Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng và sinh học sinh sản của cá sặc bướm (Trichogaster trichopterus) ở tỉnh Cà Mau

Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 10(83)/2017  
Effects of different feeding ratio on water quality and feed efficiency of black tiger  
shrimp (Penaeus monodon) co - cultured with sea grape (Caulerpa lentillifera)  
Nguyen i Ngoc Anh, Pham i Tuyet Ngan  
Abstract  
e study was conducted to find out the optimal feeding rate in co - culture of black tiger shrimp (Penaeus monodon)  
with sea grape (Caulerpa lentillifera) and consisted of 4 treatments with triplicates. Shrimp was mono - cultured  
and feed at libitum as a control treatment and the other 3 treatments including the ratios of shrimps co - cultured  
and sea grape as 75%, 50% and 25%, respectively. Shrimps with mean weight of 0.39 - 0.42 g were stocked in the  
200 - L plastic tanks with density of 100 shrimps/m3, and sea grape was set up at a ratio of 1 kg/m3 in co - culture  
-
tanks at salinity of 30 ppt. Afer 60 days of culture, water quality (TAN, NO2 and PO43 - ) in co - culture treatments  
was better and survival (88,3 - 96,7%) was higher than in the mono - culture (78,3%). Growth rate, production,  
feed conversion ratio, colour of boiled shrimps and proximate composition of shrimp meat in the co - culture fed  
50% satiation were superior to those in the control and feed cost was reduced up to 60.5%, it could be considered  
the suitable feeding ratio.  
Keywords: Penaneus monodon, Caulerpa lentillifera, co - culture, water quality, growth, feed efficiency  
Ngày nhận bài: 17/9/2017  
Ngày phản biện: 23/9/2017  
Người phản biện: TS. Lý Văn Khánh  
Ngày duyệt đăng: 11/10/2017  
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH TRƯỞNG VÀ SINH HỌC SINH SẢN  
CỦA CÁ SẶC BƯỚM (Trichogaster trichopterus) Ở TỈNH CÀ MAU  
Nguyễn Bạch Loan1 và Chung Tấn Vũ2  
TÓM TẮT  
Kết quả nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng và sinh học sinh sản của cá sặc bướm (Trichogaster trichopterus) ở  
huyện Trần Văn ời, tỉnh Cà Mau từ tháng 12/2015 đến 11/2016 cho thấy: Tương quan giữa chiều dài và khối lượng  
thân cá có dạng phương trình hồi qui: W = 0,0091L2,3318 với R2 = 0,9634. Trên địa bàn nghiên cứu, cá sặc bướm có thể  
đạt chiều dài lý thuyết tối đa L=12,6 cm; hệ số tăng trưởng K = 0,86/năm và t0 = –0,08; phương trình đường cong  
tăng trưởng có dạng: L(t) = 12,6(1-e-0,86(t+0,08)). Giá trị độ béo Fulton biến động trong khoảng từ 2,69 - 5,05%; độ béo  
Clark ở khoảng 2,09 - 3,96%. Cả hai chỉ số độ béo cùng tăng lên và đạt giá trị cao nhất vào tháng 6. Nhân tố điều  
kiện (CF) của cá dao động từ 0,54 - 0,74; cao nhất vào tháng 6 và thấp nhất vào tháng 11. Hệ số thành thục (GSI)  
cá sặc bướm cao nhất vào tháng 7 (3,93%) và thấp nhất ở tháng 12 (2,2%). Sức sinh sản tuyệt đối của T. trichopterus  
là 7.133 2.839 (trứng/cá thể) và sức sinh sản tương đối là: 669.390 233.664 (trứng/kg cá); trứng cá giai đoạn IV  
có đường kính trung bình ở khoảng 373 28µm. Mùa vụ sinh sản của cá sặc bướm kéo dài từ tháng 6,7 đến tháng  
9,10 hàng năm.  
Từ khóa: Cá sặc bướm, sinh trưởng, sinh học sinh sản  
I. ĐẶT VẤN ĐỀ  
món cá sặc bướm chiên giòn đã trở thành một trong  
những loại đặc sản ở một số tỉnh thuộc vùng Đồng  
bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Đó là một trong  
những nguyên nhân khiến loài cá này bị khai thác  
quá mức với nhiều loại ngư cụ có mắt lưới rất nhỏ,  
khai thác cá bố mẹ lẫn cá con tại các bãi đẻ nên sản  
lượng khai thác cá sặc bướm đang giảm rất rõ và loài  
cá này đã có tên trong sách đỏ (Vidthayanon, 2012).  
Vì vậy, nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng và sinh sản  
loài cá sặc bướm là cần thiết.  
Cá sặc bướm (Trichogaster trichopterus) thuộc  
họ cá tai tượng (Osphronemidae), bộ cá vược  
(Perciformes) (Rainboth, 1996). Sặc bướm là một  
trong những loài cá đồng, phân chủ yếu ở các thủy  
vực tự nhiên thuộc vùng nước ngọt nhưng có thể  
sống được ở thủy vực vùng nước lợ. Loài cá này  
được nhận dạng dễ dàng nhờ hai chấm đen tròn ở  
giữa thân và gốc vi đuôi (Hình 1). Loài cá sặc bướm  
tuy có kích thước nhỏ nhưng lại có sức sống cao và  
chất lượng thịt khá ngon, trong những năm gần đây  
1 Khoa Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Trường Đại học Kiên Giang  
2 Phân Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản phía Nam  
124  
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 10(83)/2017  
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  
các thủy vực tự nhiên (kênh mương, ruộng lúa) tại  
huyện Trần Văn ời, tỉnh Cà Mau bằng các loại ngư  
cụ (lờ, đăng, chài; a = 1cm) định kỳ mỗi tháng/lần  
với kích cỡ và tổng số mẫu thu cụ thể ở từng tháng  
được trình bày ở Bảng 1. Sau đó, mẫu cá được rửa  
sạch, bảo quản lạnh và chuyển về phòng thí nghiệm  
Ngư loại, Khoa ủy sản, Trường Đại học Cần ơ  
để lưu giữ và phân tích.  
2.1. Vật liệu nghiên cứu  
1.210 mẫu cá sặc bướm được thu trong 12 tháng  
(từ 12/2015 - 11/2016).  
2.2. Phương pháp nghiên cứu  
- Mẫu cá sử dụng trong nghiên cứu được thu từ  
Bảng 1. Kích cỡ và số mẫu cá sặc bướm thu được qua các tháng  
T 1/ T 2/ T 3/ T 4/ T 5/ T 6/ T 7/ T 8/  
2015 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016  
T12/  
T 9/ T 10/ T 11/  
Chỉ tiêu  
Số mẫu  
Lt (cm)  
107  
96  
89  
93  
98  
101  
107  
3,0-  
103  
112  
110  
106  
89  
3,01- 3,46- 3,15- 3,15-  
3,0-  
3,13-  
3,01- 2,22- 2,22- 3,12-  
3,4-  
11,0  
10,94 10,85 10,98 10,95 10,81 10,81 10,98 10,98 10,83 10,83 11,58  
- Đặc điểm sinh trưởng của cá: Sau khi tiến  
hành đo chiều dài tổng (L ); cân khối lượng toàn  
thân (Wt), tương quan giữatchiều dài và khối lượng  
thân cá được khảo sát theo King (1995) và Morioka  
(2012); các tham số tăng trưởng của cá (L , K, to)  
được xác định dựa vào đường cong tăngtrưởng  
không mang tính mùa vụ và phương pháp ELEFAN  
I trong chương trình phần mềm FISAT II.  
- Đặc điểm sinh học sinh sản của cá: Sau khi đo  
chiều dài (Lt), cân khối lượng toàn thân (Wt), quan  
sát hình dạng và chiều dài vi lưng (D), màu sắc cơ  
thể; các mẫu cá được giải phẫu để quan sát hình  
dạng ống dẫn trứng, ống dẫn tinh và ống dẫu niệu;  
hình dạng, màu sắc và xác định giai đoạn thành thục  
của tuyến sinh dục cá; khối lượng thân cá không nội  
quan và tuyến sinh dục cá được cân để khảo sát biến  
động của độ béo Fulton, Clark, nhân tố điều kiện  
(CF), hệ số thành thục (GSI), sức sinh sản của cá sặc  
bướm theo Xakun và Buskaia (1968), Dahle và cộng  
tác viên (2003) và Biswas (1993).  
với Haematoxyline và Eosin của Drury và Wallington  
(1967).  
2.3. ời gian và địa điểm nghiên cứu  
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 12/2015 đến  
11/2016 tại huyện Trần Văn ời, tỉnh Cà Mau.  
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN  
3.1. Đặc điểm sinh trưởng của cá sặc bướm  
3.1.1 Tương quan giữa chiều dài và khối lượng thân  
cá sặc bướm  
Kết quả nghiên cứu cho thấy tương quan giữa  
chiều dài và khối lượng thân cá (Lt = 2, 28 - 11, 58  
cm; Wt = 2, 87 - 13,77 g) sặc bướm có dạng phương  
trình hồi qui (i): W = 0,0091L2,3318 với R2 = 0,9634.  
Đặc điểm sinh trưởng của sặc bướm có sự khác biệt  
giữa cá đực và cá cái, điều này thể hiện ở phương  
trình hồi qui tương quan chiều dài và khối lượng  
thân cá đực (ii): W = 0,0087L2,2831 với R2 = 0,9524  
(Hình 1); tương quan giữa chiều dài và khối lượng  
thân cá cái có dạng phương trình W = 0,0094 L2,3472  
với R2 = 0,9484 (Hình 2).  
,
- Tiêu bản mô học của cá được thực hiện theo  
phương pháp cắt mẫu vùi trong parafin và nhuộm  
Hình 1. Tương quan giữa chiều dài  
và khối lượng thân cá sặc bướm đực  
Hình 2. Tương quan giữa chiều dài  
và khối lượng thân cá sặc bướm cái  
125  
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 10(83)/2017  
Trong khoảng kích cỡ mẫu khảo sát, cá sặc bướm  
con (Lt<6 cm) tăng trưởng về chiều dài nhanh bởi  
vì “sự gia tăng về chiều dài ở giai đoạn đầu của đời  
sống có ý nghĩa thích nghi rất lớn nhằm vượt khỏi  
sự chèn ép của kẻ thù” (Nikonsky, 1963). Những cá  
thể đã thành thục sinh dục tăng trưởng về chiều dài  
chậm nhưng lại tăng nhanh về khối lượng cơ thể do  
giai đoạn này cá tập trung phần lớn chất dinh dưỡng  
cho sự phát triển của tuyến sinh dục.  
chiều dài của 1.210 mẫu cá sặc bướm thu được  
cho thấy đường cong tăng trưởng của cá sặc bướm  
thu ở huyện Trần Văn ời có dạng phương trình:  
L(t) = 12,6(1-e-0,86(t+0,08)) (Hình 3). Phương trình (1)  
cho thấy cá sặc bướm ở các điểm thu mẫu có thể  
đạt chiều dài lý thuyết tối đa là L= 12,6 cm với hệ  
số tăng trưởng K = 0,86/năm; t0 = – 0,08 là tuổi lý  
thuyết mà tại đó cá có chiều dài bằng 0.  
Kết quả trên cũng cho thấy, chiều dài thân cá tăng  
nhanh nhất ở giai đoạn Lt < 6 cm; khi cơ thể cá đạt  
kích cỡ Lt > 10cm và ở những mẫu cá đạt chiều dài  
thân > 12 cm thì sự gia tăng này rất chậm.  
3.1.2. Ước tính các tham số tăng trưởng (L, K, to)  
Kết quả phân tích các tham số tăng trưởng thông  
qua phương trình tăng trưởng Von Bertalanffy  
(King, 1995) và dựa trên bộ dữ liệu về tần suất  
Hình 3. Đường cong tăng trưởng của cá sặc bướm  
3.2. Đặc điểm sinh học sinh sản của cá sặc bướm  
từ lưng xuống bụng của cá đực cũng đậm nét hơn  
(Hình 4).  
3.2.1. Phân biệt giới tính đực và cái  
Ngược lại, vi lưng của cá sặc bướm cái ngắn, tia  
mềm vi lưng dài nhất chưa chạm đến đường thẳng  
đứng kẻ qua gốc vi đuôi; cơ thể cá sặc bướm cái  
thường có màu vàng nhạt đến xám nhạt, những  
sọc ngang thân từ lưng xuống bụng của cá cái cũng  
nhạt hơn nhiều so với các sọc ngang trên thân cá sặc  
bướm đực. Kết quả này cũng phù hợp với kết quả  
khảo sát trên cá sặc bướm đực và cái của Rainboth  
(1996) và Vidthayanon (2012).  
Phân biệt giới tính giữa cá sặc bướm đực và cái  
sẽ dễ dàng khi dựa vào hai đặc điểm như sau: (i)  
hình dạng và chiều dài của vi lưng cá, (ii) màu sắc cơ  
thể cá. Vi lưng của cá sặc bướm đực (nhất là những  
mẫu cá đã thành thục sinh dục) dài, tia mềm vi  
lưng dài nhất chạm đến hay đôi khi vượt qua đường  
thẳng đứng kẻ qua gốc vi đuôi; màu sắc cơ thể nhất  
là những sọc ngang màu xanh đen hoặc đen chạy  
Hình 4. Sự khác biệt giữa hình dạng vi lưng và màu màu sắc cơ thể cá sặc bướm đực và cái  
126  
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 10(83)/2017  
3.2.2. Quá trình phát triển của tuyến sinh dục cá  
sặc bướm  
a) Quá trình phát triển của buồng trứng cá  
- Giai đoạn III: Buồng trứng cá tăng nhanh về kích  
cỡ, các mạch máu bên ngoài buồng trứng to hơn.  
Buồng trứng chuyển sang màu vàng nhạt. Quan sát  
bằng mắt thường có thể nhìn thấy rõ các hạt trứng  
nhưng các hạt trứng chưa tách rời (Hình 7).  
- Giai đoạn IV: Lúc này buồng trứng đạt kích cỡ  
lớn nhất, chiếm phần lớn xoang nội quan và có màu  
vàng tươi. Các hạt trứng tròn, to và dễ dàng tách rời  
(Hình 8).  
- Giai đoạn VI: ể tích buồng trứng giảm nhanh  
nên buồng trứng trở nên nhão và chuyển màu đỏ  
đậm, trong buồng trứng còn lại những nang trứng  
đã vỡ (Hình 9).  
- Giai đoạn I: Buồng trứng là hai dãy mảnh,  
trong suốt, màu trắng hồng và được màng liên kết  
treo vào bên dưới xương sống. Quan sát bằng mắt  
thường chưa thấy tế bào sinh dục. Tiêu bản mô học  
buồng trứng giai đoạn này bắt màu tím rất đậm của  
Hematoxylin. Các noãn nguyên bào có nhiều góc  
cạnh (Hình 5).  
- Giai đoạn II: Buồng trứng cá vẫn còn trong  
suốt và màu trắng hồng như giai đoạn I. Dọc theo  
buồng trứng có một mạch máu với nhiều nhánh  
nhỏ (Hình 6).  
Hình 5. Tiêu bản mô học của  
buồng trứng cá giai đoạn I  
Hình 6. Tiêu bản mô học của  
buồng trứng cá giai đoạn II  
Hình 7. Tiêu bản mô học của  
buồng trứng cá giai đoạn III  
Hình 8. Tiêu bản mô học của  
buồng trứng cá giai đoạn IV  
Hình 9. Tiêu bản mô học của  
buồng trứng cá giai đoạn VI  
b) Quá trình phát triển của buồng tinh cá  
- Giai đoạn I: Buồng tinh là một dãy dài, mảnh,  
trong suốt, màu trắng hồng và được màng liên kết  
treo vào dọc bên dưới xương sống. Buồng tinh cá sặc  
bướm thuộc dạng không phân thùy. Trong giai đoạn  
này, số lượng tinh bào tăng rất nhanh.  
- Giai đoạn III: Khối lượng và kích cỡ buồn  
tinh tăng lên rất nhanh. Trong các ống dẫn tinh có  
nhiều túi nhỏ và quá trình tạo tinh xảy ra mạnh  
mẽ, có sự xuất hiện các tinh trùng trong các nang  
tinh (Hình 11).  
- Giai đoạn II: Buồng tinh tăng nhanh kích  
thước, nhưng độ trong của buồng tinh lại giảm  
(Hình 10). Các tinh nguyên bào bắt đầu phân cắt  
tạo ra các tinh bào.  
- Giai đoạn IV: Buồng tinh chuyển sang màu  
trắng sữa và đạt kích cỡ lớn nhất trong các giai đoạn  
(Hình 12).  
127  
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 10(83)/2017  
Hình 10. Tiêu bản mô học của  
Hình 11. Tiêu bản mô học của  
buồng tinh cá giai đoạn III  
Hình 12. Tiêu bản mô học của  
buồng tinh cá giai đoạn IV  
buồng tinh cá giai đoạn II  
3.2.3. Độ béo Fulton và độ béo Clark  
Độ béo của cá sặc bướm biến động khá lớn qua  
các tháng; độ béo Fulton (F) biến động trong khoảng  
2,69 - 5,05%; độ béo Clark ở khoảng 2,09 - 3,96%  
(Hình 13).  
dưỡng để tạo ra sản phẩm sinh dục xảy ra đồng thời.  
Nhưng ở thời kỳ đầu của sự tạo trứng thì mức độ  
tích luỹ vật chất dinh dưỡng trong cơ thể thường cao  
hơn so với quá trình chuyển hoá để tạo sản phẩm  
sinh dục (Chung Lân, 1969 trích bởi Nguyễn Văn  
Kiểm và ctv., 2007). Từ tháng 10 độ béo của cá sặc  
bướm tăng dần trở lại đến tháng 11, ngược lại hệ số  
thành thục của sặc bướm bắt đầu giảm thấp. Điều đó  
cho thấy, sau thời gian tập trung phần lớn vật chất từ  
thức ăn và dinh dưỡng tích lũy trong cơ thể cho quá  
trình thành thục và hoạt động sinh sản, cá phải tăng  
cường độ dinh dưỡng nhằm đảm bảo năng lượng  
cho các hoạt động sống của cơ thể và tích lũy ở các  
cơ quan (gan và cơ) nhằm chuẩn bị cho mùa sinh  
sản kế tiếp.  
Cả hai độ béo Fulton và Clark của cá sặc bướm  
cùng bắt đầu tăng cao từ tháng 4 đến tháng 6 và đạt  
giá trị cao nhất vào tháng 6 (F: 5,05%; Cl: 3,96%),  
đây có lẽ là thời gian cá tích cực tích lũy vật chất  
dinh dưỡng để chuẩn bị cho sự phát triển tuyến sinh  
dục. Sang tháng 7 cả hai độ béo cùng giảm thấp đến  
tháng 8 (F: 2,91 %; Cl= 2,25 %) do thời gian này cá  
đang huy động vật chất dinh dưỡng dự trữ ở các cơ  
quan trong cơ thể để tạo ra sản phẩm sinh dục chuẩn  
bị cho mùa vụ sinh sản sắp tới bởi vì quá trình thành  
thục sinh dục, sự tích lũy và chuyển vật chất dinh  
Hình 13. Biến động độ béo Fulton và Clark  
Hình 14. Biến động hệ số CF  
của cá sặc bướm qua các tháng  
của cá sặc bướm qua các tháng  
3.2.4 Nhân tố điều kiện (CF)  
của cá tại từng thời điểm khảo sát. Nhân tố điều  
kiện đánh giá mức độ gia tăng khối lượng thân cá  
so với mức độ gia tăng về chiều dài và nguyên nhân  
của sự gia tăng nhanh về khối lượng của cá trong  
một khoảng thời gian nhất định chủ yếu đặc biệt là  
ở cá cái và vào thời điểm có nguồn thức ăn tự nhiên  
phong phú cá sử dụng nhiều thức ăn hơn so với điều  
kiện bình thường.  
Trong khoảng thời gian khảo sát (tháng 12/2015  
- 11/2016) sự biến động của nhân tố điều kiện (CF)  
của cá sặc bướm không lớn. Hệ số CF đạt giá trị thấp  
nhất là 0,54 vào tháng 11 và cao nhất là 0,74 vào  
tháng 6, giá trị này tăng cao vào thời điểm từ tháng  
5 đến tháng 8 (Hình 14). eo King (1995), nhân tố  
điều kiện nói lên hiện trạng hay điều kiện phát triển  
128  
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 10(83)/2017  
3.2.5. Hệ số thành thục của cá sặc bướm  
tăng nhanh dần qua các tháng 3 (2, 91%), tháng 4 (2,  
65%) và tháng 5 (2, 88%). Chuyển sang tháng 6 thì  
hệ GSI của cá tăng lên rất rõ (3, 43%) và đạt giá trị  
cao nhất vào tháng 7 (3,93%) bởi vì phần lớn những  
mẫu cá thu vào tháng này đã thành thục sinh dục và  
nhiều mẫu có tuyến dục đạt giai đoạn 4.  
Hệ số thành thục của cá sặc bướm giảm mạnh  
vào tháng 8 tiếp tục giảm thấp dần ở các tháng và  
thấp nhất ở tháng 12 (2,2%). Sự biến động trên cho  
thấy sau khi tham gia sinh sản, phần lớn các sản  
phẩm sinh dục được đưa ra môi trường ngoài nên  
tuyến sinh dục của cá sẽ giảm nhanh về kích cỡ  
và khối lượng vì vậy hệ số thành thục của cá cũng  
giảm theo.  
Hệ số thành thục (GSI) của cá sặc bướm biến  
động khá cao qua các tháng, giá trị của GSI thấp  
nhất vào tháng 12 (2, 2%) (Hình 15). Ở tháng 1 và  
2, hệ số GSI của cá sặc bướm còn thấp (2,46% và  
2,72%) do sự huy động vật chất dinh dưỡng nhằm  
cung cấp cho sự phát triển của tuyến sinh dục chưa  
mạnh mẽ vào thời kỳ đầu của quá trình thành thục  
sinh dục; nhưng khi tế bào sinh dục đã bước sang  
thời kỳ sinh trưởng thì mức độ huy động vật chất  
dinh dưỡng vào tế bào sinh dục sẽ tăng lên rất mạnh;  
sự huy động như vậy chủ yếu dựa vào thức ăn và vật  
chất đã tích luỹ trước đó trong cơ, gan và các tổ chức  
khác dưới dạng lipid, glycogen (Phạm Minh ành  
và Nguyễn Văn Kiểm, 2009). Vì vậy, hệ số GSI của cá  
Hình 15. Biến động hệ số thành thục  
của cá sặc bướm cái qua các tháng  
Hình16. Biến động HSTT và độ béo  
của cá sặc bướm cái qua các tháng  
3.2.6. Mùa vụ sinh sản  
3.2.7. Sức sinh sản  
Mùa vụ sinh sản cá được dự đoán thông qua kết  
quả khảo sát các giai đoạn thành thục của tuyến sinh  
dục của cá đực, cá cái và kết hợp với sự biến động của  
hệ số thành thục của cá qua các tháng trong năm và  
thời gian xuất hiện của cá con. Kết quả nghiên cứu  
cho thấy độ béo Fulton và Clark của cá sặc bướm  
biến động rõ qua các tháng và cùng tăng cao từ tháng  
4 đến tháng 6. Sự biến động này có có liên quan với  
hệ số thành thục của cá do trước khi thành thục sinh  
dục, nhiều loài cá cũng tích lũy chất béo ở một số cơ  
quan khác trong cơ thể cá (Trần ị anh Hiền và  
Nguyễn Anh Tuấn, 2009). Đây có thể là thời gian cá  
đang huy động vật chất dinh dưỡng dự trữ trong cơ  
thể để tạo ra sản phẩm sinh dục chuẩn bị cho mùa vụ  
sinh sản sắp tới. Vì thế nên hệ số thành thục (GSI)  
của những mẫu cá sặc bướm thu được cũng tăng cao  
từ tháng 5 - 7 (Hình 16).  
Sức sinh sản tuyệt đối của cá sặc bướm (số mẫu  
cá n = 30) đạt 7.133 2.839 (trứng/cá thể). Trong  
đó, mẫu cá sặc bướm có kích cỡ nhỏ nhất thành thục  
sinh dục (Wt = 7,84 g; Lt = 5,83 cm) có số lượng  
trứng là 3.073 trứng. Sức sinh sản tương đối của loài  
cá này là 669.390 233.664 (trứng/kg cá).  
3.2.8. Đường kính trứng  
Cá sặc bướm thuộc nhóm cá có trứng kích cỡ  
nhỏ. Đường kính trứng trung bình ở giai đoạn IV  
của loài cá này là 373 28 µm.  
IV. KẾT LUẬN  
- Tương quan giữa chiều dài và khối lượng  
thân cá có dạng phương trình W = 0,0091L2,3318  
,
R2 = 9,634; ở cùng kích thước chiều dài cá sặc bướm  
cái phát triển nhanh hơn cá đực. Trên địa bàn nghiên  
cứu, cá sặc bướm có thể đạt chiều dài lý thuyết tối đa  
L= 12,6 cm; hệ số tăng trưởng K = 0,86/năm và  
t0 = – 0,08; phương trình đường cong tăng trưởng:  
L(t) = 12,6(1-e-0,86(t+0,08)).  
Trong quá trình thu mẫu đề tài từ tháng 7 đến  
tháng 10 có rất nhiều cá con xuất hiện ở các điểm  
thu mẫu nhất là khu vực nội đồng. Điều này cho thấy  
mùa vụ sinh sản cá sặc bướm ngoài tự nhiên là từ  
tháng 6,7 đến tháng 9,10 hàng năm.  
129  
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 10(83)/2017  
Drury, R.A.B. and E.A. Wallington, 1967. Carleton’s  
Histological technique. 4th Edition. University Press,  
Oxford. 432 pages.  
King, M., 1995. Fisheries biology, assessment and  
management. Fishing News Books, Osney Mead,  
Oxford OX2, England.  
Morioka, S., 2012. Growth and morphological  
development of laboratory reared larval and juvenile  
three-spot gourami (Trichogaster trichopterus).  
Ichthyological Research, January 2012, Volum 59,  
Issue 1, pp 53-62.  
Rainboth, W.J., 1996. Fishes of the Cambodian Mekong,  
FAO Species Identification Field Guide for Fishery  
Purposes. FAO, Rome. 265p.  
- Độ béo của cá tăng cao nhất vào tháng 6 (Fulton:  
5,05%; Clark:3,96%); Hệ số điều kiện CF cũng biến  
động tương tự qua các tháng, cao nhất vào tháng 6  
(0,74%). Hệ số thành thục (GSI) của cá sặc bướm  
cái tăng cao trong tháng 6 - 7, cao nhất vào tháng 7  
(3,93%) và thấp nhất ở tháng 12 (2,2%).  
- Sức sinh sản tuyệt đối của cá đạt 7.133 2.839  
trứng/cá thể; sức sinh sản tương đối là 669.390  
233.664 trứng/kg cá.  
- Mùa vụ sinh sản của cá sặc bướm kéo dài từ  
tháng 6, 7 đến tháng 9, 10 hàng năm.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
Phạm Minh ành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009. Cơ sở  
khoa học và kỹ thuật sản xuất giống. Nhà xuất bản  
Nông nghiệp, 215 trang.  
Biswas, S. P., 1993. Manual of Methods in Fish Biology.  
South Asian Publishers, New Delhi International  
Book Co, Absecon Highlands, 157p.  
Vidthayanon, C., 2012. Trichopodus trichopterus. In:  
IUCN 2013. IUCN Red List of reatened Species.  
Xakun, O.F. và N.A. Buskaia, 1968. Xác định các giai  
đoạn phát dục và nghiên cứu chu kỳ sinh dục của cá.  
Bản dịch của Lê anh Lựu. Nhà xuất bản Nông  
nghiệp, 47 trang.  
Study on growth and reproductive biological characteristics  
of three spot gourami fish (Trichogaster trichopterus) in Ca Mau province  
Nguyen Bach Loan and Chung Tuan Vu  
Abstract  
e results of study on growth and reproductive biological characteristics of three spot gourami fish (Trichogaster  
trichopterus) in Tran Van oi district, Ca Mau province from December, 2015 to November, 2016 showed that  
correlation between length and body weight of three spot gourami form regression equation: W = 0. 0091L2.3318  
;
R2 = 0. 9634. On the study sites, this fish species could reach a maximum theoretical length L∞ = 12.6 cm; growth  
coefficient K = 0.86/ year and t0 = –0.08 (growth curve equation: L (t) = 12.6 (1-e-0.86(t+0.08)). Its Fulton fatness ranges  
from 2.69% to 5.05%, and Clark one is around 2.09 - 3.96%. Both of those fatnesses were increased and reached the  
highest value in June. e condition factors (CF) of this species ranged from 0.54 to 0.74 and that was also the highest  
value in June and the lowest in November. e gonado somatic index (GSI) of T. trichopterus was the highest in July  
(3.93%); and the lowest in December (2.2 %). Absolute fecundity ranged 7.133 2.839 eggs/females, and its relative  
fecundity about 669.390 233.664 eggs per kg of female with egg average diameter (at stage IV) was 373 28 µm.  
ree spot gourami’s spawning season extends from June, July to September, October every year.  
Keywords: ree spot gourami, growth, reproductive biology  
Ngày nhận bài: 14/9/2017  
Ngày phản biện: 20/9/2017  
Người phản biện: TS. Lý Văn Khánh  
Ngày duyệt đăng: 11/10/2017  
130  
pdf 7 trang Hứa Trọng Đạt 09/01/2024 720
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng và sinh học sinh sản của cá sặc bướm (Trichogaster trichopterus) ở tỉnh Cà Mau", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_dac_diem_sinh_truong_va_sinh_hoc_sinh_san_cua_ca.pdf