan niệm của Vũ Ngọc
Khánh, cần lưu ý hai điểm khác biệt so với
quan niệm của phương Tây. Thứ nhất,
không thể căn cứ vào dung lượng để xác
đ nh thể loại; và thứ hai, giai thoại có thể
dung chứa nhiều cung bậc tình cảm
(bi, hài…).
Trong khi đó, tác giả Kiều Thu Hoạch
nhấn mạnh đến tính lí thú và xem đây như
một đặc trưng của thể loại này: “giai thoại
không phải là câu chuyện, mẩu chuyện kể
bình thường, mà đó phải là những câu
chuyện hay, lí thú, gợi được những khoái
cảm thẩm mĩ” [6, tr.23]. Xét về mặt l ch
sử, nhận đ nh này có phần gần với quan
niệm của Trần Thanh Mại: “Có lẽ ngắn
gọn và lí thú là hai đặc điểm chủ yếu của
giai thoại” [4, tr.9].
Hoạch có ý đồng tình với quan điểm của Vũ
Ngọc Khánh khi xem giai thoại như một thể
loại không thể chối bỏ, thuộc thẩm quyền
của văn học dân gian. Tác giả cũng đã tiến
hành so sánh nhiều nguồn tài liệu khác nhau
và tiến đến sự khẳng đ nh theo quan điểm
nghiên cứu của folklore hiện đại: “Với cách
nhìn nhận như vậy thì giai thoại rõ ràng là
các sáng tác dân gian, là folklore, và đương
nhiên nó phải là một thể loại nằm trong loại
hình tự sự dân gian” [6, tr.29].
Chúng tôi nhận thấy, quan niệm của
Kiều Thu Hoạch ch u ảnh hưởng ít nhiều
từ cách hiểu của Guxep. Trong rất nhiều
trường hợp, tác giả đã dẫn ra quan niệm
của học giả người Nga và xem nó như kim
chỉ nam cho cách hiểu của mình. Không ít
lần, tác giả đề cập đến yếu tố tính lí thú hay
kịch tính, một đặc điểm theo tác giả, không
thể vắng bóng trong thể loại: “Một giai
thoại, sở dĩ được gọi là giai thoại là do
tính lí thú (intéressant, plaisant) tạo nên
(…), một giai thoại mà không đem lại cho
người ta cái cảm giác lí thú thì không còn
là giai thoại (…). Điều mà Guxep gọi là
tình tiết có sự tăng tiến tới cao điểm, và kết
thúc bất ngờ, chính là nói đến tình huống lí
thú của giai thoại. Hay nói khác đi, đó
chính là kịch tính, dẫn câu chuyện tới chỗ
thắt bút rồi bất ngờ mở nút, dẫn người
nghe đến một khoái cảm thẩm mĩ cao độ,
đầy hứng thú” [6, tr.31]. Ở một chỗ khác,
tác giả cũng lưu ý một đặc trưng quan
trọng khác của thể loại này, đó là tính đối
thoại: “Hơn nữa, thông thường đã gọi là
giai thoại thì phải có đối thoại, đối đáp
(dialogue) giữa hai nhân vật” [6, tr.33].
Như vậy, cách hiểu của Kiều Thu
Hoạch nhìn chung, ch u ảnh hưởng trực
tiếp từ quan niệm của Guxep, đặc biệt là
yếu tố k ch tính hay tình huống lí thú. Mặt
khác, tác giả cũng lưu ý một đặc điểm quan
Cũng trong phần khải luận công trình
Giai thoại văn học Việt Nam, Kiều Thu
89
trọng của thể loại, đó là tính đối thoại. Có
thể nói, đây là đặc trưng rất quan trọng
không chỉ vun đắp nên k ch tính của câu
chuyện mà còn là vách ngăn khá tin cậy
trong việc khu biệt với thể loại truyền
thuyết. Trong truyền thuyết, không nhất
thiết phải có đối đáp giữa các nhân vật;
nhưng trong giai thoại, lời thoại của các
nhân vật dù ngắn hay dài, dù là lời nói bình
thường hay đối đáp bằng thơ ca uyên bác;
cũng là yếu tố không thể thiếu vắng.
Thu Hoạch.
Thứ đến là vấn đề đặc trưng, bản chất
của giai thoại. Chúng tôi đặc biệt chú ý các
ý kiến của hai nhà nghiên cứu trên. Tuy
nhiên, chúng tôi có phần thiên về quan
điểm của Vũ Ngọc Khánh. Bởi lẽ, theo
chúng tôi, những nhận xét của tác giả rất
xác đáng với tình hình thể loại này ở nước
ta. Chí ít là không đánh đồng khái niệm
Đông, Tây cũng như không vô tình làm
nghèo đi kho tàng giai thoại bằng việc rập
khuôn lí thuyết. Những ý kiến ấy rải đều ở
các khía cạnh quan trọng của thể loại.
Nhưng nhìn chung, có thể tóm tắt toàn bộ
tư tưởng của ông bằng cụm từ: tính lưỡng
cực. Có thể thấy, về bất cứ đặc điểm nào
(nội dung hay hình thức), tác giả đều cố
gắng mở rộng biên giới vấn đề sang cả
những điểm tưởng chừng như mãi là điểm
đối lập không thể dung hợp. Đó là tính
lưỡng cực về dung lượng (lớn hoặc nhỏ),
tính lưỡng cực về trạng thái cảm xúc (bi -
hài, buồn - vui…); tính lưỡng cực về kịch
tính (có thể tồn tại hoặc vắng bóng)…
Ở trên, chúng tôi vừa điểm qua cách
hiểu thuật ngữ cũng như những đặc điểm
cơ bản nhất của thể loại giai thoại trong
quan niệm của các nhà nghiên cứu. Đến
đây, chúng tôi xin đưa ra một vài nhận xét.
Trước hết là sự tương tác của giai thoại
với các thể loại tương cận. Trong quá trình
vận động, phát triển; giai thoại có những
điểm gần gũi với các thể loại tự sự khác
như truyện cười, truyền thuyết. Cả truyện
cười và giai thoại hài đều có tính lí thú ở
tình huống ngày càng tăng tiến của nó.
Nhưng để phân biệt và giải thích tại sao lại
xếp một truyện vào một trong hai thể loại
trên rõ ràng không phải là việc đơn giản.
Lâu nay, chúng ta vẫn xem những mẩu
chuyện xoay quanh các nhân vật Trạng
Quỳnh, Xiển Ngộ, Ba Giai, Tú Xuất… là
truyện cười. Thật khó để có thể thay đổi
thực tế đó bằng sức mạnh của một phán
đoán mang tính khẳng đ nh. Vấn đề này
cần phải được nghiên cứu sâu hơn. Ở một
khía cạnh khác, cả giai thoại l ch sử và
truyền thuyết l ch sử đều vận dụng các yếu
tố l ch sử để phản ánh. Tuy nhiên, nếu
truyền thuyết l ch sử xem những cứ liệu
l ch sử đó như là đối tượng chính yếu của
sự phản ánh thì giai thoại l ch sử vận dụng
chúng như một phương tiện để nhận thức.
Điều này đã từng được đề cập trong các
công trình của Vũ Ngọc Khánh và Kiều
2.2. Tình hình phân loại thể loại
giai thoại
Trong tình hình hiện nay, chúng ta vẫn
chưa tìm thấy sự thống nhất trong việc
phân loại giai thoại từ các nhà nghiên cứu.
Từ lí luận đến thực tiễn, các ý kiến vẫn
thường trú trong những vách ngăn khó lòng
tìm thấy điểm giao nhau. Một số tuyển tập
dài hơi và có vẻ hệ thống của một số tác
giả không ngăn được giềng mối ngờ vực từ
tiếng gọi chân lí khoa học. Sự không thống
nhất về mặt tiêu chí phân đ nh thể loại là
điều dễ nhận thấy trong quan điểm của
từng tác giả, thậm chí trong cùng một tác
giả. Các sách tuyển tập giai thoại theo dạng
thức tổng hợp, hoặc dạng thức vùng (đ a
phương), theo loại hình nhân vật… đã lần
lượt ra mắt bạn đọc. Chẳng hạn: Giai thoại
90
văn chương, Giai thoại văn nghệ, Giai
thoại làng Nho, Giai thoại văn nghệ dân
gian, Giai thoại Thăng Long, Giai thoại
phụ nữ, Giai thoại xứ Lạng… Đó là chưa
kể đến những quyển sách sưu tầm một cách
dễ dãi, đánh đồng khái niệm giai thoại với
một số thể loại tương cận như truyền
thuyết hay truyện cười. Điều này, đã từng
được lưu ý trong phần khải luận quyển
Giai thoại văn học Việt Nam của Kiều Thu
Hoạch (6).
Rõ ràng, tính phức tạp của vấn đề là
điều không thể phủ nhận. Trong công trình
Mỹ học Folklore, chính Guxep cũng đã
thừa nhận điều đó: “Các tiểu loại giai
thoại chưa phân hoá rõ rệt” [2, tr.233].
Bất chấp khó khăn trên, các nhà nghiên
cứu trong nước cũng đã cố gắng đưa ra
những kiến giải đáng trân trọng trong
những nỗ lực nhằm giúp tình hình trở nên
lành mạnh. Ở đây, chúng tôi chỉ xin phép
điểm qua những ý kiến tiêu biểu nhất.
Trong các công trình biên soạn về giai
thoại, Vũ Ngọc Khánh đã chia giai thoại
thành các tiểu loại sau: giai thoại văn học,
giai thoại lịch sử và giai thoại folklore
[7,19]. Trong khi đó, Kiều Thu Hoạch đề
ngh nhận dạng thể loại qua 2 tiểu loại
chính yếu: giai thoại văn học và giai thoại
lịch sử [6, tr.53]. Trong từng tiểu loại tác
giả cho rằng: “Như giai thoại văn học có
thể có nhóm giai thoại về các tác gia văn
học, và có nhóm giai thoại về các sáng tác
văn học khuyết danh, vô danh. Còn giai
thoại lịch sử, thì có thể có nhóm giai thoại
về danh nhân lịch sử, danh nhân văn hoá
và nhóm giai thoại đi sứ”. [6, tr.53]. Gần
đây, Nguyễn Th Bích Hà nêu ý kiến chia
giai thoại thành 3 tiểu loại: giai thoại văn
học, giai thoại danh nhân và giai thoại
cười” [3]. Cố nhiên, ý kiến của từng tác giả
đều được đảm bảo bằng những điểm tựa
riêng nhất đ nh. Và điểm chung của các
cách chia trên là các tác giả đều ít nhiều
căn cứ vào tiêu chí nhân vật hay nội dung
cốt truyện.
Chúng ta đều biết rằng giai thoại là cầu
nối giữa l ch sử và truyền thuyết, và như
một hệ lụy tất yếu, trong không ít trường
hợp, ranh giới mong manh giữa giai thoại
l ch sử và truyền thuyết l ch sử chỉ đơn
thuần mang một ý nghĩa kỉ niệm nhiều hơn
là điểm tựa để xác tín, khu biệt. Nhiều ý
kiến cho rằng, giai thoại lịch sử là sự tục
hoá nhân vật l ch sử, kéo nó xuống gần hơn
với đời thường và hoá giải không khí
thiêng liêng thống ngự trong số phận thể
loại truyền thuyết lịch sử. Điều này cần
được nghiên cứu một cách có hệ thống qua
những minh chứng và lí giải công phu. Bên
cạnh đó, một số điểm tương đồng trong
việc phản ánh l ch sử cũng đã thu hẹp
khoảng cách giữa hai thể loại. Trong nhiều
trường hợp, thật khó có thể phân biệt một
cách rõ ràng đâu là truyền thuyết và giai
thoại l ch sử. Điều này đã được lưu ý và lí
giải phần nào qua một số bài nghiên cứu.
Với tất cả lí do trên, chúng tôi thấy rằng,
không nên và không thể loại bỏ hẳn thuật
ngữ lịch sử ra khỏi tên tiểu loại. Bởi lẽ,
điều đó vô tình làm nhòe đi đặc trưng cốt
lõi nhất của giai thoại trong sự đối sánh với
truyền thuyết. Thế nên, cách hiểu xem
“giai thoại danh nhân là những mẩu
chuyện kể xung quanh những nhân vật nổi
tiếng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, khiến
cho ta hiểu họ một cách sinh động và giàu
nhân văn hơn” [3], đã khai tử cho số phận
của các nhân vật l ch sử, gộp nó lại trong
một khái niệm rộng hơn, và điều này là
không cần thiết.
Ý kiến của Kiều Thu Hoạch tuy xác
đáng nhưng cũng cần xem lại ở một số
điểm. Chẳng hạn, nếu ta đồng tình với cách
91
chia như thế chẳng phải ta đã chấp nhận
mất đi hàng loạt những giai thoại có liên
quan đến lĩnh vực văn hoá, văn nghệ dân
gian? Mặt khác, cách chia ấy cũng vô tình
đánh rơi một tiểu loại quan trọng của giai
thoại – giai thoại folklore (những giai thoại
mang tính lí giải những câu phương ngôn,
thành ngữ dân gian chẳng hạn: Bút Cấm
Chỉ, sĩ Thiên Lộc; Nở đường Sau, đau chùa
Dậu; Đít Lí Râu, đầu Án Cộng…). Đó là
chưa kể đến giai thoại trào phúng, một thể
loại gần với truyện cười mà chính trong
công trình của mình, tác giả cũng khẳng
đ nh về sự tồn tại của tiểu loại này (những
giai thoại có liên quan đến những nhân vật
gây cười quen thuộc như Ba Giai, Tú Xuất,
Trạng Quỳnh, Xiển Ngộ…).
Chúng tôi nhận thấy cách chia của Vũ
Ngọc Khánh là đầy đủ và toàn diện hơn cả.
Mặc dù về mặt thuật ngữ, tiểu loại giai
thoại folklore có thể làm phát sinh những
ngộ nhận, hiểu nhầm ngoài mong đợi. Tuy
nhiên, cần nói thêm rằng, ngay trong từng
tiểu loại cũng rất khó để có thể tìm thấy
một khế ước chung mang tính qui chiếu
một cách ổn đ nh để góp phần biệt lập các
tiểu loại với nhau. Điều này đã được nhắc
đến, phân tích trong hầu hết các ý kiến của
các nhà nghiên cứu. Chẳng hạn, đâu là
vách ngăn vi diệu để phân biệt mảng giai
thoại đi sứ (thuộc giai thoại lịch sử) và giai
thoại văn học, khi cả hai đều dựa vào sức
mạnh trí tuệ về văn chương để làm nên tính
hấp dẫn, lôi cuốn? Nói như Vũ Ngọc
Khánh: “Đúng ra thì việc đi sứ thuộc hiện
tượng lịch sử, nhưng hầu hết các cuộc giao
thiệp này đều xoay quanh những câu
chuyện đối đáp, thử tài (…). Trường hợp
kể chuyện dồi dào nhất có lẽ là của Mạc
Đĩnh Chi, thì toàn là câu đối và câu đối”
[8, tr.38].
chúng tôi, khó có thể tìm thấy lời giải đáp
thỏa đáng nếu chúng ta chỉ quan tâm đến
nhân vật và các sự kiện l ch sử. Chúng tôi
muốn nhắc đến ý kiến của V.Ja Propp. Khi
nhận xét về truyền thuyết l ch sử (trong
phần Cơ cấu thành phần các thể loại
Folklore), Propp cho rằng: “Ở đây, cần nói
thêm rằng, sự có mặt của một tên tuổi nhân
vật lịch sử chưa đủ xác định thể loại truyền
thuyết lịch sử” [9, tr.340]. Do đó, suy rộng
ra, chưa hẳn những giai thoại có liên quan
đến các ông Trạng đi sứ đã là giai thoại
l ch sử. Mặc dù, tính chất sử liệu của nó, từ
nhân vật đến sự kiện, là điều không thể phủ
nhận. Khi trình bày về các nguyên tắc phân
loại folklore, Propp cũng khẳng đ nh:
“Dấu hiệu được nêu lên phải phản ánh
được những mặt bản chất của hiện tượng.
Mục đích nghiên cứu quyết định xem cái gì
là bản chất và cái gì không được xem là
bản chất” [9, tr.317]. Theo Propp, đối với
những thể loại khó phân đ nh rõ ràng, điều
tiên quyết là ta phải tìm được đâu là yếu tố
bền vững của nó để tiến hành phân loại:
“Trong trường hợp ấy, ta có hai thể loại
cùng sử dụng chung một cốt truyện. Điều
đó có liên quan đến những yếu tố bền vững
và những yếu tố thay đổi trong folklore nói
chung” [9, tr.318]. Thế thì, một câu hỏi
được đặt ra là: trong giai thoại đi sứ và
giai thoại văn học; điểm chung, điểm bền
vững của chúng là gì, và yếu tố nào bất
biến, khả biến? Giải đáp được điều này,
chúng ta phần nào trả lời được câu hỏi nên
xếp mảng giai thoại đi sứ vào tiểu loại nào
của giai thoại. Chúng ta thấy rằng, các
nhân vật đi sứ có thể khác nhau về thời đại,
xuất thân… nhưng họ đều là những người
cơ trí, nhạy bén, có tài ứng phó, luôn hoàn
thành những thử thách được đưa ra. Chuỗi
giai thoại đi sứ của Mạc Đĩnh Chi là một
minh chứng sinh động cho những trường
Đây là vấn đề khá phức tạp, và theo
92
hợp như thế. Như vậy, yếu tố khả biến ở
đây là yếu tố l ch sử, sự kiện, hoàn cảnh
l ch sử. Còn yếu tố bất biến, không thể
nghi ngờ gì thêm, là tài năng ứng phó của
các nhân vật trong từng huống cảnh riêng
biệt đó. Xét về mặt tư tưởng, các giai thoại
này tuy có liên quan đến sự kiện l ch sử cụ
thể (nơi chốn, thời gian, danh tính nhân
vật…), nhưng phần cốt lõi nhất vẫn là phần
văn học. Trong đó, yếu tố l ch sử đóng vai
trò làm nền để làm nổi bật tính văn học,
bác học của câu chuyện. Vả chăng, câu
chuyện đi sứ phần lớn thuộc hành trạng cá
nhân của nhân vật (có thể nêu cao tinh thần
dân tộc), nhưng điểm đích, tức là mục đích
cuối cùng, tính ứng dụng (hay chức năng)
của nó, theo chúng tôi không thể gắn với
mệnh hệ cộng đồng, dân tộc – nội hàm cơ
bản nhất mà giai thoại l ch sử phải sở hữu.
Chẳng hạn, nếu xâu chuỗi lại hàng loạt giai
thoại đi sứ của Mạc Đĩnh Chi (Ra đối dễ,
đối đối khó; Lưỡng quốc trạng nguyên;
Bốn chữ nhất, Ruột vuông…) (6), ta có thể
tìm thấy yếu tố vận mệnh nào của dân tộc
được khúc xạ qua hàng loạt biến cố của
nhân vật? Giai thoại Bốn chữ nhất 6) chẳng
hạn. Vua nhà Nguyên đưa ra một thử thách
khó khăn, hoàn thành bài văn tế khi chỉ có
bốn chữ nhất trên tờ giấy trắng. Và với tài
ứng phó tinh diệu, sở trường văn chương
trác việt, Mạc Đĩnh Chi đã ứng khẩu đọc
liền một mạch bài văn. Như vậy, ở đây, sự
kiện nào là chính yếu? Đề tài đi sứ hay tài
năng đối đáp văn chương. Mỗi quyết đ nh
sẽ cho chúng ta một tiểu loại giai thoại:
l ch sử và văn học. Phải chăng đây là
trường hợp văn học hoá, bác học hoá các
sự kiện l ch sử, mà cụ thể là việc đi sứ?
Nếu chúng ta gạt đi những câu đối, bài thơ
ra khỏi lãnh đ a giai thoại đi sứ, thì tất cả
những gì còn lại, theo chúng tôi, không gì
khác hơn những sự kiện l ch sử đơn thuần.
Và các giai thoại đó sẽ mất đi tính lí thú
vốn có của chúng. Do đó, nếu căn cứ vào
đặc trưng tính bác học, văn học (hay yếu tố
bất biến của cốt truyện), chúng tôi đề ngh
xếp giai thoại đi sứ vào tiểu loại giai thoại
văn học, xem nó như một dạng thức đặc
biệt của tiểu loại này.
3. KẾT LUẬN
Vấn đề lí thuyết thể loại giai thoại,
chắc hẳn cần nghiên cứu nhiều hơn, nếu
không muốn nói đến sự cần thiết phải hiện
thực hoá nó qua một công trình mang tính
chuyên sâu, khoa học. Soi chiếu điều này
trong tình hình hiện tại, càng thấy được
tính bức thiết không chỉ về mặt lí luận mà
còn cả tính thực tiễn.
Trong điều kiện hạn hữu về mặt tư
liệu, chúng tôi đã cố gắng khái quát lại
cách nhìn nhận thể loại ở các khía cạnh:
khái niệm, đặc trưng và vấn đề phân loại
thể loại. Trong chừng mực cho phép,
chúng tôi cũng đã đưa ra những nhận xét,
đề ngh ban đầu. Chung qui lại, chúng tôi
có một số nhận xét về thể loại giai thoại
như sau:
1. Giai thoại là một thể loại thuộc loại
hình tự sự dân gian. Và trong quá trình
phát triển, thể loại này có những điểm gần
gũi với các thể loại tự sự khác như truyện
cười, truyền thuyết.
2. Không thể đồng tình với quan điểm
cho rằng giai thoại của chúng ta tương
đương với thuật ngữ anecdote của phương
Tây. Bởi lẽ, về mặt nội hàm, giai thoại Việt
Nam rộng hơn thuật ngữ trên.
3. Về mặt hình thức, không thể căn cứ
vào dung lượng để tiến hành phân đ nh thể
loại. Giai thoại đa phần là ngắn, nhưng
cũng không loại trừ trường hợp có những
giai thoại dài. Ở đây, chỉ nên căn cứ vào
cốt truyện. Dù ngắn hay dài, giai thoại
trước hết phải có cốt truyện, có nhân vật
93
trung tâm và các tình tiết xoay quanh nhân
vật ấy.
văn học nếu căn cứ vào tính văn chương,
bác học của nó.
4. Giai thoại có cả bi hài, nhiều cung
bậc tình cảm khác nhau chứ không nhất
thiết lúc nào cũng phải có tính hài để tạo
nên tính lí thú. Tính lí thú có mặt ở hầu hết
các thể loại tự sự dân gian chứ không riêng
gì thể loại giai thoại.
5. Về vấn đề phân loại giai thoại,
chúng tôi đồng tình với quan điểm của Vũ
Ngọc Khánh. Giai thoại bao gồm 3 tiểu
loại cơ bản: giai thoại văn học, giai thoại
l ch sử và giai thoại folklore. Riêng nhóm
giai thoại đi sứ, chúng tôi đề ngh xếp
thành một tiểu loại đặc biệt của giai thoại
Trong tình hình hiện tại, nghiên cứu
đặc trưng, bản chất thể loại giai thoại là
việc làm cần thiết nhưng không hề giản
đơn. Cố nhiên, để có thể hoàn thành yêu
cầu đó, đòi hỏi phải lí giải một cách thấu
đáo những tương đồng và d biệt giữa giai
thoại với các thể loại khác như truyện cười,
truyền thuyết. Bởi lẽ, nói như Propp:
“Nghiên cứu từng thể loại riêng rẽ tách rời
khỏi những thể loại khác, thì không thể nào
làm sáng rõ được tính chất phong phú và
đa dạng của folklore mỗi dân tộc”
[9, tr.314].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Cao Huy Đỉnh, Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam (1976), Nxb Khoa
1.
học xã hội.
2.
3.
Guxep, Mỹ học folklore (1999), Hoàng Ngọc Hiến d ch, Nxb Đà Nẵng.
Nguyễn Th Bích Hà, Giai thoại – một thể loại văn học dân gian
4.
5.
Hoàng Ngọc Phách và Kiều Thu Hoạch sưu tầm, Trần Thanh Mại giới thiệu (1965),
Giai thoại văn học Việt Nam, Nxb Văn học.
Hoàng Ngọc Phách và Kiều Thu Hoạch sưu tầm, biên soạn, in lần thứ 2 (1988),
Giai thoại văn học Việt Nam, Nxb Văn học.
6.
7.
8.
9.
Kiều Thu Hoạch, Giai thoại văn học Việt Nam (2004), Nxb Khoa học xã hội.
Vũ Ngọc Khánh, Kho tàng giai thoại Việt Nam (1994), Tập 1, Nxb Văn hóa.
Vũ Ngọc Khánh, Giai thoại folklore Việt Nam (1996), Nxb Khoa học xã hội.
V. Ja Propp, Tuyển tập V. Ja Propp (2004), tập 2, Nxb Văn hoá dân tộc, Tạp chí Văn
hóa Nghệ thuật.
10. Nhiều tác giả, Từ điển Văn học (2004), Nxb Thế giới.
* Ngày nhận bài: 3/1/2014. Biên tập xong: 15/5/2014. Duyệt đăng:
94
Bạn đang xem tài liệu "Giai thoại – Đặc điểm và bản chất thể loại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- giai_thoai_dac_diem_va_ban_chat_the_loai.pdf