Kiều Thanh Quế với những công trình ra đời trong thời gian bị quản thúc ở Cần Thơ
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (259) 2020
23
KIỀU THANH QUẾ VỚI NHỮNG CÔNG TRÌNH RA ĐỜI
TRONG THỜI GIAN BỊ QUẢN THÚC Ở CẦN THƠ
HUỲNH THỊ LAN PHƢƠNG*
NGUYỄN VĂN NỞ**
Kiều Thanh Quế là nhà phê bình, nghiên cứu văn học tiêu biểu ở Nam Bộ vào
những năm đầu thế kỷ XX. Ông là một người yêu nước, từng tham gia các hoạt
động cứu nước, có thái độ căm ghét cường quyền và từng bị quản thúc tại Cần
Thơ. Cần Thơ đã trở thành vùng đất nặng ân tình với ông. Trên xứ sở Cầm Thi,
trong những ngày bị chính quyền đương thời theo dõi, kìm kẹp ông đã đạt được
nhiều thành tựu trong sự nghiệp cầm bút. Đất, người Cần Thơ đã lưu dấu ấn
trong các công trình nghiên cứu của ông.
Những công trình, bài báo ra đời trong thời gian Kiều Thanh Quế ở Cần Thơ đã
thể hiện tấm lòng, tài năng của một người say mê văn học, miệt mài cống hiến
vì sự nghiệp phát triển văn hóa dân tộc. Tuy vẫn còn đâu đó hạn chế nhất định,
nhưng các công trình ấy vẫn đủ để chứng minh thời gian ở Cần Thơ là thời gian
Kiều Thanh Quế viết sung sức nhất và có nhiều đóng góp cho sự nghiệp nghiên
cứu, phê bình ở buổi bình minh của văn học quốc ngữ.
Từ khóa: Kiều Thanh Quế, Tây Đô văn đoàn, quản thúc, văn học quốc ngữ
Nhận bài ngày: 12/12/2019; đưa vào biên tập: 15/12/2019; phản biện: 20/1/2020;
duyệt đăng: 15/3/2020
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
báo chí phù du. Đôi khi ngƣời ta có
những sáng kiến, đi những bƣớc tiên
phong táo bạo, nhƣng mà thiếu tiềm
lực ở giới viết cũng nhƣ giới đọc để
nuôi dƣỡng cho thành phong trào phát
tỏa ra toàn quốc” (Phạm Thế Ngũ
1965: 629), Kiều Thanh Quế đã xuất
hiện nhƣ một ngôi sao sáng của văn
học Nam Bộ. Ông trở thành “nhà phê
bình văn học hiếm có của Nam Bộ”
(Hoài Anh, 2001: 923-939). Sự nghiệp
viết văn của Kiều Thanh Quế song
hành cùng những biến thiên của lịch
sử dân tộc, có những khúc quanh
nhƣng đã lên đƣợc đỉnh cao. Ông trở
Phê bình, khảo cứu, nghiên cứu văn
học là những hoạt động không thể
thiếu trong lịch sử phát triển văn học
của mọi quốc gia trên thế giới. Văn
học Việt Nam không ngoại lệ. Vào thời
kỳ đầu của văn học hiện đại, Nam Bộ
đi tiên phong trong lĩnh vực sáng tác
nhƣng chƣa có thành tựu cao về
nghiên cứu, phê bình văn học. Trong
bối cảnh văn học Nam Bộ bị cho là:
“thƣờng chỉ nở ra bề mặt, trên một
*, ** Trƣờng Đại học Cần Thơ.
HUỲNH THỊ LAN PHƢƠNG - NGUYỄN VĂN NỞ – KIỀU THANH QUẾ…
24
thành ngƣời “có công đối với sự phát Câu ca dao quen thuộc ấy, theo thời
triển của phê bình văn học Việt Nam gian đã đi vào tâm thức ngƣời Việt,
đầu thế kỷ XX” (Nguyễn Hữu Sơn - nhƣ chào mời, vẫy gọi những ai chƣa
Phan Mạnh Hùng, 2009: 3).
từng đến vùng đất này. Chắc hẳn,
Cần Thơ có sức mời gọi lớn, mà cũng
rất biết lƣu tình. Và năm 1940, Kiều
Thanh Quế đã đến, nhƣng không vì
nhu cầu để đƣợc khám phá vẻ đẹp
sông nƣớc miền Tây, hay tìm cảm
hứng sáng tác. Ông đã bị nhà cầm
quyền Pháp cƣỡng bức đến đây, phải
chịu sự quản thúc gắt gao của kẻ thù.
Vốn sinh trƣởng trong một gia đình
giàu lòng yêu nƣớc, có nhiều ngƣời
tham gia cứu nƣớc, ở Bà Rịa - Vũng
Tàu, bản thân ông cũng từng tham gia
các tổ chức yêu nƣớc trong thời gian
học ở Sài Gòn. Tuổi trẻ, tính cƣơng
trực, nỗi bất bình về những chuyện
phi lý trong xã hội đã dẫn ông đến chỗ
xích mích với tên sếp chợ ngƣời Ấn,
quốc tịch Pháp, khiến nhà chức trách
đƣơng thời phải tìm cách đối phó.
Nào ngờ đó lại là cái “duyên”, đƣa đẩy
ông đến với đất và ngƣời Cần Thơ.
Cái “duyên” bất đắc dĩ ấy lại tạo nên
những kỷ niệm đẹp, những ấn tƣợng
sâu sắc trong cuộc đời viết văn của
ông.
2. CƠ DUYÊN VỚI CẦN THƠ VÀ
TÂM TÀI CỦA KIỀU THANH QUẾ
“Hoàn cảnh và phong thổ đào tạo nên
một thiên tài”, một tiêu đề trong “Thi
hào Tagore” của Kiều Thanh Quế có
ghi nhƣ thế. Đúng nhƣ vậy. Không chỉ
với trƣờng hợp của Tagore, mà còn là
của nhiều ngƣời. Biết rằng chƣa thể
nói Kiều Thanh Quế là thiên tài nhƣng
vẫn phải thừa nhận năng lực ngòi bút
của ông. Hoàn cảnh, môi trƣờng
khách quan cũng đã tác động nhiều
đến sự thành ông của Kiều Thanh
Quế. Bị cƣỡng bức xuống Cần Thơ,
sống trong vòng quản thúc của chính
quyền Pháp, phải chăng đã làm nên
một “hoàn cảnh” đặc biệt! Đất và
ngƣời Cần Thơ đã giúp ông phát triển
văn tài. Những “hạt giống” ý tƣởng đã
gặp “phong thổ” thích hợp, nhanh
chóng nảy mầm, từ đó tạo nên nhiều
công trình có đóng góp lớn cho văn
học Nam Bộ. Cần Thơ với cuộc đời
cầm bút của Kiều Thanh Quế chắc
hẳn rất nhiều ân tình, kỷ niệm khó
phai, là nơi đã đem lại cho ông “thời
kỳ viết sung sức nhất trong quãng đời
sáng tạo ngắn ngủi của mình”
(Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh Hùng,
2009: 3).
Những năm đầu của thập niên 40, ở
thế kỷ trƣớc, không khí chính trị có
nhiều phức tạp nhƣng lại hâm nóng
đƣợc ý thức dân tộc ở tầng lớp trí
thức Việt Nam, trong đó có trí thức
Nam Bộ, đặc biệt là những ngƣời cầm
bút. Họ xông xáo lao vào nhiều hoạt
động văn hóa, xã hội, muốn góp sức
cho sự phát triển văn hóa dân tộc, vì
lợi ích quốc gia.
2.1. “Duyên tình” của đất và ngƣời
Cần Thơ đối với Kiều Thanh Quế
Cần Thơ gạo trắng nước trong
Ai đi đến đó lòng không muốn về.
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (259) 2020
25
Nhiều sinh hoạt văn hóa, văn học diễn xuất hiện trong thời gian này. Đây là
ra trong thời gian này, nhƣ tuần lễ một tổ chức tập hợp đƣợc nhiều trí
triển lãm sách báo ở Sài Gòn, năm
1942, do nhà sách Nguyễn Khánh
Đàm tổ chức, có bình chọn 10 quyển
sách quốc văn có giá trị nhất (Nho
giáo của Trần Trọng Kim đƣợc xếp
hạng nhất, Truyện Kiều đứng thứ hai).
Báo Tri Tân tổ chức thi về sử khảo.
Giải nhất thuộc về Trần Văn Hai với
bài Lãnh sự Việt Nam ở Sài Gòn.
thức nặng tình với quê hƣơng, chân
tâm với văn học nƣớc nhà và có trách
nhiệm lớn với văn hóa dân tộc. Theo
nguồn tƣ liệu từ Nam Phong tạp chí,
số 141, tháng 8/1929, buổi đầu, hội
chỉ là hội học, hội viên đƣợc 20 ngƣời.
Về sau, từ khi bác sĩ Lê Văn Ngôn làm
Hội trƣởng, số hội viên tăng lên đƣợc
123 ngƣời. Hội đã quy tụ đƣợc nhiều
ngƣời tài năng nhƣ giáo sƣ Nguyễn
Văn Kiết (tức Tây Đô cát sĩ), Trực
Thần, Lê Đằng Côn, họa sĩ Nguyễn
Văn Mƣời… Hội đã lập nhóm Tây Đô
văn đoàn có sự tham gia của các
thành viên nhƣ Tố Phang (tức Thuần
Phong), Khuông Việt, Trúc Đình. Năm
1941, nhóm đã tổ chức quyên tiền xây
mộ cụ Thủ khoa Nghĩa ở Bình Thủy
(Cần Thơ), tổ chức giải thƣởng Thủ
khoa Nghĩa. Ngày 24/6/1944 phát giải
thƣởng hạng nhất cho tác phẩm Đồng
quê của Phi Vân và truyện Năm người
thanh niên của Nguyễn Ngọc Tân.
Sinh hoạt văn học ở Nam Bộ lúc đó
trở nên khởi sắc. Đấy là nhờ sự hỗ trợ,
khích lệ của các hội Khuyến học.
Những tổ chức mang tính chính quy,
hợp pháp thời bấy giờ có chức năng
điều hành nhiều sinh hoạt văn hóa.
Đáng chú ý là những ngƣời đứng đầu
của tổ chức ấy thƣờng quan tâm đến
hoạt động văn học nghệ thuật. Họ
mong muốn làm gì đó để thúc đẩy văn
học nƣớc nhà phát triển mạnh. Hội
Khuyến học trung ƣơng, dƣới sự điều
hành của giáo sƣ Đoàn Quang Tấn,
treo giải thƣởng cho sáng tác văn
chƣơng hàng năm. Đầu năm 1942 có
phát giải và giải nhất dành cho tiểu
thuyết Chổng con của Trần Tiêu.
Nhiều lễ kỷ niệm về các nhà thơ lớn
nhƣ Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu
đƣợc tổ chức long trọng, trong tình
cảm dạt dào, mang đến cho mọi
ngƣời những niềm xúc động khó tả.
Thời gian bị quản thúc ở Cần Thơ,
Kiều Thanh Quế có thể bức bối vì
hoàn cảnh bị kẻ thù o ép, nhƣng đây
là thời điểm ông đƣợc sống với không
khí của “sự trỗi dậy của văn học miền
Nam” (Phạm Thế Ngũ 1965: 629).
Ông đã không đứng ngoài cuộc các
phong trào. Ông là thành viên của Tây
Đô văn đoàn. Tháng ngày “nhàn hạ
bất đắc dĩ” (từ dùng của Bằng Giang
Không khí văn chƣơng, học thuật sôi
nổi ấy lan tỏa xuống tận Cần Thơ. Xứ
sở đó, với dòng sông Hậu hiền hòa, 1974: 177) ở Cần Thơ đã đƣa ông
đã nuôi dƣỡng đƣợc bao tâm hồn thơ, đến với những cuộc diện kiến, làm
rèn đúc nên nhiều cây bút văn tài quen, rồi thân thiết với nhiều trí thức,
năng. Hội Khuyến học Cần Thơ đã
học giả Tây Đô. Giáo sƣ Nguyễn Văn
HUỲNH THỊ LAN PHƢƠNG - NGUYỄN VĂN NỞ – KIỀU THANH QUẾ…
26
Kiết, cũng là thành viên của nhóm Tây thức khá ấu trĩ hoặc ở tác phẩm tiểu
Đô văn đoàn, là một trong những thuyết cho một công chúng hạ lƣu dễ
ngƣời hỗ trợ ông đắc lực, giúp ông dãi. Những ngƣời thức giả lƣu tâm
nhập cuộc với những sinh hoạt văn đến quốc văn sau đó lại phải quay ra
học sôi nổi ở Cần Thơ bấy giờ. Sống miền Bắc để đón tiếp những sáng tác
trong vòng kiểm soát gắt gao của kẻ mới cũng nhƣ phong trào văn học
thù, không thể nào yêu nƣớc bằng mới” (Phạm Thế Ngũ, 1965: 85). Sống
các hoạt động chính trị, cũng nhƣ giữa những ngày tháng Nam Bộ khởi
nhiều nhà yêu nƣớc khác cùng thời, sắc hoạt động văn học, thời gian ở
ông quay sang hoạt động văn hóa, Cần Thơ có lẽ cũng là những ngày
học thuật, luôn dõi theo thời sự văn Kiều Thanh Quế phấn chấn, hào hứng
học nƣớc nhà.
nhất, tràn ngập niềm tin vào tƣơng lai
của văn học nƣớc nhà. Để rồi sau đó,
khi nhìn lại, tổng kết thành tựu đã đạt,
Kiều Thanh Quế vui sƣớng reo lên
trên báo Tri Tân, số Xuân Giáp Thân:
“Thật là những bƣớc đầu khả quan,
những ngày tới có thể đầy hứa hẹn
xán lạn” (dẫn theo Phạm Thế Ngũ
1965: 631). Những ngày bị quản thúc,
mỗi bƣớc chân đều có mật thám theo
dõi, nhƣng hình nhƣ, sự kiềm tỏa của
kẻ thù không làm tắt đƣợc ngọn lửa
đam mê nghiên cứu trong Kiều Thanh
Quế. Nặng nợ văn chƣơng từ trƣớc,
có sẵn một tấm lòng với nền văn hóa,
văn học nƣớc nhà, đƣợc sự hỗ trợ
của bao bạn bè thân quen, đặc biệt là
nhóm Văn đoàn Tây Đô, đến Cần
Thơ, Kiều Thanh Quế nhƣ “Tái ông
thất mã”, đƣợc tận dụng nhiều cơ hội.
Ngƣời cung cấp tƣ liệu quý, có cả tƣ
liệu từ nƣớc ngoài mang về, theo
Bằng Giang đó là Tây Đô Cát Sĩ, tức
giáo sƣ Nguyễn Văn Kiết. Ông đã cho
Kiều Thanh Quế mƣợn tất cả tài liệu
nƣớc ngoài viết về Tagore, đồng thời
cũng là ngƣời chở che, bảo bọc trong
sinh hoạt đời thƣờng. Lúc mới đến
Tây Đô văn đoàn tạo nhiều thuận lợi
để ngòi bút của ông thả sức. Tài năng
Kiều Thanh Quế đƣợc phát tiết mạnh
nhất vào lúc này. Ông trở thành cộng
tác viên Nam Bộ nổi bật nhất của báo
Tri Tân cũng từ thời gian đó. Đến nhƣ
Phạm Thế Ngũ, một ngƣời ít có
những đánh giá cao về văn học Nam
Bô, nhất là văn học trong buổi đầu
hình thành văn học quốc ngữ, còn
phải thốt lên rằng: “ngay từ năm 1941,
miền Nam đã cung cấp cho Tạp chí
Tri Tân những cây bút khảo luận xuất
sắc: Lê Thọ Xuân, Tố Phang, Kiều
Thanh Quế” (Phạm Thế Ngũ, 1965:
630). Nói điều này vì Phạm Thế Ngũ
từng nhận định: “Gia Định là đất mới.
Dân chúng vừa thƣa ít, vừa chƣa
đƣợc thuần nhất. Luống cày Nho gia
chƣa đào xới đƣợc sâu thì ngƣời
Pháp đến. Sự sáng tác văn học, sự
ƣa chuộng văn chƣơng, sự trồng trọt thi
văn ở đây chƣa có truyền thống sâu
xa, nên kém tiềm lực, kém khả năng…
Quốc văn do đó trong nhiều năm về
sau ở Nam Kỳ chỉ bày tỏ trong hình
thức báo chí phổ thông, với trình độ trí
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (259) 2020
27
Cần Thơ, Kiều Thanh Quế phải ở trọ nhà đại thi hào Tagore, ngƣời duy
nhà ngƣời quen, nhiều bất tiện, vất nhất ở Ấn Độ bấy giờ đƣợc giải Nobel
vả. Ông Ôn Văn Hy, làm việc tại Ty Y văn chƣơng. Lúc Kiều Thanh Quế ở
tế Cần Thơ, hiểu rõ hoàn cảnh của Cần Thơ, thi hào Tagore qua đời
Kiều Thanh Quế, cảm kích chàng (tháng 8/1941). Sự kiện đó đã khơi
thanh niên khí khái, đã đƣa ông về nhà
dậy cảm hứng cho Kiều Thanh Quế.
ở, để đƣợc rộng rãi thoải mái hơn. Thi hào Tagore từng đƣợc Mạnh
Đất, ngƣời Cần Thơ hiền hòa, chân Phan đánh giá cao: “Sách viết rất
tình, không chỉ chở che mà còn hỗ
trợ, kích thích tài năng cùng niềm đam
mê của Kiều Thanh Quế. Tài năng và
niềm đam mê ấy cứ lớn mãi trong
hoàn cảnh khắc nghiệt nhất, bởi sự
kiềm kẹp của kẻ thù. Để rồi, vừa thoát
khỏi sự quản thúc, về Sài Gòn, nó đã
nhanh chóng kết thành “hoa trái”. Kiều
Thanh Quế đƣợc xuất bản liên tục các
công trình lớn, mang tính chuyên sâu
nhƣ: Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam
(1943), Thi hào Tagore (1943), Học
thuyết Freud (1943)… Riêng Thi hào
Tagore đƣợc biết chắc chắn là đã viết
tại Cần Thơ nhƣng lên Sài Gòn, năm
1943 ông mới cho xuất bản.
công phu và dày công khảo cứu: đáng
khen. Tác giả đã dùng một phƣơng
pháp rành mạch phân tích thơ Tagore
để cố hiểu nhà đại thi hào ấy của Ấn
Độ. Nhiều tài liệu của tác giả phần
nhiều chƣa ai nói đến bằng Quốc văn.
Tác giả đã đọc đƣợc nhiều bản dịch
thơ Tagore bằng Pháp văn nên
thƣờng dẫn chứng để độc giả dễ hiểu.
Thật là một cuốn sách dày có thể
khiến độc giả thấu rõ tâm hồn huyền
bí và cao cả của Tagore…” (dẫn theo
Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh Hùng,
2009: 23). Thi hào Tagore của Kiều
Thanh Quế quả là một đóng góp đáng
ghi nhận trong lịch sử nghiên cứu, phê
bình, khảo cứu lúc bấy giờ, nhất là
trên vùng đất Nam Bộ, nơi chƣa có đủ
thời gian để làm nên bề dày văn hóa,
truyền thống văn học. Nơi từng bị coi
là không có đƣợc “hoàn cảnh thuận
lợi cho sự phát triển của văn học, nhất
là văn học quốc gia”, “sự trồng trọt thi
văn ở đây chƣa có truyền thống sâu
xa, nên kém tiềm lực, kém khả năng”
(Phạm Thế Ngũ, 1965: 85).
Ân tình với ngƣời Cần Thơ rất sâu
đậm. Tác phẩm Thi hào Tagore đƣợc
ký tên Nguyễn Văn Hai. Đƣợc biết là
tên con trai của vị ân nhân đã cƣu
mang tác giả trong thời gian sống
cảnh cá chậu chim lồng (Tây Đô cát sĩ
Nguyễn Văn Kiết). Nguyễn Văn Hai
cũng là ngƣời giúp Kiều Thanh Quế
rất nhiều trong việc dịch các tài liệu về
Tagore. Đây có thể coi là món quà tri
ân vô giá dành cho ngƣời nghĩa. Bởi Cần Thơ lƣu giữ bƣớc chân Kiều
Thi hào Tagore đã đƣợc Kiều Thanh
Thanh Quế không quá lâu. Ông bị đƣa
Quế dụng công nghiên cứu. Những về đây từ năm 1940. Đến cuối năm
dòng chữ đƣợc tuôn ra từ trái tim tràn 1942, đƣợc miễn quản thúc, ông lên
đầy tình cảm yêu thƣơng, mến mộ
Sài Gòn. Cần Thơ đã tạo cơ hội tốt để
HUỲNH THỊ LAN PHƢƠNG - NGUYỄN VĂN NỞ – KIỀU THANH QUẾ…
28
ông ấp ủ nhiều ý tƣởng, dõi theo từng “tâm hồn” bình thƣờng, mà là tâm hồn
bƣớc đi của văn học nƣớc nhà. Cần lớn. Tâm hồn của nhà phê bình tài
Thơ đã có “duyên”, đƣợc che chở bảo năng nhiều tâm huyết của ngƣời trí
bọc ngƣời tài. Và Kiều Thanh Quế lại thức yêu nƣớc chân chính.
có “tình” nên mãi vƣơng vấn về Cần
2.2. Tâm và tài của Kiều Thanh Quế
Thơ. Ngoài trƣờng hợp Thi hào
qua những công trình đƣợc xuất
Tagore, khi cho xuất bản Học thuyết
bản lúc tác giả ở Cần Thơ
Freud, nhà xuất bản Tân Việt Hà Nội,
Nhƣ đã trình bày ở phần trên, căn cứ
năm 1943, lại một lần nữa ông bày tỏ
vào nguồn tƣ liệu đƣợc sƣu tầm và
tình cảm với Cần Thơ. Dòng cuối của
giới thiệu trong quyển Cuộc tiến hóa
quyển sách, ông có ghi: “Can Tho-
văn học Việt Nam do Nguyễn Hữu
BaRia”. Chỉ là mấy từ ngắn ngủi thôi
Sơn, Phan Mạnh Hùng biên soạn
nhƣng nó chứa đựng bao điều sâu xa.
(Nhà xuất bản Thanh niên xuất bản
Cần Thơ đƣợc đặt ngang với Bà Rịa
năm 2009), bên cạnh sự ra đời của
là nơi chôn nhau cắt rốn của ông. Dấu
Thi hào Tagore, các chuyên khảo
gạch nối đầy ý nghĩa nhƣ muốn thay
khác nhƣ: Ba mươi năm văn học
lời Kiều Thanh Quế cảm ơn Cần Thơ,
(1941), Phê bình văn học (1942) cũng
tri ân Cần Thơ. Không “sinh” nhƣng
đƣợc xuất bản trong khoảng thời gian
Cần Thơ đã “dƣỡng” cả thể xác và
Kiều Thanh Quế ở Cần Thơ. Có thể,
tâm hồn con ngƣời yêu nƣớc, nặng
những tác phẩm nói trên đã đƣợc viết
tình với văn chƣơng. “Nƣớc trong”
từ trƣớc đó nhƣng đến thời gian này
của Cần Thơ đã làm trôi đi mọi bức
mới đƣợc xuất bản. Dù thế nào đi
bối do kẻ thù mang đến, đƣa ông về
chăng nữa, thành tựu kể trên đã đến
với niềm đam mê hoạt động học thuật.
với Kiều Thanh Quế lúc đang ở Cần
“Gạo trắng” Cần Thơ tiếp sức cho
Thơ. Chắc chắn, kết quả ấy đã tạo
khát vọng đóng góp vì sự nghiệp văn
học nƣớc nhà. Ân tình ấy Kiều Thanh
Quế không thể nào quên! Lấy tên một
ngƣời Cần Thơ để ký khi viết Thi hào
Tagore chỉ là trả ân ngƣời nghĩa.
Ghép chung hai địa danh Cantho-
Baria thành một dòng mới là khắc sâu
ân tình với vùng đất, đã từng cƣu
mang ông lúc hoạn nạn, tiếp nguồn
cảm hứng ông trong cảnh nguy nan.
Đúng nhƣ điều mà Chế Lan Viên đã
nên những dấu ấn kỷ niệm khó phai
trong ông, lúc sinh thời, khi nhớ về
Cần Thơ. Chúng tôi không xem đây là
công trình đƣợc ra đời khi Kiều Thanh
Quế ở Cần Thơ. Chỉ muốn nhắc đến
những thành tựu mà Kiều Thanh Quế
đón nhận đƣợc trong những ngày bị
quản thúc, để nhân đó, bàn đến tâm
và tài của ông. Sáng tác trƣớc, trong
hay sau khi rời khỏi Cần Thơ không
phải là yếu tố quan trọng làm nên tâm,
chiêm nghiệm: “Khi ta ở, chỉ là nơi đất tài của Kiều Thanh Quế. Bởi cái tâm,
ở. Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn”. Với cái tài đƣợc thể hiện xuyên suốt trong
mọi công trình của tác giả. Vì thế,
Kiều Thanh Quế, không chỉ là một
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (259) 2020
29
chọn một vài công trình tiêu biểu, có nên chất tài hoa cho ngƣời cầm bút.
những liên hệ với thời gian và không
gian đặc biệt, những ngày tháng sống
tại Cần Thơ, để cảm nhận đóng góp
quý báu của Kiều Thanh Quế là
chuyện khả dĩ. Mặt khác, việc làm này
còn góp phần khơi rõ hơn dấu ấn Cần
Thơ trên những công trình nghiên cứu
văn học của Kiều Thanh Quế.
Nhƣng chính cái tâm mới xui khiến
đƣợc lòng nhiệt thành, cống hiến hết
mình cho sự nghiệp chung. Kiều
Thanh Quế đọc rất nhiều sách, báo.
Từ thơ đến văn xuôi; từ văn chƣơng
nghệ thuật đến báo chí, biên khảo; từ
tác phẩm văn học Việt Nam đến văn
học Trung Quốc, văn học của nhiều
nƣớc phƣơng Tây, đặc biệt là văn học
Pháp. Dƣờng nhƣ ông không muốn
bỏ qua một tiếng động nhẹ nào trong
từng bƣớc đi của văn học nƣớc nhà.
Không chỉ đọc mà Kiều Thanh Quế
Duyên, tình với đất Cần Thơ, qua hai
trƣờng hợp trình bày trong mục trên
đã đủ để ghi nhận. Một lần nữa, có
thể khẳng định rằng: đất và ngƣời
Cần Thơ đã trực tiếp hoặc gián tiếp
hỗ trợ Kiều Thanh Quế giữ đƣợc ngọn còn có đƣợc những cảm nhận tinh tế,
lửa đam mê nghiên cứu không bị gián những đánh giá khá xác thực. Cái tâm
đoạn. Cho nên, dù ở trong Nam xa xôi,
có nhiều trở ngại, Kiều Thanh Quế
vẫn cộng tác đắc lực cho báo Tri Tân
(ông bắt đầu tham gia báo Tri Tân từ
số 23, ngày 14/11/1941), có thêm
nhiều bài nghiên cứu, phê bình, góp
tiếng nói thể hiện quan điểm, tƣ tƣởng,
cách cảm nhận về văn học nƣớc nhà
và văn học của nhiều nƣớc khác.
của ông là cái tâm của nhà phê bình
không chỉ say mê mà còn có trách
nhiệm lớn với nền văn học dân tộc.
Với ý thức trách nhiệm, ông mong
muốn lƣu giữ những thông tin để đời
sau có cơ sở nghiên cứu văn học sử.
Ông đã bỏ nhiều công sức để làm một
cuộc “tính sổ văn học”, cho ra đời Ba
mươi năm văn học, vì nghĩ rằng “sẽ
khó khăn biết bao nhiêu sau này cho
nhà văn học sử, nếu ông ta muốn tìm
mà không ra một bản thống kê văn
học quốc ngữ trong vòng ba mƣơi
năm nay” (dẫn theo Nguyễn Hữu Sơn -
Phan Mạnh Hùng, 2009: 174). Kiều
Thanh Quế cũng quan niệm cái tâm
của ngƣời cầm bút là rất quan trọng.
Không chỉ đối với nhà phê bình, mà cả
ở ngƣời sáng tác. Theo ông, “không
có văn tâm thời không thể nào làm
đƣợc một bài đoản thiên tiểu thuyết
đúng điệu và hay đƣợc, dẫu cho
chuyện có hay đi mấy cũng mặc” (dẫn
Muốn hiểu nỗi lòng ngƣời nghệ sĩ
sáng tác hãy đi vào thế giới ngôn từ,
thế giới hình tƣợng trong tác phẩm.
Muốn biết rõ tâm tình nhà phê bình
hãy bắt đầu từ những trang văn của
họ. Cũng nhƣ ngƣời sáng tác, nhà
phê bình chân chính khi cầm bút, ắt
không khỏi ký ngụ tâm chí, hoài bão,
ƣớc mơ. Kiều Thanh Quế là nhà phê
bình nhƣ thế. Những công trình
nghiên cứu của ông thể hiện niềm say
mê văn chƣơng, say mê nghiên cứu,
tìm tòi, nhạy bén với mọi biến thiên
của văn học. Niềm say mê có thể làm
HUỲNH THỊ LAN PHƢƠNG - NGUYỄN VĂN NỞ – KIỀU THANH QUẾ…
30
theo Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh Đối với những ngƣời nhạy cảm, biết
yêu cái đẹp trong cuộc sống, có niềm
đam mê cống hiến, chỉ cần một tiếng
thở nhẹ của cuộc đời cũng đủ làm bật
dậy nguồn cảm hứng trào dâng. Với
Kiều Thanh Quế, một nhà nghiên cứu,
phê bình văn học rất có tâm, thì chỉ
một bƣớc khẽ trong chuyển động của
văn học cũng làm ông chú ý, quan
tâm, trăn trở. Để rồi nhanh chóng trở
thành bao đề tài thiết thực cho những
công trình nghiên cứu đáng ghi nhận.
Vì lẽ đó, chúng ta không khó lý giải tại
sao trong một thời gian ngắn, sống
với cảnh bị quản thúc, xa quê nhà, đối
mặt với nhiều khó khăn, Kiều Thanh
Quế vẫn có thể viết thật nhiều, khai
thác thật nhiều vấn đề của văn học
đƣơng thời và trƣớc đó.
Hùng, 2009: 216). Chính vì thế, ông
dành cả một phần đầu của chuyên
luận Phê bình văn học để bàn về “văn
tâm”. Văn tâm mà Kiều Thanh Quế
muốn nhấn mạnh ở đây, xét cho cùng,
chính là trách nhiệm lớn lao của
ngƣời cầm bút đối với công việc mình
đang làm. Vì thế, ngƣời cầm bút cần
có đủ “văn tâm, văn học và văn tài”.
Kiều Thanh Quế còn mong muốn
những cống hiến của các nhà văn
đƣợc đánh giá đúng mực, công bằng.
Ông đặt kỳ vọng ở những nhà phê
bình chân chính, mong mỏi họ sẽ là
ngƣời có đủ tài, lực, tâm huyết để đƣa
các nhân tài bị lãng quên hay bị vùi
lấp trong định kiến, thoát ra khỏi bóng
tối, giúp họ khẳng định đƣợc đóng
góp vốn có. Tấm lòng của ông luôn
hƣớng về sự thịnh vƣợng của nền
văn học Việt Nam. Vì thế, theo Kiều
Thanh Quế, nhà phê bình phải giữ vai
trò hƣớng đạo viên, là chất xúc tác
mạnh mẽ, khích lệ ngƣời sáng tác.
Cốt sao cho nền văn học nƣớc nhà có
nhiều viên ngọc lấp lánh.
Kiều Thanh Quế còn luôn ƣớc ao
sách bằng chữ quốc ngữ phổ biến, để
tất cả ngƣời Việt đều có thể đọc đƣợc.
Ông cũng mong muốn văn học dịch
phát triển để tinh hoa văn học nƣớc
ngoài đến với ngƣời Việt sâu rộng
hơn, văn học Việt Nam phát triển
mạnh hơn. Ông tin tƣởng: “Nƣớc ta
sau này hay dở thế nào đều nhờ ở
sách dịch, và sự phiên dịch nó là nòng
cốt khả dĩ đƣa văn học quốc ngữ đến
cõi hoàn mỹ” (dẫn theo Nguyễn Hữu
Sơn - Phan Mạnh Hùng, 2009: 207).
Là ngƣời chân tâm với văn học, Kiều
Thanh Quế rất lo lắng trƣớc bao biểu
hiện xấu, có thể làm cản trở sự phát
triển chung của văn học Việt Nam.
Ông ái ngại trƣớc “cái lối văn chƣơng
rƣờm rà mà trống rỗng đang nhiễu hại
xứ này” (dẫn theo Nguyễn Hữu Sơn -
Phê bình cũng là một hoạt động tiếp
nhận. Kiều Thanh Quế là nhà phê
Phan Mạnh Hùng, 2009: 213). Ông bình có cách tiếp nhận vừa tinh tế,
băn khoăn, trăn trở vì “cái thói nhân vừa khách quan. Ông luôn xem xét
vấn đề của văn học trong hoàn cảnh
nó ra đời và cũng biết đứng trên quan
điểm thời đại với một thái độ trung
tuần nó nhiễu hại dƣờng kia” (dẫn
theo Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh
Hùng, 2009: 214).
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (259) 2020
31
hòa, để đánh giá sao cho công bằng. chí Trung Kỳ: “Thật là buồn!” (dẫn
Ông cho rằng: “quan niệm về đẹp, về theo Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh
Hùng, 2009: 179). Không riêng gì thời
gian ở Cần Thơ, mà cả cuộc đời ngắn
ngủi gắn bó với sự nghiệp nghiên cứu,
phê bình văn học, Kiều Thanh Quế đã
vui, buồn, sƣớng, khổ cùng với những
thăng trầm của văn học nƣớc nhà.
Tâm hồn ông nhƣ hòa nhập vào số
phận chung của văn học nƣớc nhà.
nghệ thuật, tùy mỗi thời đại, mỗi xã
hội, mỗi cái khác nhau” (dẫn theo
Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh Hùng,
2009: 213). Có lẽ nhờ thế và cùng với
cái tâm thiện, Kiều Thanh Quế thƣờng
có cách phê bình rất ôn hòa, khách
quan. Bao giờ ông cũng có khen chê
rạch ròi, đúng mực. Hiếm thấy hiện
tƣợng hạ bệ, chỉ trích nặng nề hay đả
phá cay nghiệt nhƣ một số nhà phê
bình khác từng làm. Bởi thâm tâm ông
luôn hƣớng vào mục đích cuối cùng là
nghiên cứu, phê bình để đƣa nền văn
học Việt Nam đến sự phát triển một
cách hoàn mỹ. Đôi khi, ông cũng
buông lời trách móc: “Tự lực văn
đoàn mỗi năm có phát giải thƣởng
văn chƣơng khuyến khích nhân tài.
Nhƣng rất tiếc giải thƣởng Tự lực
văn đoàn chỉ là một giải tặng ròng
Nguyễn Du từng cho rằng “chữ tâm
kia mới bằng ba chữ tài”, nhƣng phải
có tài, tâm mới thỏa. Kiều Thanh Quế
vừa có tâm lại có tài. Cái tài của nhà
phê bình không từng “học nghề”
nhƣng lại rất chuyên nghiệp. Ở vào
cái thời mà hoạt động phê bình còn
hết sức non trẻ, Nam Bộ lại là nơi
hiếm hoi ngƣời đặt chân vào địa hạt
vừa mới mẻ, vừa phức tạp này, Kiều
Thanh Quế đã rất vững bƣớc trên
hành trình gian nan, nhiều thách thức,
cho các loại tiểu thuyết, phóng sự, chính là nhờ vào tài năng nhƣ là thiên
thơ ca, kịch bản, chớ chẳng hề có bẩm. Ông nhƣ một tay lái tài hoa, nắm
tặng cho một tập văn nghị luận, khảo vững quy luật sông nƣớc, biết rõ cách
chèo chống. Cho nên dù có phong ba,
vẫn đƣa thuyền băng băng lƣớt sóng,
chẳng hề biết sợ gì cả. Các công trình
nghiên cứu của Kiều Thanh Quế đã
chứng minh ông là một nhà phê bình
có kiến thức uyên bác. Ông nắm rõ
văn học trong và ngoài nƣớc. Để
nghiên cứu thành công văn học, Kiều
Thanh Quế còn ý thức trau dồi kiến
thức của nhiều lĩnh vực khác. Nhờ thế,
ông rất am hiểu lịch sử, địa lý, văn
hóa. Đặc biệt, Kiều Thanh Quế có
trình độ ngoại ngữ đáng ngƣỡng mộ.
Ông đã vận dụng tài tình vốn ngoại
ngữ vào việc nghiên cứu, phê bình.
cứu phê bình nào! Phạm vi một giải
thƣởng văn chƣơng mà chật hẹp nhƣ
thế, thật đáng phiền hà lắm” (dẫn theo
Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh Hùng,
2009: 178). Cũng có lần, xuất phát từ
sự lo lắng cho cái chung, Kiều Thanh
Quế không kiềm nén đƣợc cảm xúc,
trở nên cay cú, bực dọc: “trình độ thấp
kém của độc giả nƣớc ta đã giết chết
bao nhiêu tạp chí, tuần báo giá trị rồi?”
(dẫn theo Nguyễn Hữu Sơn - Phan
Mạnh Hùng, 2009: 179). Con ngƣời
nặng tình với văn chƣơng và trách
nhiệm lớn với văn hóa dân tộc ấy, lắm
lúc phải xót xa trƣớc thất bại của báo
HUỲNH THỊ LAN PHƢƠNG - NGUYỄN VĂN NỞ – KIỀU THANH QUẾ…
32
Nhất là với công trình Thi hào Tagore. Quế thƣờng rất ngắn nhƣng không vì
Ông có kỹ năng đọc sách rất tốt. Sự thế mà thiếu ý. Giọng văn đặc sệt
thông minh, nhạy bén giúp ông đọc Nam Bộ nhƣng không có vẻ quê mùa,
nhanh nên tiếp cận rất nhiều sách lƣợm thƣợm nhƣ một số tác giả cùng
Đông Tây, thâu tóm đúng những gì thời. Kiều Thanh Quế thích dùng từ
cần thiết để đem ra bàn.
Hán Việt vì thế câu văn tự nhiên mà
vẫn trang trọng, mực thƣớc. Trong
diễn đạt, ông có những liên tƣởng
sinh động. Bàn về cách kết cấu trong
đoản thiên tiểu thuyết, để nhấn mạnh
tính chặt chẽ của nó, ông đã có một
liên tƣởng khá thú vị: “Đoản thiên tiểu
thuyết trọng nhất ở chỗ kết cấu. Nếu
kết cấu làm sao khi đọc dứt bài rồi
ngƣời ta mới thấy manh mối đầu đuôi
và chừng ấy manh mối đầu đuôi mới
càng ngày càng tỏ rõ thêm mãi, thời là
một bài đoản thiên tiểu thuyết hay.
Làm sao cho ngƣời đọc càng nhớ trở
lại câu chuyện, càng thấy mỗi câu mỗi
lời, có ý nghĩa thâm trầm thấm thía
hơn hồi đƣơng đọc; càng thấy mỗi
câu mỗi lời ở đúng vào chỗ của nó,
càng thấy rút ra câu nào, lời nào, thời
bài không còn vững nữa, cũng nhƣ
trong một cái khung cửa vòng nguyệt
xây bằng gạch không rút đƣợc viên
nào ra mà không làm sập khung cửa
vậy” (dẫn theo Nguyễn Hữu Sơn -
Phan Mạnh Hùng, 2009: 216). Ngƣời
đọc thời nay, tiếp nhận trang văn của
Kiều Thanh Quế không cảm thấy quá
xa cách, chuyện nói ở thế kỷ trƣớc mà
cứ ngỡ nhƣ mới đây.
Dù chƣa qua trƣờng lớp đào tạo,
chƣa đƣợc trang bị một cách bài bản
về phƣơng pháp nghiên cứu khoa học
nhƣng các công trình nghiên cứu của
Kiều Thanh Quế đã thể hiện tính khoa
học khá cao. Các bài báo của Kiều
Thanh Quế thƣờng ngắn gọn, đi thẳng
vào vấn đề muốn nói, không biện giải
dài dòng nhƣng vẫn cung cấp đủ
lƣợng thông tin cho ngƣời đọc tiếp
nhận đúng vấn đề. Công trình Ba
mươi năm văn học dù đƣợc hoàn
thành vào buổi bình minh của văn học
quốc ngữ, công việc biên soạn văn
học sử chƣa có nhiều thành tựu, Kiều
Thanh Quế vẫn có đƣợc cách trình
bày khoa học, rõ ràng, theo một quan
điểm riêng, phác họa gƣơng mặt mới
của văn học Việt Nam qua từng thể
loại. Cách làm này, giúp ngƣời đời
sau có thể nhận diện sự thịnh vƣợng
hoặc chậm tiến của từng thể loại.
Đồng thời, hình dung đƣợc tính đa
dạng, phong phú của văn học quốc
ngữ trong buổi đầu mới hình thành.
Lập luận của Kiều Thanh Quế trong
phê bình rất súc tích và chắc, mà
cũng rất sinh động, dẫn dắt ngƣời đọc
đi vào sự chú ý, cuốn hút theo dõi đến
cùng. Văn phê bình của Kiều Thanh
Quế gãy gọn, mộc mạc, chân tình.
Một nét đặc biệt là đoạn văn trong bài
báo hay chuyên khảo của Kiều Thanh
Ngƣời Việt có câu tục ngữ rất hay:
“Ngọc lành hay có tỳ vết”, ở đời không
có gì là toàn vẹn cả! Thậm chí ngƣời
tài còn dễ lắm tật. Kiều Thanh Quế
không lắm tật nhƣ thói thƣờng của
ngƣời đời. Và các công trình nghiên
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (259) 2020
33
cứu, phê bình của ông không sao Mạnh Hùng, 2009: 209). Một điều thật
đáng tiếc, Kiều Thanh Quế còn giữ
khoảng cách khá xa với công chúng.
Ông xem họ là những ngƣời ít học,
kém hiểu biết, trình độ thấp. Không ít
lần, trong các bài viết của mình, Kiều
Thanh Quế cho rằng: “trình độ độc giả
lúc bấy giờ thấp kém lắm” (dẫn theo
Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh Hùng,
2009: 208). Và chính “trình độ thấp
kém của độc giả nƣớc ta đã giết chết
bao nhiêu tạp chí, tuần báo giá trị”
(dẫn theo Nguyễn Hữu Sơn - Phan
Mạnh Hùng, 2009: 179).
tránh khỏi những hạn chế. Đọc tác
phẩm của Kiều Thanh Quế, ta nhƣ
đang ăn một bát cơm gạo mới thơm
lừng, bất chợt chạm phải vài hạt sạn li
ti, khiến ta ngậm ngùi tiếc nuối. Ngoài
cái văn phong “còn khá luộm thuộm,
cũ kỹ” (Nguyễn Thị Thanh Xuân 2004:
358), ông còn có những quan niệm,
kiến giải chƣa chuẩn xác, thể hiện sự
chủ quan nhất định. Trong Ba mươi
năm văn học, Kiều Thanh Quế chọn
mốc thời gian năm 1914 - 1941 để
tính sổ ba mƣơi năm của văn học
quốc ngữ trong buổi đầu là thiếu hợp
lý, không dựa trên một cơ sở nào
mang tính thuyết phục. Do vậy, công
trình nghiên cứu, giới thiệu của ông
chƣa thể khái quát đƣợc đặc trƣng
của văn học quốc ngữ trong chặng
đƣờng đầu.
Văn xuôi quốc ngữ Nam Bộ là bộ
phận đi tiên phong trong quá trình
hiện đại hóa văn học Việt Nam. Nhiều
cây bút tiểu thuyết, truyện ngắn ở
Nam Bộ đã làm nên thành tựu xuất
sắc trong giai đoạn mở đƣờng của
văn học quốc ngữ. Thế mà, dƣờng
nhƣ chƣa đƣợc Kiều Thanh Quế đánh
giá cao và ghi nhận đúng mực. Nhất
là vai trò đi tiên phong của văn xuôi
quốc ngữ Nam Bộ. Khi đề cập đến
những tác phẩm tiểu thuyết quốc ngữ
trong thời kỳ đầu, ông chỉ bàn đến Tố
Tâm của Hoàng Ngọc Phách. Kiều
Thanh Quế nhấn mạnh: “Tiểu thuyết
quốc ngữ bắt đầu thạnh hành từ năm
1924, phát đạt vào năm 1932” và
“1924: Tố Tâm ra đời” (Dẫn theo
Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh Hùng,
2009: 186). Thực tế, trƣớc đó, từ năm
1910, Nam Bộ đã xuất hiện hàng loạt
tiểu thuyết, đánh dấu giai đoạn thịnh
hành của tiểu thuyết quốc ngữ, nhƣ:
Hoàng Tố Anh hàm oan (1910) của
Trần Thiên Trung, Ai làm được (1912)
của Hồ Biểu Chánh, Hà Hương phong
Là một cây bút tiêu biểu nhất của Nam
Bộ thời bấy giờ, sinh ra, lớn lên và
viết văn trên vùng đất này nhƣng Kiều
Thanh Quế tỏ ra chƣa tin tƣởng nhiều
vào văn học và các sinh hoạt văn hóa
của Nam Bộ. Ông cộng tác đắc lực
cho báo Tri Tân ở Hà Nội. Trong khi,
báo chí Nam Bộ thời đó phát triển rất
mạnh. Ở bài phụ lục “Chuyện buồn
cười ở làng báo Nam Kỳ ngày xưa”,
Kiều Thanh Quế tích cực khai thác
mặt trái của giới báo chí Nam Bộ.
Trong cái nhìn của ông, họ rất thực
dụng, thiếu tƣ cách của ngƣời làm
văn hóa: “hết công kích vị chủ bút nầy,
lại chỉ trích ông đầu bút kia”, đến mức
“phong trào cãi lộn ở làng báo Nam
Kỳ bấy giờ ngày một thêm kịch liệt”
(dẫn theo Nguyễn Hữu Sơn - Phan
HUỲNH THỊ LAN PHƢƠNG - NGUYỄN VĂN NỞ – KIỀU THANH QUẾ…
34
nguyệt (1912) của Lê Hoằng Mƣu, Kiều Thanh Quế đã sớm về với đất
Kim thời dị sử - Ba Lâu ròng nghề đạo mẹ. Sự ra đi của ông là niềm tiếc nuối
tặc (1917) của Biến Ngũ Nhy, Nghĩa lớn lao. Với tài năng ấy, tâm chí ấy lẽ
hiệp kỳ duyên (1920) của Nguyễn ra nền phê bình, nghiên cứu văn học
Chánh Sắt…
Việt Nam còn đƣợc đón nhận nhiều
công trình xuất sắc hơn nữa. Mặc dù
thời gian cống hiến quá ngắn ngủi
nhƣng Kiều Thanh Quế đã cung cấp
cho những ngƣời nghiên cứu về sau
một nguồn tƣ liệu văn học sử vô cùng
quý giá. Giới nghiên cứu học đƣợc ở
ông rất nhiều, về phƣơng pháp, cách
lập luận, cũng nhƣ cách cấu trúc cho
một bài phê bình. Đặc biệt, phong
cách phê bình mạnh dạn, dứt khoát,
thẳng thắn mà ân cần, thành thật và
chân tình của ông luôn tạo đƣợc ấn
tƣợng đẹp trong lòng ngƣời đọc.
Những gì Kiều Thanh Quế đã làm
đƣợc hôm qua, ngày nay các thế hệ
tiếp nối đang ghi nhận. Đặt trong bối
cảnh nửa đầu thế kỷ XX, những công
trình của Kiều Thanh Quế rất đáng
ngƣỡng mộ, tôn vinh. Ông xứng đáng
là niềm tự hào của văn học Nam Bộ.
Trong đó, đất và ngƣời Cần Thơ đã
đóng góp ít nhiều cho sự phát triển
văn tài Kiều Thanh Quế.
Ông chủ trƣơng phát triển văn học
dịch, đề cao các thành tựu văn học
nƣớc ngoài, nhằm hƣớng đến kích
thích sự phát triển văn học nƣớc nhà.
Đó là tấm lòng đáng ghi nhận ở Kiều
Thanh Quế. Tuy nhiên, đôi khi ông
quá đề cao nƣớc ngƣời, lại có phần
tự ti về nƣớc mình: “tủ sách dịch của
văn học quốc ngữ hãy còn kém tủ
sách dịch ở các nƣớc lân bang nhiều
lắm – nhƣ ở Tàu và Nhật chẳng hạn”
(dẫn theo Nguyễn Hữu Sơn - Phan
Mạnh Hùng, 2009: 204).
Tuy nhiên, những hạn chế nói trên
không hề làm lu mờ đóng góp đáng
trân trọng của Kiều Thanh Quế đối với
sự nghiệp nghiên cứu, phê bình và
khảo cứu văn học. Chỉ là một chút tiếc
nuối! Cái tâm, cái tài của Kiều Thanh
Quế vẫn luôn ngời sáng trong lịch sử
văn học nƣớc nhà.
3. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
1. Hoài Anh. 2001. Kiều Thanh Quế - nhà phê bình văn học hiếm có của Nam Bộ, in
trong Chân dung văn học. Hà Nội: Nxb. Hội Nhà văn.
2. Bằng Giang. 1974. Mảnh vụn văn học sử. Sài Gòn: Nxb. Chân Lƣu.
2. Phạm Thế Ngũ. 1965. Việt Nam văn học sử giản ước tân biên. Sài Gòn: Nxb. Quốc
học Tùng thƣ.
3. Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh Hùng. 2009. Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam - Tuyển
tập khảo cứu phê bình. Hà Nội: Nxb. Thanh niên.
4. Nguyễn Thị Thanh Xuân. 2004. Phê bình văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
TPHCM. Nxb. Đại học Quốc gia TPHCM.
Bạn đang xem tài liệu "Kiều Thanh Quế với những công trình ra đời trong thời gian bị quản thúc ở Cần Thơ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- kieu_thanh_que_voi_nhung_cong_trinh_ra_doi_trong_thoi_gian_b.pdf