Giai thoại – Đặc điểm và bản chất thể loại

TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN  
Soá 20 - Thaùng 4/2014  
GIAI THOẠI – ĐẶC ĐIỂM VÀ BẢN CHẤT THỂ LOẠI  
NGUYỄN VĂN THƯƠNG (*)  
TÓM TT  
Giai thoi là mt thloi thuc loi hình tsdân gian. Mặc dù đã có nhiều công  
trình nghiên cứu nhưng đến nay, hầu như các nhà nghiên cứu chưa có sự nht trí cao về  
đặc điểm thloi này. Bài viết này tp trung vào những giác độ cơ bản nht vlí thuyết  
thloi.  
Tkhoá: bn cht thtoi, tsdân gian, giai thoi  
ABSTRACT  
Anecdote is a kind of folk forms of narrative. Although there have been many studies,  
but until now, most researchers have not got consensus yet on the characteristics of this  
genre. This article focuses on the most basic aspects of category theory.  
Keywords: nature, genre, folk narratives, anecdotes  
Xung quanh vấn đề lí thuyết thể loại  
giai thoại, có thể hình dung một số khía  
cạnh cơ bản như khái niệm, phân loại, các  
bình diện thi pháp… Những đặc điểm, khía  
cạnh ấy phần nào đã được bóc tách, tìm  
hiểu qua một số công trình nghiên cứu, sưu  
tầm về giai thoại. Ở đây, chúng tôi chỉ đi  
sâu vào các yếu tố cơ bản là khái niệm,  
phân loại thể loại.  
dung một cách bao quát, chúng tôi xin  
điểm qua một số ý kiến tiêu biểu nhất.  
1.1. Quan niệm của các nhà nghiên cứu  
thế giới  
Do giới hạn về mặt tư liệu, chúng tôi  
xin được phép dừng lại ở một số quan niệm  
của các nhà nghiên cứu folklore Nga, một  
trong những nền học thuật ảnh hưởng rõ rệt  
nhất đến folklore Việt Nam.  
V. Ja Propp có lẽ là người đầu tiên chú  
ý đến thể loại giai thoại cùng đặc điểm của  
nó. Trong công trình Folklore và thực tại, ở  
phần Cơ cấu thành phần thể loại, khi bàn  
về cổ tích sinh hoạt, học giả uyên bác  
người Nga xem giai thoại như một tiểu loại  
của cổ tích sinh hoạt: “Nói về cổ tích sinh  
hoạt hay truyện cổ tích hiện thực, cần phải  
đề cập tới vấn đề giai thoại (…). Theo ý  
chúng tôi, nó không phải là một loại hình  
riêng của sáng tác dân gian, khác biệt với  
loại truyện cổ tích đoản thiên về con người  
(…). Nghiên cứu kĩ càng hơn nữa những  
truyện cổ tích sinh hoạt về con người, thì  
có thể khẳng định được rằng trong folklore  
không có ranh giới giữa truyện cổ tích sinh  
1. GIAI THOẠI LÀ GÌ? *  
Khái niệm thể loại luôn là điều kiện  
tiên quyết cho việc nghiên cứu một cách  
hoàn chỉnh, hệ thống thi pháp thể loại. Tuy  
nhiên, trong khoa học, việc tồn tại nhiều  
cách hiểu khác nhau về cùng một thuật ngữ  
nào đó không phải là câu chuyện quá mới  
mẻ. Trường hợp thể loại giai thoại cũng  
nằm trong huống trạng tương tự. Xoay  
quanh khái niệm này, đã có rất nhiều ý  
kiến, quan niệm khác nhau, từ các nhà  
nghiên cứu trong nước cho đến các nhà  
nghiên cứu trên thế giới. Để có sự hình  
(*) ThS, Trường THPT Phạm Văn Sáng, Hóc Môn,  
TP. Hồ Chí Minh.  
84  
hoạt về con người và truyện giai thoại. Có  
chăng thì cũng chỉ có thể xếp giai thoại  
thành một tiểu loại riêng trong truyện cổ  
tích sinh hoạt” [9, tr.325].  
hay điểm khác, song các học giả vẫn xem  
giai thoại như một thể loại thuộc văn học  
dân gian. Propp căn cứ vào tính hiện thực,  
phản ánh những vấn đề có liên quan một  
cách gần gũi đến cuộc sống thường nhật  
của nhân dân và xem giai thoại như một  
tiểu loại của cổ tích sinh hoạt. Trong khi  
các nhà nghiên cứu khác như Guxep,  
Gipkop, Davlevtop xem giai thoại như một  
thể loại độc lập và đặc biêt chú ý ở tính  
chất trào phúng hay hài hước. Đó là những  
giềng mối cơ bản làm nảy sinh sự khác biệt  
trong quan niệm về thể loại này.  
Song, chúng tôi không nghĩ rằng lí  
thuyết thể loại hay hẹp hơn là phân loại  
folklore của dân tộc này sẽ đảm bảo được  
tính khả thi khi áp dụng cho môi trường  
folklore của dân tộc khác. Điều này cũng  
đã được Propp lưu ý khá rõ: “Cơ cấu thành  
phần thể loại được xác lập đối với folklore  
một dân tộc lại không thể máy móc đem áp  
dụng cho folklore một dân tộc khác” [9,  
tr.310]. Chỉ có nguyên tắc phân loại là phổ  
quát trong khi tư liệu phân loại vốn mang  
tính độc lập, là tài sản riêng của từng dân  
tộc. Do đó, những ý kiến trên, chỉ có thể  
hữu ích khi và chỉ khi đem soi sáng vào  
mảng giai thoại đảm bảo được tiêu chí trào  
phúng, tức giai thoại hài. Trong khi, theo  
quan niệm của các nhà nghiên cứu ở nước  
ta, đó chỉ là một bộ phận của giai thoại.  
Chúng ta có thể tìm được lời lí giải cho  
những khác biệt trên qua lăng kính văn hóa  
Đông – Tây. Nếu ở phương Tây, giai thoại  
là những mẩu chuyện thiên về trào phúng,  
hài hước để đề cao tư duy duy lí; thì ở  
phương Đông, nội hàm đó có thể mở rộng  
sang cả những câu chuyện hết sức nghiêm  
túc về các nhân vật nổi tiếng được khúc xạ  
qua tình cảm yêu mến, ngưỡng mộ vô tận  
của cộng đồng – tức tư duy duy cảm. Đó  
không chỉ là những câu chuyện dí dỏm, vui  
Cùng quan điểm với V. Ja Propp,  
Guxep cũng xem giai thoại như một thể  
loại văn học dân gian, nhưng ông tách hẳn  
nó ra khỏi cổ tích sinh hoạt và đ nh nghĩa  
như sau: “Chúng tôi tách giai thoại ra khỏi  
cổ tích sinh hoạt và cổ tích trào phúng  
(loại này dĩ nhiên có thể mang những yếu  
tố giai thoại), vì nó có một số đặc điểm cho  
phép nó như một thể loại độc lập. Chúng  
tôi gọi là giai thoại tác phẩm tự sự trào  
phúng hoặc hài hước, được xây dựng trên  
một tình tiết có sự tăng tiến đến điểm cao,  
biểu hiện rệt và kết thúc bất ngờ” [2,  
tr.233]. Như vậy, nguyên nhân khiến  
Guxep tách giai thoại ra khỏi cổ tích là tính  
trào phúng và hài hước của nó. Soi chiếu  
đ nh nghĩa ấy vào tình hình giai thoại Việt  
Nam, có thể thấy, tác giả thiên về giai  
thoại trào phúng, hài hước với tính cách  
tiểu loại hơn là bản thân thể loại giai thoại  
trong hình hài của một thể loại độc lập.  
Bên cạnh đó, một số nhà nghiên cứu  
Nga khác cũng trình bày chính kiến về thể  
loại này. Nhìn chung, các ý kiến vẫn thiên  
về tính hài, trào phúng. Gipkop cho rằng:  
“Giai thoại là một truyện kể ngắn gọn và  
bất ngờ, là một sản phẩm chân chính của  
các nhà trào phúng” (Những giai thoại về  
Khotgia) [8, tr.16]. Davlevtop cũng khẳng  
định: “Cái gì đã tạo ra bản chất của giai  
thoại, của các hình thức quan trọng và phổ  
biến nhất? Cũng dễ quan niệm rằng bản  
chất đó dẫn đến sự biểu thị có tính hài  
hước của một cái mâu thuẫn duy nhất  
trong cuộc sống. Trong giai thoại, không  
có cái gì ngoài cái đó” (Sáng tác dân gian,  
một loại hình nghệ thuật) [8, tr.16].  
Như vậy, dù có khác nhau về điểm này  
85  
tươi mà còn là những câu chuyện đẹp. Do  
đó, giai thoại Việt Nam nói riêng và giai  
thoại phương Đông nói chung, ngoài tính  
hài còn mang cả tính nghiêm trang, cẩn  
trọng, hay thậm chí là những câu chuyện  
nhuốm màu bi ai. Nói như Vũ Ngọc  
Khánh, đối với người phương Đông, giai  
thoại “là cuốn sổ biên niên của cuộc sống,  
là người bạn thường xuyên của con người  
và của các sự kiện lịch sử xã hội” [8, 10].  
1.2. Quan niệm của các nhà nghiên cứu  
Việt Nam  
Như chúng đã biết, công trình sưu tầm  
có đề cập đến thuật ngữ giai thoại đầu tiên  
ở Việt Nam là Giai thoại văn học Việt  
Nam(4). Trong công trình này, ở phần mở  
đầu, tác giả Trần Thanh Mại cho rằng:  
“Thoại có nhiều nghĩa nhưng trong trường  
hợp chúng ta xét đây, thì thoại là một  
truyện kể ngắn gọn, nhẹ nhàng, nói chung  
chỉ gồm những sự việc diễn biến với một  
vài tình tiết đơn giản. Giai thoại là một  
truyện kể nhỏ mà hay, lí thú, có khả năng  
gây cười cho người nghe, người đọc một  
cảm giác vui thích thoải mái một cảm giác  
sảng khoái nhẹ nhàng” [4, tr.9].  
bác học, gắn với sinh hoạt văn học thành  
văn, nhưng lại tồn tại dưới dạng truyền  
miệng, tức là dạng thức tồn tại của các  
truyện kể dân gian” [10, tr.519].  
Cách hiểu trên diễn giải theo lối chiết  
tự và chú ý đối tượng ở hai tính chất: tính  
ngắn gọn và tính lí thú. Ở đây, có vẻ không  
khó khăn trong việc xác đ nh mâu thuẫn  
trong cách nhìn nhận và lập luận. Khi  
khẳng đ nh “giai thoại là một thể loại  
chuyện kể truyền miệng”, “dạng thức tồn  
tại của các truyện kể dân gian”, tức là  
không thể không đồng ý rằng giai thoại  
thuộc văn học dân gian. Nhưng đến một  
chỗ khác, tác giả lại tự phản bác chính điều  
vừa xác nhận khi cho rằng: “Nó (tức giai  
thoại – NVT) thuộc về văn chương bác học,  
gắn với sinh hoạt văn học thành văn”. Như  
vậy, về chất, ý kiến này vẫn chưa thể đi xa  
hơn điều mà Trần Thanh Mại đã từng  
khẳng đ nh. Sự khác biệt duy nhất, có lẽ  
nằm ở hình thức diễn đạt. Và một điểm  
nữa, khiến chúng ta cảm thấy băn khoăn,  
khi tác giả vẫn chưa thể chắc chắn rằng  
giai thoại thuộc lĩnh vực nào, bác học hay  
bình dân.  
Tác giả Lại Nguyên Ân cũng có cách  
hiểu tương tự. Trong công trình Từ điển  
Văn học (Nxb Thế giới phát hành năm  
2004), ở mục giai thoại, tác giả đ nh nghĩa  
giai thoại như sau: “Một thể loại chuyện kể  
truyền miệng, lưu truyền chủ yếu trong giới  
nhà văn và lớp công chúng ưa thích thơ  
văn, nhất là những người có hiểu biết Hán  
học và văn chương chữ Hán. Thuật ngữ  
giai thoại được mượn từ Trung Hoa (thoại:  
truyện kể; giai: hay, đẹp, thú vị). Mỗi giai  
thoại là một truyện kể ngắn gọn, lí thú,  
xoay quanh những nhân vật có thực,  
thường là những danh nhân (…). Tuy vậy  
giai thoại vẫn mang tính độc lập như một  
thể loại độc đáo; nó thuộc về văn chương  
Sau đây, là những ý kiến cho rằng giai  
thoại là một thể loại độc lập của văn học  
dân gian.  
Về khái niệm giai thoại, nhà nghiên  
cứu Vũ Ngọc Khánh cho rằng: “Thuật ngữ  
này là dùng theo ngôn ngữ Trung Quốc, có  
nghĩa là câu chuyện đẹp. Câu chuyện -  
thoại - là một chuyện! Chuyện thì có chuyện  
dài, chuyện ngắn, chuyện giàu hoặc ít tình  
tiết lại và chủ yếu được kể bằng lời. Chúng  
ta đã quan niệm giai thoại là tương đương  
với thuật ngữ anecdote của phương Tây.  
Anecdote không phải là câu chuyện, mà là  
mẩu chuyện. Mẩu chuyện này bao giờ cũng  
ngắn, có khi rất ngắn”[8, tr.9 - 10]. Theo  
cách hiểu của Vũ Ngọc Khánh, rõ ràng,  
86  
không thể áp dụng thuật ngữ anecdote của  
phương Tây vào tình hình thể loại ở nước  
ta. Nói cách khác, không thể xem dung  
lượng như một tiêu chí xác đáng để xác  
đ nh thể loại.  
dù còn chưa thống nhất ở một số điểm  
nhưng nhìn chung, giới nghiên cứu nước ta  
đều xem giai thoại như một thể loại độc lập  
của văn học dân gian.  
Tóm lại, theo cách hiểu trên tinh thần  
kế thừa những nhà nghiên cứu đi trước,  
chúng tôi quan niệm về giai thoại như sau:  
Giai thoại là một thể loại tự sự dân gian, là  
cầu nối giữa lịch sử và truyền thuyết; nội  
dung xoay quanh những vấn đề có liên  
quan đến các nhân vật nổi tiếng trong cộng  
đồng, chủ yếu dưới giác độ riêng tư, cá  
nhân; có hình thức đa phần ngắn gọn; sử  
dụng ít nhiều yếu tố hư cấu, tưởng tượng;  
ngôn ngữ giàu tính trí tuệ, uyên bác; phần  
lớn được chuyển tải bằng giọng điệu hóm  
hỉnh, hài hước.  
Gần đây nhất, công trình biên soạn  
công phu về thể loại giai thoại là quyển  
(6)  
Giai thoại văn học Việt Nam  
(Tập 11,  
Tổng tập văn học dân gian người Việt) do  
Kiều Thu Hoạch chủ biên. Ở phần Khải  
luận, tác giả đưa ra cách hiểu về thuật ngữ  
giai thoại như sau: “Giai thoại vốn là một  
thuật ngữ gốc Hán. Giai có nghĩa là hay,  
đẹp, thoại là câu chuyện kể. Như vậy giai  
thoại là câu chuyện kể hay, đẹp, mà lâu  
nay giới nghiên cứu vẫn coi thuật ngữ này  
tương đương với anecdote của phương  
Tây” [6, tr.23].  
2. ĐẶC ĐIỂM, BẢN CHẤT VÀ VẤN ĐỀ  
PHÂN LOẠI GIAI THOẠI  
Tóm lại, cách hiểu thuật ngữ giai thoại  
trong giới nghiên cứu nước ta gần như tách  
thành hai nhánh đối lập. Trong khi các nhà  
nghiên cứu văn học dân gian (như Vũ  
Ngọc Khánh, Kiều Thu Hoạch,…) đều cho  
rằng giai thoại là thể loại văn học dân gian;  
thì các nhà nghiên cứu không thuộc lĩnh  
vực folklore có nhận đ nh ngược lại. Phải  
chăng, nguyên nhân sâu xa nhất làm nới  
rộng thêm hố sâu ngăn cách giữa họ không  
nằm ở phương pháp nghiên cứu, tiếp cận  
vấn đề? Và trong cách hiểu xem giai thoại  
như một thể loại văn học dân gian, các ý  
kiến vẫn chưa có sự thống nhất cao ở một  
số đặc điểm thuộc về nội hàm thuật ngữ.  
Chẳng hạn như một số ý kiến xem giai  
thoại tương đương với thuật ngữ anecdote  
của phương Tây và xem sự ngắn gọn là đặc  
trưng tất yếu về hình thức. Trong khi đó,  
Vũ Ngọc Khánh căn cứ vào thực tế sinh  
hoạt folklore để phủ đ nh điều đó và đề  
ngh  mở rộng nội hàm sang cả những giai  
thoại có dung lượng lớn.  
2.1. Đặc điểm và bản chất thể loại  
giai thoại  
Về đặc điểm giai thoại, Trần Thanh  
Mại cho rằng: giai thoại là “một loại văn  
chương bác học mà lại truyền miệng” [4,  
tr.9]. Như vậy, theo cách nhìn nhận của tác  
giả, giai thoại nói chung (hay giai thoại văn  
học nói riêng) là một thể loại văn học viết.  
Bởi lẽ: “Giai thoại văn học là một thể loại  
văn học truyền miệng, nhưng trừ một số cá  
biệt nói chung thì giai thoại văn học không  
thuộc phạm vi văn học dân gian” [22, tr.9].  
Ở một chỗ khác, tác giả viết: “giai thoại  
văn học chủ yếu là truyện của những người  
có điều kiện biết đọc, biết viết, biết thưởng  
thức thơ văn chữ Hán và chữ Nôm”  
[15, tr.9]. Và như thế, có thể thấy rằng, yếu  
tố khiến tác giả quan tâm nằm ở lực lượng  
sáng tác và thưởng thức – những người có  
vốn kiến thức nhất đ nh về Hán Nôm và  
qua đó, tác giả cũng khước từ sự lưu ý ở  
dạng thức tồn tại của tác phẩm – phương  
thức truyền miệng – một đặc điểm thuộc  
Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, mặc  
87  
quyền năng của văn học dân gian.  
Việt Nam, tác giả Vũ Ngọc Khánh không  
phủ nhận tính bác học của giai thoại văn  
học nhưng lại khẳng đ nh những giai thoại  
đậm chất văn chương bác học ấy không thể  
khước từ phong cách, thi pháp của văn học  
dân gian; tức là đặc trưng được dân gian  
hoá: “Nói giai thoại là văn chương truyền  
miệng mà lại bác học cũng chỉ là một cách  
nói… Những câu thơ, câu đối ở đây có vẻ  
giàu chữ nghĩa, điển tích như ở văn chương  
bác học, song điều bắt buộc là phải vận  
dụng theo phong cách dân gian, lấy chất  
liệu và cả biện pháp quen thuộc của ca dao,  
câu đố…tác phẩm văn học bác học được  
xem như tác phẩm dân gian và có thể sống  
trong quần chúng…” [7, tr.13 14].  
Sau công trình trên, Vũ Ngọc Khánh  
tiếp tục giới thiệu quyển Giai thoại folklore  
Việt Nam. Sách gồm 2 phần: lí luận thể loại  
và giới thiệu tiểu loại giai thoại folklore,  
một trong 3 tiểu loại của giai thoại theo  
quan niệm của tác giả. Nhìn chung, phần  
giới thuyết thể loại là sự phát triển những  
quan điểm đã được đưa ra ở công trình Kho  
tàng giai thoại Việt Nam trước đó. Tuy  
nhiên, tác giả cũng không quên đưa vào  
một số lưu ý then chốt về đặc điểm thể  
loại, xem như điểm nhấn quan trọng trong  
cách hình dung vấn đề thể loại. Sự khác  
nhau ấy, theo tác giả, giai thoại của nước  
ta, trong không ít trường hợp thiếu hẳn yếu  
tố k ch tính, một đặc trưng thi pháp bắt  
buộc phải có theo đ nh nghĩa của Guxep:  
“Chuyện mà không có chuyện, chỉ là  
những nhận xét tình hình. Nếu theo cách  
nghiên cứu lí luận của các nhà chuyên môn  
(nhất là phương Tây) rằng anecdote phải  
có tính kịch, có cao trào, có đỉnh điểm thì  
hoàn toàn ở đây không có” [8, tr.39]. Có  
lẽ, Vũ Ngọc Khánh không đồng tình lắm  
với quan niệm xem giai thoại tương đương  
với thuật ngữ anecdote. Theo tác giả, giai  
Trong lần tái bản công trình Giai thoại  
văn học Việt Nam, nhóm tác giả cũng khẳng  
đ nh: “Giai thoại văn học là một loại văn  
chương vừa có tính chất bác học lại vừa có  
tính chất truyền miệng mang trong cốt cách  
của nó nhiều nét dân tộc độc đáo đầy sức  
hấp dẫn” [5, tr.5]. Rõ ràng, khái niệm được  
nêu ra chưa hề phân đ nh một cách chính  
xác, giai thoại văn học (một tiểu loại của  
giai thoại) thuộc văn học bình dân hay bác  
học. Tính chất nước đôi này thể hiện khá rõ  
nét trong cách diễn giải vấn đề: “giai thoại  
văn học là một loại văn chương vừa có tính  
chất bác học lại vừa có tính chất truyền  
miệng”. Do đó, có thể nói dù thời gian xuất  
hiện có độ lùi so với lần xuất bản đầu tiên,  
nhưng về mặt lí luận thể loại, vẫn chưa thể  
khắc phục được sở đoản trong quan niệm về  
giai thoại của Trần Thanh Mại.  
Công trình nghiên cứu văn học dân  
gian đầu tiên có đề cập và xem giai thoại  
như một thể loại văn học dân gian là quyển  
Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt  
Nam của Cao Huy Đỉnh. Trong công trình  
này, mặc dù chưa đưa ra khái niệm, cũng  
như nhận diện về thi pháp thể loại nhưng  
tác giả, trong một nhận xét ngắn gọn về nội  
dung, cũng đã gợi mở một số ý tưởng đáng  
chú ý: “Giai thoại thể hiện lòng tự hào dân  
tộc, và những nguyện vọng tự chủ của  
nhân dân. Giai cấp phong kiến càng suy  
tàn, hệ thống quan liêu càng cồng kềnh sa  
đọa, thì tính chất châm biếm, đả kích của  
giai thoại càng mạnh mẽ và nó sẽ lẫn lộn  
với truyện cười” [1, tr.55]. Cách đánh giá  
của Cao Huy Đỉnh có phần thiên về chức  
năng thể loại. Ở đây, sự quy đ nh về tính  
l ch sử đã mở ra một vùng giao thoa của  
hai thể loại (giai thoại và truyện cười) ở  
tính châm biếm, đả kích.  
Trong công trình Kho tàng giai thoại  
88  
thoại không nhất thiết phải là những mẩu  
chuyện kể ngắn gọn: “Tiếu lâm, truyện  
cười, dù là cười liên hoàn đi chăng nữa, thì  
cũng phải ngắn gọn, sinh động, còn với  
giai thoại thì dài ngắn không quan trọng”  
[8, tr.56]. Ở một chỗ khác, tác giả hiểu nội  
hàm thuật ngữ này khác hẳn với quan niệm  
thông lệ của phương Tây, xem giai thoại  
như những mẩu chuyện hài hước, trào  
phúng. Tác giả cho rằng, giai thoại không  
chỉ vui, hài mà còn dung chứa cả những  
cung bậc khác: “Rồi còn những câu chuyện  
buồn, buồn mà vẫn là giai thoại. Qua thực  
tế sưu tầm, tôi đã gặp nhiều câu thơ, câu  
đối, hoặc những mẫu chuyện xứng đáng là  
những câu chuyện đẹp, hay song lại không  
vui tí nào. Vì nó không vui nên không được  
xem là giai thoại ư? Nếu như vậy thì hoá  
ra bắt thực tế phải tuân theo lí luận” [8,  
tr.20], và “trong cái hay, cái đẹp có cả cái  
đúng, cái vui có cả vui buồn lẫn lộn”  
[8, tr.26].  
Như vậy, theo quan niệm của Vũ Ngọc  
Khánh, cần lưu ý hai điểm khác biệt so với  
quan niệm của phương Tây. Thứ nhất,  
không thể căn cứ vào dung lượng để xác  
đ nh thể loại; và thứ hai, giai thoại có thể  
dung chứa nhiều cung bậc tình cảm  
(bi, hài…).  
Trong khi đó, tác giả Kiều Thu Hoạch  
nhấn mạnh đến tính lí thú và xem đây như  
một đặc trưng của thể loại này: “giai thoại  
không phải là câu chuyện, mẩu chuyện kể  
bình thường, mà đó phải là những câu  
chuyện hay, lí thú, gợi được những khoái  
cảm thẩm mĩ” [6, tr.23]. Xét về mặt l ch  
sử, nhận đ nh này có phần gần với quan  
niệm của Trần Thanh Mại: “Có lẽ ngắn  
gọn và lí thú là hai đặc điểm chủ yếu của  
giai thoại” [4, tr.9].  
Hoạch có ý đồng tình với quan điểm của Vũ  
Ngọc Khánh khi xem giai thoại như một thể  
loại không thể chối bỏ, thuộc thẩm quyền  
của văn học dân gian. Tác giả cũng đã tiến  
hành so sánh nhiều nguồn tài liệu khác nhau  
và tiến đến sự khẳng đ nh theo quan điểm  
nghiên cứu của folklore hiện đại: “Với cách  
nhìn nhận như vậy thì giai thoại rõ ràng là  
các sáng tác dân gian, là folklore, và đương  
nhiên nó phải là một thể loại nằm trong loại  
hình tự sự dân gian” [6, tr.29].  
Chúng tôi nhận thấy, quan niệm của  
Kiều Thu Hoạch ch u ảnh hưởng ít nhiều  
từ cách hiểu của Guxep. Trong rất nhiều  
trường hợp, tác giả đã dẫn ra quan niệm  
của học giả người Nga và xem nó như kim  
chỉ nam cho cách hiểu của mình. Không ít  
lần, tác giả đề cập đến yếu tố tính lí thú hay  
kịch tính, một đặc điểm theo tác giả, không  
thể vắng bóng trong thể loại: “Một giai  
thoại, sở dĩ được gọi là giai thoại là do  
tính lí thú (intéressant, plaisant) tạo nên  
(…), một giai thoại mà không đem lại cho  
người ta cái cảm giác lí thú thì không còn  
là giai thoại (…). Điều mà Guxep gọi là  
tình tiết có sự tăng tiến tới cao điểm, và kết  
thúc bất ngờ, chính là nói đến tình huống lí  
thú của giai thoại. Hay nói khác đi, đó  
chính là kịch tính, dẫn câu chuyện tới chỗ  
thắt bút rồi bất ngờ mở nút, dẫn người  
nghe đến một khoái cảm thẩm mĩ cao độ,  
đầy hứng thú” [6, tr.31]. Ở một chỗ khác,  
tác giả cũng lưu ý một đặc trưng quan  
trọng khác của thể loại này, đó là tính đối  
thoại: “Hơn nữa, thông thường đã gọi là  
giai thoại thì phải có đối thoại, đối đáp  
(dialogue) giữa hai nhân vật” [6, tr.33].  
Như vậy, cách hiểu của Kiều Thu  
Hoạch nhìn chung, ch u ảnh hưởng trực  
tiếp từ quan niệm của Guxep, đặc biệt là  
yếu tố k ch tính hay tình huống lí thú. Mặt  
khác, tác giả cũng lưu ý một đặc điểm quan  
Cũng trong phần khải luận công trình  
Giai thoại văn học Việt Nam, Kiều Thu  
89  
trọng của thể loại, đó là tính đối thoại. Có  
thể nói, đây là đặc trưng rất quan trọng  
không chỉ vun đắp nên k ch tính của câu  
chuyện mà còn là vách ngăn khá tin cậy  
trong việc khu biệt với thể loại truyền  
thuyết. Trong truyền thuyết, không nhất  
thiết phải có đối đáp giữa các nhân vật;  
nhưng trong giai thoại, lời thoại của các  
nhân vật dù ngắn hay dài, dù là lời nói bình  
thường hay đối đáp bằng thơ ca uyên bác;  
cũng là yếu tố không thể thiếu vắng.  
Thu Hoạch.  
Thứ đến là vấn đề đặc trưng, bản chất  
của giai thoại. Chúng tôi đặc biệt chú ý các  
ý kiến của hai nhà nghiên cứu trên. Tuy  
nhiên, chúng tôi có phần thiên về quan  
điểm của Vũ Ngọc Khánh. Bởi lẽ, theo  
chúng tôi, những nhận xét của tác giả rất  
xác đáng với tình hình thể loại này ở nước  
ta. Chí ít là không đánh đồng khái niệm  
Đông, Tây cũng như không vô tình làm  
nghèo đi kho tàng giai thoại bằng việc rập  
khuôn lí thuyết. Những ý kiến ấy rải đều ở  
các khía cạnh quan trọng của thể loại.  
Nhưng nhìn chung, có thể tóm tắt toàn bộ  
tư tưởng của ông bằng cụm từ: tính lưỡng  
cực. Có thể thấy, về bất cứ đặc điểm nào  
(nội dung hay hình thức), tác giả đều cố  
gắng mở rộng biên giới vấn đề sang cả  
những điểm tưởng chừng như mãi là điểm  
đối lập không thể dung hợp. Đó là tính  
lưỡng cực về dung lượng (lớn hoặc nhỏ),  
tính lưỡng cực về trạng thái cảm xúc (bi -  
hài, buồn - vui…); tính lưỡng cực về kịch  
tính (có thể tồn tại hoặc vắng bóng)…  
Ở trên, chúng tôi vừa điểm qua cách  
hiểu thuật ngữ cũng như những đặc điểm  
cơ bản nhất của thể loại giai thoại trong  
quan niệm của các nhà nghiên cứu. Đến  
đây, chúng tôi xin đưa ra một vài nhận xét.  
Trước hết là sự tương tác của giai thoại  
với các thể loại tương cận. Trong quá trình  
vận động, phát triển; giai thoại có những  
điểm gần gũi với các thể loại tự sự khác  
như truyện cười, truyền thuyết. Cả truyện  
cười và giai thoại hài đều có tính lí thú ở  
tình huống ngày càng tăng tiến của nó.  
Nhưng để phân biệt và giải thích tại sao lại  
xếp một truyện vào một trong hai thể loại  
trên rõ ràng không phải là việc đơn giản.  
Lâu nay, chúng ta vẫn xem những mẩu  
chuyện xoay quanh các nhân vật Trạng  
Quỳnh, Xiển Ngộ, Ba Giai, Tú Xuất… là  
truyện cười. Thật khó để có thể thay đổi  
thực tế đó bằng sức mạnh của một phán  
đoán mang tính khẳng đ nh. Vấn đề này  
cần phải được nghiên cứu sâu hơn. Ở một  
khía cạnh khác, cả giai thoại l ch sử và  
truyền thuyết l ch sử đều vận dụng các yếu  
tố l ch sử để phản ánh. Tuy nhiên, nếu  
truyền thuyết l ch sử xem những cứ liệu  
l ch sử đó như là đối tượng chính yếu của  
sự phản ánh thì giai thoại l ch sử vận dụng  
chúng như một phương tiện để nhận thức.  
Điều này đã từng được đề cập trong các  
công trình của Vũ Ngọc Khánh và Kiều  
2.2. Tình hình phân loại thể loại  
giai thoại  
Trong tình hình hiện nay, chúng ta vẫn  
chưa tìm thấy sự thống nhất trong việc  
phân loại giai thoại từ các nhà nghiên cứu.  
Từ lí luận đến thực tiễn, các ý kiến vẫn  
thường trú trong những vách ngăn khó lòng  
tìm thấy điểm giao nhau. Một số tuyển tập  
dài hơi và có vẻ hệ thống của một số tác  
giả không ngăn được giềng mối ngờ vực từ  
tiếng gọi chân lí khoa học. Sự không thống  
nhất về mặt tiêu chí phân đ nh thể loại là  
điều dễ nhận thấy trong quan điểm của  
từng tác giả, thậm chí trong cùng một tác  
giả. Các sách tuyển tập giai thoại theo dạng  
thức tổng hợp, hoặc dạng thức vùng (đ a  
phương), theo loại hình nhân vật… đã lần  
lượt ra mắt bạn đọc. Chẳng hạn: Giai thoại  
90  
văn chương, Giai thoại văn nghệ, Giai  
thoại làng Nho, Giai thoại văn nghệ dân  
gian, Giai thoại Thăng Long, Giai thoại  
phụ nữ, Giai thoại xứ Lạng… Đó là chưa  
kể đến những quyển sách sưu tầm một cách  
dễ dãi, đánh đồng khái niệm giai thoại với  
một số thể loại tương cận như truyền  
thuyết hay truyện cười. Điều này, đã từng  
được lưu ý trong phần khải luận quyển  
Giai thoại văn học Việt Nam của Kiều Thu  
Hoạch (6).  
Rõ ràng, tính phức tạp của vấn đề là  
điều không thể phủ nhận. Trong công trình  
Mỹ học Folklore, chính Guxep cũng đã  
thừa nhận điều đó: “Các tiểu loại giai  
thoại chưa phân hoá rõ rệt” [2, tr.233].  
Bất chấp khó khăn trên, các nhà nghiên  
cứu trong nước cũng đã cố gắng đưa ra  
những kiến giải đáng trân trọng trong  
những nỗ lực nhằm giúp tình hình trở nên  
lành mạnh. Ở đây, chúng tôi chỉ xin phép  
điểm qua những ý kiến tiêu biểu nhất.  
Trong các công trình biên soạn về giai  
thoại, Vũ Ngọc Khánh đã chia giai thoại  
thành các tiểu loại sau: giai thoại văn học,  
giai thoại lịch sử và giai thoại folklore  
[7,19]. Trong khi đó, Kiều Thu Hoạch đề  
ngh  nhận dạng thể loại qua 2 tiểu loại  
chính yếu: giai thoại văn học và giai thoại  
lịch sử [6, tr.53]. Trong từng tiểu loại tác  
giả cho rằng: “Như giai thoại văn học có  
thể có nhóm giai thoại về các tác gia văn  
học, và có nhóm giai thoại về các sáng tác  
văn học khuyết danh, vô danh. Còn giai  
thoại lịch sử, thì có thể có nhóm giai thoại  
về danh nhân lịch sử, danh nhân văn hoá  
và nhóm giai thoại đi sứ”. [6, tr.53]. Gần  
đây, Nguyễn Th  Bích Hà nêu ý kiến chia  
giai thoại thành 3 tiểu loại: giai thoại văn  
học, giai thoại danh nhân và giai thoại  
cười” [3]. Cố nhiên, ý kiến của từng tác giả  
đều được đảm bảo bằng những điểm tựa  
riêng nhất đ nh. Và điểm chung của các  
cách chia trên là các tác giả đều ít nhiều  
căn cứ vào tiêu chí nhân vật hay nội dung  
cốt truyện.  
Chúng ta đều biết rằng giai thoại là cầu  
nối giữa l ch sử và truyền thuyết, và như  
một hệ lụy tất yếu, trong không ít trường  
hợp, ranh giới mong manh giữa giai thoại  
l ch sử và truyền thuyết l ch sử chỉ đơn  
thuần mang một ý nghĩa kỉ niệm nhiều hơn  
là điểm tựa để xác tín, khu biệt. Nhiều ý  
kiến cho rằng, giai thoại lịch sử là sự tục  
hoá nhân vật l ch sử, kéo nó xuống gần hơn  
với đời thường và hoá giải không khí  
thiêng liêng thống ngự trong số phận thể  
loại truyền thuyết lịch sử. Điều này cần  
được nghiên cứu một cách có hệ thống qua  
những minh chứng và lí giải công phu. Bên  
cạnh đó, một số điểm tương đồng trong  
việc phản ánh l ch sử cũng đã thu hẹp  
khoảng cách giữa hai thể loại. Trong nhiều  
trường hợp, thật khó có thể phân biệt một  
cách rõ ràng đâu là truyền thuyết và giai  
thoại l ch sử. Điều này đã được lưu ý và lí  
giải phần nào qua một số bài nghiên cứu.  
Với tất cả lí do trên, chúng tôi thấy rằng,  
không nên và không thể loại bỏ hẳn thuật  
ngữ lịch sử ra khỏi tên tiểu loại. Bởi lẽ,  
điều đó vô tình làm nhòe đi đặc trưng cốt  
lõi nhất của giai thoại trong sự đối sánh với  
truyền thuyết. Thế nên, cách hiểu xem  
“giai thoại danh nhân là những mẩu  
chuyện kể xung quanh những nhân vật nổi  
tiếng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, khiến  
cho ta hiểu họ một cách sinh động và giàu  
nhân văn hơn” [3], đã khai tử cho số phận  
của các nhân vật l ch sử, gộp nó lại trong  
một khái niệm rộng hơn, và điều này là  
không cần thiết.  
Ý kiến của Kiều Thu Hoạch tuy xác  
đáng nhưng cũng cần xem lại ở một số  
điểm. Chẳng hạn, nếu ta đồng tình với cách  
91  
chia như thế chẳng phải ta đã chấp nhận  
mất đi hàng loạt những giai thoại có liên  
quan đến lĩnh vực văn hoá, văn nghệ dân  
gian? Mặt khác, cách chia ấy cũng vô tình  
đánh rơi một tiểu loại quan trọng của giai  
thoại – giai thoại folklore (những giai thoại  
mang tính lí giải những câu phương ngôn,  
thành ngữ dân gian chẳng hạn: Bút Cấm  
Chỉ, sĩ Thiên Lộc; Nở đường Sau, đau chùa  
Dậu; Đít Lí Râu, đầu Án Cộng…). Đó là  
chưa kể đến giai thoại trào phúng, một thể  
loại gần với truyện cười mà chính trong  
công trình của mình, tác giả cũng khẳng  
đ nh về sự tồn tại của tiểu loại này (những  
giai thoại có liên quan đến những nhân vật  
gây cười quen thuộc như Ba Giai, Tú Xuất,  
Trạng Quỳnh, Xiển Ngộ…).  
Chúng tôi nhận thấy cách chia của Vũ  
Ngọc Khánh là đầy đủ và toàn diện hơn cả.  
Mặc dù về mặt thuật ngữ, tiểu loại giai  
thoại folklore có thể làm phát sinh những  
ngộ nhận, hiểu nhầm ngoài mong đợi. Tuy  
nhiên, cần nói thêm rằng, ngay trong từng  
tiểu loại cũng rất khó để có thể tìm thấy  
một khế ước chung mang tính qui chiếu  
một cách ổn đ nh để góp phần biệt lập các  
tiểu loại với nhau. Điều này đã được nhắc  
đến, phân tích trong hầu hết các ý kiến của  
các nhà nghiên cứu. Chẳng hạn, đâu là  
vách ngăn vi diệu để phân biệt mảng giai  
thoại đi sứ (thuộc giai thoại lịch sử) và giai  
thoại văn học, khi cả hai đều dựa vào sức  
mạnh trí tuệ về văn chương để làm nên tính  
hấp dẫn, lôi cuốn? Nói như Vũ Ngọc  
Khánh: “Đúng ra thì việc đi sứ thuộc hiện  
tượng lịch sử, nhưng hầu hết các cuộc giao  
thiệp này đều xoay quanh những câu  
chuyện đối đáp, thử tài (…). Trường hợp  
kể chuyện dồi dào nhất có lẽ là của Mạc  
Đĩnh Chi, thì toàn là câu đối và câu đối”  
[8, tr.38].  
chúng tôi, khó có thể tìm thấy lời giải đáp  
thỏa đáng nếu chúng ta chỉ quan tâm đến  
nhân vật và các sự kiện l ch sử. Chúng tôi  
muốn nhắc đến ý kiến của V.Ja Propp. Khi  
nhận xét về truyền thuyết l ch sử (trong  
phần Cơ cấu thành phần các thể loại  
Folklore), Propp cho rằng: “Ở đây, cần nói  
thêm rằng, sự có mặt của một tên tuổi nhân  
vật lịch sử chưa đủ xác định thể loại truyền  
thuyết lịch sử” [9, tr.340]. Do đó, suy rộng  
ra, chưa hẳn những giai thoại có liên quan  
đến các ông Trạng đi sứ đã là giai thoại  
l ch sử. Mặc dù, tính chất sử liệu của nó, từ  
nhân vật đến sự kiện, là điều không thể phủ  
nhận. Khi trình bày về các nguyên tắc phân  
loại folklore, Propp cũng khẳng đ nh:  
“Dấu hiệu được nêu lên phải phản ánh  
được những mặt bản chất của hiện tượng.  
Mục đích nghiên cứu quyết định xem cái gì  
là bản chất và cái gì không được xem là  
bản chất” [9, tr.317]. Theo Propp, đối với  
những thể loại khó phân đ nh rõ ràng, điều  
tiên quyết là ta phải tìm được đâu là yếu tố  
bền vững của nó để tiến hành phân loại:  
“Trong trường hợp ấy, ta có hai thể loại  
cùng sử dụng chung một cốt truyện. Điều  
đó có liên quan đến những yếu tố bền vững  
và những yếu tố thay đổi trong folklore nói  
chung” [9, tr.318]. Thế thì, một câu hỏi  
được đặt ra là: trong giai thoại đi sứ và  
giai thoại văn học; điểm chung, điểm bền  
vững của chúng là gì, và yếu tố nào bất  
biến, khả biến? Giải đáp được điều này,  
chúng ta phần nào trả lời được câu hỏi nên  
xếp mảng giai thoại đi sứ vào tiểu loại nào  
của giai thoại. Chúng ta thấy rằng, các  
nhân vật đi sứ có thể khác nhau về thời đại,  
xuất thân… nhưng họ đều là những người  
cơ trí, nhạy bén, có tài ứng phó, luôn hoàn  
thành những thử thách được đưa ra. Chuỗi  
giai thoại đi sứ của Mạc Đĩnh Chi là một  
minh chứng sinh động cho những trường  
Đây là vấn đề khá phức tạp, và theo  
92  
hợp như thế. Như vậy, yếu tố khả biến ở  
đây là yếu tố l ch sử, sự kiện, hoàn cảnh  
l ch sử. Còn yếu tố bất biến, không thể  
nghi ngờ gì thêm, là tài năng ứng phó của  
các nhân vật trong từng huống cảnh riêng  
biệt đó. Xét về mặt tư tưởng, các giai thoại  
này tuy có liên quan đến sự kiện l ch sử cụ  
thể (nơi chốn, thời gian, danh tính nhân  
vật…), nhưng phần cốt lõi nhất vẫn là phần  
văn học. Trong đó, yếu tố l ch sử đóng vai  
trò làm nền để làm nổi bật tính văn học,  
bác học của câu chuyện. Vả chăng, câu  
chuyện đi sứ phần lớn thuộc hành trạng cá  
nhân của nhân vật (có thể nêu cao tinh thần  
dân tộc), nhưng điểm đích, tức là mục đích  
cuối cùng, tính ứng dụng (hay chức năng)  
của nó, theo chúng tôi không thể gắn với  
mệnh hệ cộng đồng, dân tộc – nội hàm cơ  
bản nhất mà giai thoại l ch sử phải sở hữu.  
Chẳng hạn, nếu xâu chuỗi lại hàng loạt giai  
thoại đi sứ của Mạc Đĩnh Chi (Ra đối dễ,  
đối đối khó; Lưỡng quốc trạng nguyên;  
Bốn chữ nhất, Ruột vuông…) (6), ta có thể  
tìm thấy yếu tố vận mệnh nào của dân tộc  
được khúc xạ qua hàng loạt biến cố của  
nhân vật? Giai thoại Bốn chữ nhất 6) chẳng  
hạn. Vua nhà Nguyên đưa ra một thử thách  
khó khăn, hoàn thành bài văn tế khi chỉ có  
bốn chữ nhất trên tờ giấy trắng. Và với tài  
ứng phó tinh diệu, sở trường văn chương  
trác việt, Mạc Đĩnh Chi đã ứng khẩu đọc  
liền một mạch bài văn. Như vậy, ở đây, sự  
kiện nào là chính yếu? Đề tài đi sứ hay tài  
năng đối đáp văn chương. Mỗi quyết đ nh  
sẽ cho chúng ta một tiểu loại giai thoại:  
l ch sử và văn học. Phải chăng đây là  
trường hợp văn học hoá, bác học hoá các  
sự kiện l ch sử, mà cụ thể là việc đi sứ?  
Nếu chúng ta gạt đi những câu đối, bài thơ  
ra khỏi lãnh đ a giai thoại đi sứ, thì tất cả  
những gì còn lại, theo chúng tôi, không gì  
khác hơn những sự kiện l ch sử đơn thuần.  
Và các giai thoại đó sẽ mất đi tính lí thú  
vốn có của chúng. Do đó, nếu căn cứ vào  
đặc trưng tính bác học, văn học (hay yếu tố  
bất biến của cốt truyện), chúng tôi đề ngh  
xếp giai thoại đi sứ vào tiểu loại giai thoại  
văn học, xem nó như một dạng thức đặc  
biệt của tiểu loại này.  
3. KẾT LUẬN  
Vấn đề lí thuyết thể loại giai thoại,  
chắc hẳn cần nghiên cứu nhiều hơn, nếu  
không muốn nói đến sự cần thiết phải hiện  
thực hoá nó qua một công trình mang tính  
chuyên sâu, khoa học. Soi chiếu điều này  
trong tình hình hiện tại, càng thấy được  
tính bức thiết không chỉ về mặt lí luận mà  
còn cả tính thực tiễn.  
Trong điều kiện hạn hữu về mặt tư  
liệu, chúng tôi đã cố gắng khái quát lại  
cách nhìn nhận thể loại ở các khía cạnh:  
khái niệm, đặc trưng và vấn đề phân loại  
thể loại. Trong chừng mực cho phép,  
chúng tôi cũng đã đưa ra những nhận xét,  
đề ngh  ban đầu. Chung qui lại, chúng tôi  
có một số nhận xét về thể loại giai thoại  
như sau:  
1. Giai thoại là một thể loại thuộc loại  
hình tự sự dân gian. Và trong quá trình  
phát triển, thể loại này có những điểm gần  
gũi với các thể loại tự sự khác như truyện  
cười, truyền thuyết.  
2. Không thể đồng tình với quan điểm  
cho rằng giai thoại của chúng ta tương  
đương với thuật ngữ anecdote của phương  
Tây. Bởi lẽ, về mặt nội hàm, giai thoại Việt  
Nam rộng hơn thuật ngữ trên.  
3. Về mặt hình thức, không thể căn cứ  
vào dung lượng để tiến hành phân đ nh thể  
loại. Giai thoại đa phần là ngắn, nhưng  
cũng không loại trừ trường hợp có những  
giai thoại dài. Ở đây, chỉ nên căn cứ vào  
cốt truyện. Dù ngắn hay dài, giai thoại  
trước hết phải có cốt truyện, có nhân vật  
93  
trung tâm và các tình tiết xoay quanh nhân  
vật ấy.  
văn học nếu căn cứ vào tính văn chương,  
bác học của nó.  
4. Giai thoại có cả bi hài, nhiều cung  
bậc tình cảm khác nhau chứ không nhất  
thiết lúc nào cũng phải có tính hài để tạo  
nên tính lí thú. Tính lí thú có mặt ở hầu hết  
các thể loại tự sự dân gian chứ không riêng  
gì thể loại giai thoại.  
5. Về vấn đề phân loại giai thoại,  
chúng tôi đồng tình với quan điểm của Vũ  
Ngọc Khánh. Giai thoại bao gồm 3 tiểu  
loại cơ bản: giai thoại văn học, giai thoại  
l ch sử và giai thoại folklore. Riêng nhóm  
giai thoại đi sứ, chúng tôi đề ngh  xếp  
thành một tiểu loại đặc biệt của giai thoại  
Trong tình hình hiện tại, nghiên cứu  
đặc trưng, bản chất thể loại giai thoại là  
việc làm cần thiết nhưng không hề giản  
đơn. Cố nhiên, để có thể hoàn thành yêu  
cầu đó, đòi hỏi phải lí giải một cách thấu  
đáo những tương đồng và d  biệt giữa giai  
thoại với các thể loại khác như truyện cười,  
truyền thuyết. Bởi lẽ, nói như Propp:  
“Nghiên cứu từng thể loại riêng rẽ tách rời  
khỏi những thể loại khác, thì không thể nào  
làm sáng rõ được tính chất phong phú và  
đa dạng của folklore mỗi dân tộc”  
[9, tr.314].  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
Cao Huy Đỉnh, Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam (1976), Nxb Khoa  
1.  
học xã hội.  
2.  
3.  
Guxep, Mỹ học folklore (1999), Hoàng Ngọc Hiến d ch, Nxb Đà Nẵng.  
Nguyễn Th  Bích Hà, Giai thoại – một thể loại văn học dân gian  
4.  
5.  
Hoàng Ngọc Phách và Kiều Thu Hoạch sưu tầm, Trần Thanh Mại giới thiệu (1965),  
Giai thoại văn học Việt Nam, Nxb Văn học.  
Hoàng Ngọc Phách và Kiều Thu Hoạch sưu tầm, biên soạn, in lần thứ 2 (1988),  
Giai thoại văn học Việt Nam, Nxb Văn học.  
6.  
7.  
8.  
9.  
Kiều Thu Hoạch, Giai thoại văn học Việt Nam (2004), Nxb Khoa học xã hội.  
Vũ Ngọc Khánh, Kho tàng giai thoại Việt Nam (1994), Tập 1, Nxb Văn hóa.  
Vũ Ngọc Khánh, Giai thoại folklore Việt Nam (1996), Nxb Khoa học xã hội.  
V. Ja Propp, Tuyển tập V. Ja Propp (2004), tập 2, Nxb Văn hoá dân tộc, Tạp chí Văn  
hóa Nghệ thuật.  
10. Nhiều tác giả, Từ điển Văn học (2004), Nxb Thế giới.  
* Ngày nhận bài: 3/1/2014. Biên tập xong: 15/5/2014. Duyệt đăng:  
94  
pdf 11 trang Hứa Trọng Đạt 09/01/2024 600
Bạn đang xem tài liệu "Giai thoại – Đặc điểm và bản chất thể loại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfgiai_thoai_dac_diem_va_ban_chat_the_loai.pdf