Nghiên cứu đề xuất mô hình cộng sinh cho hoạt động nuôi trồng thủy sản nước ngọt và trồng rau màu trên địa bàn tỉnh An Giang

Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Trái đất và Môi trường, 4(1):115-127  
Bài Nghiên cứu  
Open Access Full Text Article  
Nghiên cứu đề xuất mô hình cộng sinh cho hoạt động nuôi trồng  
thủy sản nước ngọt và trồng rau màu trên địa bàn tỉnh An Giang  
Nguyễn Hồng Anh Thư*, Trần Thị Hiệu, Trà Văn Tung, Nguyễn Việt Thắng, Nguyễn Khôn Huyền, Lê Quốc Vĩ,  
Nguyễn Thị Phương Thảo, Lê Thanh Hải  
TÓM TẮT  
Trong những năm gần đây, nghề nuôi cá tra (Pangasianodonhypophthalmus) góp phần quan trọng  
trong nền kinh tế Việt Nam nói chung và các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nói riêng.  
Use your smartphone to scan this  
QR code and download this article  
Tuy nhiên, cùng với vấn đề phát triển kinh tế là vấn đề ô nhiễm môi trường và dịch bệnh cá do chất  
thải từ chính hoạt động nuôi. Giải pháp tối ưu cho vấn đề này là xử lý nước thải nuôi trồng thủy  
sản (NTTS). Để nghề NTTS nói chung và nghề nuôi cá tra nói riêng phát triển bền vững, và để bảo  
vệ môi trường tự nhiên nhóm nghiên cứu tiến hành đề xuất mô hình sinh kế cộng sinh giữa hoạt  
động nuôi thủy sản nước ngọt và trồng rau màu, nhằm tái sử dụng nước và dinh dưỡng từ hoạt  
động nuôi thủy sản để phục vụ cho hoạt động trồng rau màu nhằm giảm chi phí phân bón đồng  
thời giảm thiểu được các chất phú dưỡng hóa có trong nước thải nuôi thủy sản thải ra ngoài môi  
trường, tạo thêm thu nhập cho các hộ gia đình ở khu vực nông thôn. Hiệu quả của mô hình đem  
lại là giảm thiểu một lượng lớn chất thải rắn thải trực tiếp ra nguồn tiếp nhận là 315,098 kg. Chất  
lượng nước thải được cải thiện sau khi thải ra nguồn, tổng cacbon hữu cơ (TOC) 7,56%, tổng nitơ  
8,27% và tổng photpho là 0,64% đạt tiêu chuẩn xả thải trực tiếp ra môi trường. Như vậy, việc xử lý  
nước thải ao nuôi cá bằng cây rau muống không những góp phần giảm thiểu ô nhiễm cho nguồn  
nước mà còn góp phần tái sử dụng các thành phần thải từ ao nuôi cá cung cấp dinh dưỡng cho  
cây rau muống, tăng hiệu quả sử dụng và chuyển hóa thành phần thức ăn của cá. Ngoài ra, hiệu  
quả của mô hình còn đem lại nguồn thu nhập thêm cho hộ gia đình là 24.900.000 VNĐ sau 1 vụ  
nuôi cá so với mô hình canh tác truyền thống.  
Từ khoá: Sinh kế bền vững, mô hình cộng sinh, mô hình sinh thái, nước thải thủy sản, giảm thiểu  
ô nhiễm  
Viện Môi trường và Tài nguyên - Đại  
học Quốc gia TP.HCM, Việt Nam  
Nước thải nuôi trồng thủy sản chứa các thành phần  
độc hại có thể gây ô nhiễm môi trường cần được xử  
lý. Nước thải nuôi tôm công nghiệp có hàm lượng  
các chất hữu cơ cao (BOD5 12 - 35 mg/l, COD 20 - 50  
mg/l), các chất dinh dưỡng (photpho, nitơ), chất rắn  
lơ lửng (12 - 70 mg/l), ammoniac (0,5 - 1 mg/l), co-  
liforms (2,5.102 - 3.104 MNP/100 ml). Nghiên cứu  
của tác giả Đặng ị Hồng Phương, Hà Anh Tuấn  
cho thấy nước thải từ ao nuôi tôm có COD lên đến  
131 mg/l, BOD5 =47 mg/l, tổng N = 35 mg/l, tổng  
P = 2 mg/l. Nước thải nuôi cá trê lai có thành phần  
BOD5 56 mg/l, COD 118 mg/l, tổng N 11,50 mg/l,  
tổng P 5,02 mg/l. Nước thải nuôi cá tra có thành phần  
BOD5 50 mg/l, COD 112 mg/l, tổng N 4,81 mg/l, tổng  
P 2,17 mg/l. Nguồn nước thải nuôi trồng thủy sản  
trong một vụ nuôi (nuôi tôm thường 2 vụ/năm, nuôi  
cá 1 vụ/năm) có thể đạt đến 15.000 - 25.000 m3/ha tùy  
thuộc vào quy trình nuôi các loại thủy sản... có chứa  
nhiều thành phần độc hại và các nguồn dịch bệnh  
phải được xử lý triệt để trước khi thải ra nguồn tiếp  
nhận.  
GIỚI THIỆU  
Diện tích đất nuôi trồng thủy sản của tỉnh An Giang  
năm 2017 là 2742 ha tăng 1,08% so với năm 2016.  
Nhu cầu sử dụng nước mặt cho việc nuôi trồng thủy  
sản trên địa bàn tỉnh cao hơn nhu cầu sử dụng nước  
ngầm. Lượng nước mặt sử dụng cho nuôi trồng thủy  
sản khoảng 2.420.149,81 m3/ngày/đêm chiếm 99% và  
lượng nước ngầm khoảng 32.184 m3/ngày/đêm, chỉ  
chiếm 1%. Tuy nhiên, các hoạt động nuôi trồng thủy  
sản tác động xấu đến môi trường nói chung và nguồn  
nước nói riêng. Mức độ ảnh hưởng tùy theo hình  
thức nuôi, loại hình và cấp độ nuôi, chủ yếu xảy ra  
tại những khu vực nuôi tập trung, diện tích lớn và  
mức độ thâm canh cao, hệ thống cấp nước không tốt,  
không xử lý nước thải và sử dụng nhiều hóa chất, thức  
ăn (nhất là đối với mô hình nuôi tôm sú thâm canh,  
nuôi cá lồng bè). Hậu quả chủ yếu là gây nên tình  
trạng ô nhiễm hữu cơ, ô nhiễm kháng sinh, và đặc  
biệt là phá vỡ hệ sinh thái nước ngầm, hay hệ sinh  
thái cát1.  
Liên hệ  
Nguyễn Hồng Anh Thư, Viện Môi trường và  
Tài nguyên - Đại học Quốc gia TP.HCM, Việt  
Nam  
Email: anhthu0710.95@gmail.com  
Lịch sử  
Ngày nhận: 05-8-2019  
Ngày chấp nhận: 19-11-2019  
Ngày đăng: 05-4-2020  
DOI : 10.32508/stdjsee.v4i1.505  
Bản quyền  
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố  
mở được phát hành theo các điều khoản của  
the Creative Commons Attribution 4.0  
International license.  
Trích dẫn bài báo này: Anh Thư N H, Thị Hiệu T, Tung T V, Việt Thắng N, Huyền N K, Vĩ L Q, Phương Thảo  
N T, Hải L T. Nghiên cứu đề xuất mô hình cộng sinh cho hoạt động nuôi trồng thủy sản nước ngọt và  
trồng rau màu trên địa bàn tỉnh An Giang. Sci. Tech. Dev. J. - Sci. Earth Environ.; 4(1):115-127.  
115  
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Trái đất và Môi trường, 4(1):115-127  
Kết hợp mô hình trồng trọt và nuôi trồng thủy sản thường. Những nghiên cứu trong tương lai về hiệu  
theo hướng tích hợp nhằm tăng hiệu quả kinh tế, giảm  
lượng phát thải để bảo vệ môi trường và phát triển  
bền vững theo hướng cộng sinh cùng phát triển là  
một trong những xu hướng của các hộ nông dân hiện  
nay. Cộng sinh là sự tương tác gần gũi, có sự tương  
hỗ bền chặt, có nghĩa là cả hai vật cộng sinh hoàn toàn  
phụ thuộc vào nhau để tồn tại2. Đây là một hệ thống  
sản xuất lương thực bền vững, kết hợp hài hòa giữa  
trồng các loại rau quả với nuôi thủy sản trong một  
môi trường cộng sinh, tuần hoàn và khép kín. Nông  
nghiệp bền vững đề cao tính tuần hoàn trong một khu  
vực canh tác, hạn chế sử dụng những yếu tố đầu vào  
từ bên ngoài, quản lý việc sử dụng những yếu tố tự  
nhiên, sẵn có và có tính bổ trợ lẫn nhau từ đó khôi  
phục, duy trì và thúc đẩy tính hài hòa của thiên nhiên.  
Ngoài ra cộng sinh còn là sự hợp tác chặt chẽ giữa 2  
hay nhiều loài và tất cả các loài tham gia cộng sinh đều  
có lợi. Cộng sinh nông nghiệp là việc tận dụng chất  
thải từ hoạt động chăn nuôi để làm thức ăn cho hoạt  
động nuôi thủy sản, nước từ quá trình nuôi thủy sản  
được tái sử dụng để tưới cho cây trồng… cũng là một  
cộng sinh nông nghiệp điển hình.  
Cộng sinh nông nghiệp thuộc phạm trù nông nghiệp  
sinh thái nhằm hướng tới phát triển bền vững. eo  
ierry Bonaudo3 đã nghiên cứu hệ thống nông  
nghiệp sinh thái bền vững là sự kết hợp các loại cây  
trồng và vật nuôi trong một hệ thống tích hợp để cải  
thiện tính bền vững của hệ thống canh tác. Kết hợp  
cây trồng và vật nuôi trong các hệ thống (integrated  
crop–livestock systeams - ICLS) thể hiện cơ hội cải  
thiện tính bền vững của các hệ thống canh tác3. Mô  
hình cộng sinh trong nông nghiệp chủ yếu bằng cách  
kích thích các quá trình tự nhiên để giảm đầu vào  
bằng cách khép kín hệ thống, từ đó giảm nhu cầu  
nguyên liệu, giảm ô nhiễm và tiết kiệm xử lý chất  
thải4.  
quả xử lý của hệ thống trong thời gian dài hơn và tìm  
loài cây thích hợp hơn cho hệ thống VF là cần thiết.  
Công trình nghiên cứu xử lý nước thải ao nuôi cá bằng  
bãi lọc thực vật và tái sử dụng lại nước thải sau khi xử  
lý đã được Dennis Konnerup và cộng s6 thực hiện.  
Nghiên cứu áp dụng bãi lọc đứng và ngang, kết quả  
cho thấy nước sau xử lý có DO>1 mg/l, BOD <30  
mg/lít, TAN <0 mg/lít, NO2<0,07 mg/lít. Vi nồng  
độ này nước thải sau xử lý có thề tuần hoàn lại ao nuôi.  
Nghiên cứu này cũng chứng minh mô hình dòng chảy  
đứng hiệu quả hơn dòng chảy ngang và đây là giải  
pháp tiềm năng để áp dụng trong xử lý và tái sử dụng  
nước thải ao nuôi cá góp phần giảm thiểu ô nhiễm.  
Bài báo của nhóm tác giả của Ying-Feng Lin và cộng  
s7 nghiên cứu đất ngập nước dòng chảy mặt và ngầm  
để xử lý nước thải ao nuôi và tuần hoàn nước sau xử  
lý, kết quả cho thấy loại bỏ 55-66% chất rắn, BOD5  
giảm 37-54%, amonia giảm 64-66%, nitrit giảm 83-  
94%. Một công trình khác cũng của Ying-Feng Lin  
và cộng s8 đã nghiên cứu xử lý dinh dưỡng ao nuôi  
thủy sản bằng mô hình đất ngập nước dòng chảy mặt  
và dòng chảy ngầm. Sau 8 tháng vận hành hiệu quả  
xử lý amoni là từ 86-98%, 95-98% tổng N vô cơ, hiệu  
quả xử lý phospate từ 32-71%.  
El-Sayed G. Khatera và cộng s9 đã nghiên cứu sử  
dụng nước thải ao nuôi thủy sản cho vườn trồng cà  
chua. Kết quả cho thấy năng suất quả cây trồng tăng  
từ 1,06 kg/cây lên 1,36 kg/cây đồng thời tiết kiệm được  
01 lượng phân bón cho cây trồng.  
Wenxiang Li and Zhongjie Li10 đã nghiên cứu hiệu  
quả xử lý dinh dưỡng tại chỗ trong ao bằng mô hình  
thực vật nổi nhân tạo, sau 120 ngày vận hành thì  
30,6% tổng N và 18,2% P so với tổng dinh dưỡng đầu  
vào được loại bỏ. Ngoài ra các chỉ tiêu khác như COD,  
chlorophyll cũng giảm hơn so với ao so sánh (không  
áp dụng mô hình). Kết quả cho thấy thực vật nước với  
tỷ lệ 1/6 diện tích ao sẽ xử lý hiệu quả dinh dưỡng có  
trong ao để gia tăng chất lượng nước.  
Nhóm nghiên cứu của Sofie Van Den Hende và cộng  
s11 đã nghiên cứu ứng dụng mô hình microalgal  
bacterial flocs (MaB-floc SBRs) gián đoạn để xử lý  
nước thải ao nuôi cá. Kết quả cho thấy nước thải đầu  
ra đạt tiêu chuẩn xả thải, ngoại trừ chỉ tiêu nitrit và ni-  
trat. Ngoài ra một số kết quả khác liên quan đến hiệu  
suất của quá trình cũng được đánh giá.  
Nghiên cứu của Nguyễn ị ảo Nguyên và cộng  
s5 là khảo sát khả năng của hệ thống đất ngập nước  
kiến tạo dòng chảy ngầm ngang và ngầm đứng trong  
việc xử lý nước bể nuôi cá tra thâm canh tuần hoàn  
kín. Nước đầu vào (hay nước từ bể cá) và nước đầu  
ra của hệ thống xử lý được thu mỗi lần 1 tuần trong  
vòng 8 tuần và đánh giá những chỉ tiêu liên quan đến  
chất lượng nước. Hệ thống đất ngập nước ngầm đứng  
(VF) có nồng độ NH4N, TKN, PO4P và tổng TP  
trong nước bể nuôi thấp hơn so với hệ thống chảy  
ngầm ngang (HF). Ngoài ra, hệ thống (VF) giúp cải  
thiện điều kiện oxy trong nước bể nuôi cá, trong khi  
hệ thống HF loại bỏ được 86% N và 72% P. Điều đáng  
lưu ý, trong thời gian nghiên cứu việc thay nước mới  
là không cần thiết mà chất lượng nước trong bể nuôi  
Công trình của Ngo uy Diem Trang và cộng s12  
thì nghiên cứu hệ thống tích hợp bãi lọc trồng 03 loại  
cây C.glauca, L.sativa và I.aquatica để xử lý nước thải  
ao nuôi cá rô phi và tuần hoàn lại cho ao nuôi. Ở khía  
cạnh khác, nghiên cứu của tác giả Lê Anh Tuấn Đại  
cá vẫn duy trì trong giới hạn cho cá sinh trưởng bình học Cần ơ13 sử dụng đất ngập nước kiến tạo dòng  
116  
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Trái đất và Môi trường, 4(1):115-127  
chảy ngầm để xử lý nước thải ao nuôi , hiệu quả xử lý hỗ trợ và thúc đẩy cùng phát triển tăng trưởng kinh tế,  
COD, BOD5 đạt trên 85%.  
tạo sinh kế bền vững cho người dân, quảng bá được  
sản phẩm, thương hiệu gắn với bảo vệ môi trường.  
Rau muống nước được xem là loài thủy sinh được sử  
dụng để xử lý nước thải vì chúng có khả năng làm sạch  
nước. Rau muống nước được sử dụng để xử lý nước  
thải sinh hoạt và hiệu quả xử lý TSS; COD; PO43và  
NH4+ lần lượt là 37,8%; 44,4%; 56,7% và 26,8%.  
Tuy nhiên sử dụng rau muống nước kết hợp sử dụng  
nguồn dinh dưỡng thừa trong nước thải từ các ao nuôi  
trồng thủy sản chưa được quan tâm đúng mức. Trên  
cơ sở đó, nghiên cứu này sử dụng mô hình ao rau  
muống liền kề nhằm đánh giá khả năng cung cấp dinh  
dưỡng cho cây rau muống nước cũng như khả năng  
xử lý TOC, N, P và K có trong nước thải ao nuôi thâm  
canh.  
Mô hình sinh kế bền vững dựa trên phương pháp cộng  
sinh cho hoạt động nuôi thủy sản nước ngọt và trồng  
rau màu trên địa bàn tỉnh An Giang được thực hiện  
theo các bước: (1) Khảo sát hiện trạng sản xuất và  
môi trường của đối tượng nghiên cứu: quy mô, diện  
tích ao nuôi, lượng thức ăn tiêu thụ, các nguồn thải,  
thành phần, tính chất, lưu lượng nguồn thải, (2) kiểm  
toán dòng vật chất, năng lượng của đối tượng nghiên  
cứu điển hình: định lượng các dòng vật chất, tính  
toán năng lượng tiêu thụ của từng quá trình, (3) Đánh  
giá tiềm năng cộng sinh của các dòng vật chất, năng  
lượng: dựa vào khả năng quay vòng khép kín các dòng  
vật chất, năng lượng, (4) Đề xuất mô hình cộng sinh  
nông nghiệp hướng tới không phát thải trong hoạt  
động nuôi thủy sản và trồng rau màu cho đối tượng  
nghiên cứu điển hình: áp dụng các kỹ thuật sản xuất  
sạch hơn và tiết kiệm năng lượng, kỹ thuật sinh thái,  
kỹ thuật xử lý cuối đường ống, (5) Đánh giá hiệu quả  
khi áp dụng mô hình cho đối tượng điển hình: hiệu  
quả về môi trường, xã hội và kinh tế. Mô hình đề xuất  
PHƯƠNG PHÁP  
Vật liệu nghiên cứu  
• Ao nuôi cá tra: có diện tích 1.400 m2 và mực  
nước sâu 3,5 m. Tổng thể tích chứa nước là 4.900  
m3.  
• Nước thải: sử dụng nước thải ao nuôi tại hộ ông  
Phan ành Dũng, huyện Châu Phú, tỉnh An  
Giang. Nước được thay định kỳ 3 ngày 1 lần và  
một lần xả 20% lượng nước trong ao (980m3/ như Hình 3.  
lần xả) với lưu lượng 40m3/h.  
Bố trí thí nghiệm  
• Ao rau muống: gồm 5 ao trồng rau muống liền  
kề nhau, mỗi ao có diện tích 300 m2 (10 m * 30  
m).  
• Chuẩn bị đất: Đất được làm sạch, cày sâu  
khoảng 20 cm, phơi nắng 3 ngày, xới nhuyễn  
đất, đắp bờ chia thành 5 ao.  
Tiến hành xây dựng và thử nghiệm hệ thống các ô  
rau muống liền kề. Nước thải từ ao nuôi cá (1.400  
m2) được thải trực tiếp ra các ao trồng rau muống.  
Mức nước giữ trong ao rau muống cao khoảng 10 cm.  
Nước chảy theo hình ziczac (Hình 4), nước đầu vào  
lấy trực tiếp từ ao nuôi sau đó chảy tiếp qua ao thứ 2  
và cứ như thế nước thải sau khi chảy qua 5 ao trồng  
rau muống sẽ thải trực tiếp ra kênh nội đồng.  
• Hạt giống: Rau muống nước có thể trồng với  
khoảng cách 10 – 15 cm, tùy theo điều kiện  
đất. Mật độ trồng có thể biến động từ 20.000  
– 150.000 chồi/1.000m2 14  
.
Chi phí và lợi nhuận  
Phương pháp nghiên cứu  
• Cách tính giá thành:  
Tổng thu = Giá bán rau (đồng/kg) x Năng suất  
rau;  
Tổng chi = Nhân công + Hạt giống;  
Lợi nhuận = Tổng thu – tổng chi.  
Cách tiếp cận  
Cách tiếp cận chính là xây dựng các giải pháp kỹ thuật  
và hệ thống sinh thái theo hướng không phát thải và  
tận dụng, khai thác triệt để tính ưu việt của các giải  
pháp dựa trên nguyên tắc bảo vệ môi trường, tạo ra  
sinh kế bền vững cho người dân khu vực nông thôn  
kết hợp giữa hoạt động nuôi trồng thủy sản và trồng  
rau màu. Cụ thể là: (1) Mô hình xử lý và ngăn ngừa  
các nguồn thải gây ô nhiễm môi trường thông qua  
các biện pháp thu gom, (2) Mô hình quay vòng, khép  
kín các dòng vật chất, năng lượng, sử dụng hợp lý các  
nguồn tài nguyên sẵn có, (3) Mô hình tạo sự kết nối  
giữa hoạt động nuôi thủy sản và trồng rau màu, nhằm  
• Cách tính chi phí:  
Nhân công = tiền thuê nhân công thu hoạch rau  
x số đợt thu hoạch  
Hạt giống = 8 kg/1.000 m2 với đơn giá 8.000  
đồng/ kg  
Giá rau muống trên thị trường = 10.000 đồng/  
kg.  
117  
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Trái đất và Môi trường, 4(1):115-127  
Hình 1: Ao nuôi cá tại hộ ông Phan Thành Dũng.  
Hình 2: Ao lắng bùn và trồng rau muống tại hộ ông Phan Thành Dũng.  
tiến hành lấy mẫu để phân tích chỉ tiêu vi sinh  
Phương pháp lấy mẫu và bảo quản mẫu  
vật và kim loại nặng lấy bằng bình thủy tinh có  
nút nhám 100 ml đã được tẩy trùng ở nhiệt độ  
1050C.  
Lấy mẫu: Việc lấy mẫu đã được thực hiện theo  
thông tư 29/2011-BTNMT ngày 01/8/2011 của Bộ Tài  
nguyên và Môi trường quy định quy trình kỹ thuật  
quan trắc môi trường nước mặt nội địa; căn cứ theo  
TCVN 6663-1:2011 về hướng dẫn kỹ thuật lấy mẫu,  
TCVN 6663-6:2008 về hướng dẫn kỹ thuật lấy mẫu  
ở sông suối. Mẫu nước mặt trong vùng nghiên cứu  
được tiến hành lấy như sau:  
• Phương pháp lấy mẫu, bảo quản mẫu vật được  
tuân thủ theo các TCVN 5992 - 1995, TCVN  
5993 - 1995, TCVN 5998 – 1995 về lấy mẫu và  
bảo quản mầu nước trong sông và ven biển.  
• Các chỉ tiêu pH, DO, EC, nhiệt độ, độ đục được  
của các loại mẫu được đo trực tiếp ngoài hiện  
trường. Bảo quản mẫu. Mẫu sau khi lấy được  
bảo quản trong thùng lạnh luôn duy trì ở nhiệt  
độ nhỏ hơn 4oC và được vận chuyển ngay trong  
ngày về phòng thí nghiệm  
• Mẫu phân tích các thành phần lý hóa: Tại mỗi  
vị trí, mẫu nước được lấy bằng can 2 lít đã được  
rửa sạch và tráng lại bằng nước trên sông. Mẫu  
được lấy tại chính giữa dòng chảy cách tầng mặt  
20 cm.  
• Mẫu phân tích vi sinh: Cùng thời điểm lấy mẫu  
phân tích các thành phần thủy hóa chúng tôi  
118  
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Trái đất và Môi trường, 4(1):115-127  
Hình 3: Mô hình cộng sinh hoạt động nuôi thủy sản và trồng trọt/rau màu.  
Hình 4: Mô hình cộng sinh hoạt động nuôi thủy sản và trồng trọt/rau màu.  
119  
   
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Trái đất và Môi trường, 4(1):115-127  
cá. Các thành phần có trong nước thải từ ao nuôi  
cá là nguồn dinh dưỡng tốt cho cây rau muống. Rau  
muống hấp thu các chất có trong nước thải ao nuôi cá  
để chuyển hóa thành các hợp chất hydrocacbon cho  
sự sinh trưởng và phát triển của chúng. Các chỉ têu  
sinh lý của cây rau muống trong các ao (từ Ao 1- Ao 5)  
có sự khác nhau (Bảng 2 ) và thành phần dinh dưỡng  
giảm dần từ nước thải đầu vào cho đến đầu ra tại Ao 5  
(Bảng 3 ). ành phần dinh dưỡng tại nước thải đầu  
vào (Ao 1) cao hơn so với các ao còn lại (Bảng 3), ảnh  
hưởng đến sự phát triển hình thái và sinh lý của cây  
rau muống trồng ở Ao 1 tốt hơn các ao còn lại.  
Phương pháp phân tích  
Diện tích lá phân tích bằng phương pháp đo chiều dài  
và chiều rộng lá. Hàm lượng chất khô xác định qua  
cân mẫu sau khi sấy ở 80C đến khối lượng không  
đổi. Độ Brix đo bằng máy đo Brix. Tổng Nito được  
phân tích theo phương pháp Kjeldahl, tổng Photpho  
được phân tích theo phương pháp so màu trên máy  
quang phổ ở bước sóng 420 nm, và tổng Kali được  
phân tích trên máy quang kế ngọn lửa (Flamphotome-  
ter) tại bước sóng 768 nm (Bảng 1 ).  
Tính lượng bùn thải theo nghiên cứu của Phạm Quốc  
Nguyên15, độ dày lớp bùn trong đáy ao gia tăng theo  
thời gian nuôi. Sau 2 tháng nuôi lớp bùn dày khoảng  
Diện tích lá cây đạt cao nhất tại Ao 1 (đầu vào sau ao  
7 cm và những tháng tiếp theo bùn đáy tích tụ tăng nuối cá) là 1,75 dm2/cây, trong khi đó diện tích lá cây  
bình quân khoảng 10 cm/tháng. ể tích bùn ở đáy rau muống Ao 5 là thấp nhất 1,59 dm2/cây. Điều này  
ao tính trên trọng lượng tươi:V = S.h  
V: tổng thể tích bùn ở đáy ao tính trên lượng tươi (m3)  
S: diện tích đáy ao (m2);  
cũng liên quan ảnh hưởng đến hàm lượng chất khô,  
độ Brix và năng suất cây rau muống trong các ao khác  
nhau. Nhìn chung, diện tích lá, hàm lượng chất khô,  
độ Brix và năng suất cây rau muống có xu hướng giảm  
dần từ Ao 1 đến Ao 5. Như vậy, có thể hàm lượng  
dinh dưỡng có trong nước thải ao nuôi giảm dần qua  
các ao rau muống do sự hấp thu từ rau muống hay sa  
lắng các chất rắn lơ lững trong nước xuống đáy ao là  
nguyên nhân giảm hàm lượng dinh dưỡng cho các ao  
tiếp theo, dẫn đến giảm nồng độ dinh dưỡng cần thiết  
cho cây rau muống ở các ao tiếp sau đó. Kết quả là các  
chỉ tiêu sinh lý và năng suất của cây rau muống ở các  
ao rau muống sau sẽ kém hơn các ao rau muống trước,  
lần lượt như sau Ao 1 > Ao 2 >Ao 3 > Ao 4 > Ao 5.  
h: chiều cao trung bình của lớp bùn (m)  
Cân bằng vật chất  
Cân bằng vật chất cơ bản làđể kiểm soát các quy trình  
sản xuất, đặc biệt là trong việc kiểm soát sản lượng  
sản phẩm. Việc tính toán cân bằng vật liệu dựa trên  
nguyên liệu, chất thải, nước thải và năng lượng trong  
quá trình này. Cân bằng vật chất trong nghiên cứu  
này được xây dựng theo quy luật bảo toàn khối lượng.  
Công thức cơ bản là:  
mR = mP + mw + ms + mL  
Kiểm toán các dòng vật chất của ao nuôi cá  
Trong đó:  
m = mR1 + mR2 + … + mRn : Tổng nguyên liệu đầu  
vào  
Hình 5 trình bày dòng kiểm toán vật chất của ao nuôi  
cá sau 1 vụ. Tổng lượng nước sử dụng cho ao nuôi cá  
ước tính khoảng 3.150 tấn nước. Trong đó 2.100 tấn là  
lượng nước ban đầu, phần tăng lên là do lượng nước  
được thay trong suốt 5 tháng nuôi cá. Trung bình 3  
ngày thay một lần và mỗi lần thay là 20% lượng nước  
có trong ao. Lượng thức ăn cho cá là 150.000 kg, lượng  
cá giống thả ao là 140 kg, và tổng năng lượng sử dụng  
cho một vụ nuôi cá là 9.840 kW điện.  
Trong quá trình nuôi cá ước tính lượng nươc bốc hơi  
khoảng 10%, như vậy lượng nước thất thoát vào môi  
trường tồn tại dạng hơi nước là 315 tấn. Lượng nước  
tích lũy trong cá thành phẩm là 82,9 tấn, trong cá chết  
là 0,466 tấn, và tích lũy trong rau muống là 2,38 tấn.  
Lượng nước còn lại là 2.749,254 tấn, được thải trực  
tiếp ra nguồn tiếp nhận kênh nội đồng.  
R
m = mp1 + mp2 + … + mpn : Tổng sản phẩm  
P
m = mw1 + mw2 + … + mwn: Tổng lượng chất thải  
W
m = m + ms2 + … + msn : Tổng lượng sản phẩm  
s
s1  
tồn lưu  
m = mL1 + mL2 + … + mLn : Tổng lượng thất thoát  
L
là vật liệu không xác định  
KẾT QUẢ  
Các chỉ tiêu sinh lý và năng suất cây rau  
muống nước  
Cây rau muống được thu hoạch vào ngày thứ 30 sau  
khi gieo. Các chỉ tiêu sinh lý và năng suất cây rau  
muống được thu thập, phân tích và xử lý số liệu.  
Bảng 2 trình bày các chỉ tiêu sinh lý và năng suất của  
rau muống ở các ao khác nhau. Kết quả thực nghiệm  
cho thấy rằng cây rau muống sinh trưởng và phát triển  
tốt trong môi trường nước thải ao nuôi cá. Nguồn  
dinh dưỡng chủ yếu của cây rau muống nước trong  
Lượng thức ăn cá được chuyển hóa trong cá thành  
phẩm là 18.194,04 kg, và tích lũy trong lượng cá bị  
chết là 79 kg. Hệ số chuyển hóa thức ăn FCR (feed  
convertion ratio) là 1,48, và hiệu quả chuyển hóa và  
thực nghiệm này là các chất thải có trong ao nuôi tích lũy lượng thức ăn trong cá thành phẩm là 12,13%.  
120  
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Trái đất và Môi trường, 4(1):115-127  
Bảng 1: Phương pháp xác định các chỉ tiêu  
Chỉ tiêu  
Đơn vị  
%
Phương pháp xác định  
Hàm lượng chất khô  
Hàm lượng chất khô cả thân và lá được  
sấy khô ở nhiệt độ 60-80oC đến khi  
trọng lượng không đổi rồi quy ra vật  
chất khô trên 100 g rau tươi.  
Hàm lượng nước  
Độ Brix  
%
Phương pháp chuẩn độ Karl Fischer  
đo bằng máy đo Brix  
%
Tổng Cacbon hữu cơ  
mg/L  
phân tích theo phương pháp Walkley-  
Blach: oxy hóa bằng H2SO4 đđ,  
K2Cr2O7,chuẩn độ bằng FeSO4.  
Tổng Nito  
mg/L  
mg/L  
Công phá bằng H2SO4 đđ CuSO4-Se,  
tỷ lệ: 100-10-1. Chưng cất micro Kjel-  
dahl.  
Tổng Photpho  
công phá bằng H2SO4đđ-HClO4, hiện  
màu của phocphomolybdate với chất  
khử là acid aascorbic, so màu trên máy  
sắc kế.  
Tổng Kali  
mg/L  
phân tích trên máy quang kế ngọn lửa  
(Flamphotometer) tại bước sóng 768  
nm  
Bảng 2: Các chỉ tiêu sinh lý và năng suất raumuống nước một vụ  
Chỉ tiêu  
Đơn vị  
dm2/cây  
%
Ao 1  
1,75  
Ao 2  
1,72  
Ao 3  
1,64  
Ao 4  
1,62  
Ao 5  
1,59  
Diện tích lá  
Hàm lượng  
chất khô  
11,54  
11,37  
11,13  
11,02  
10,98  
Hàm lượng  
nước  
%
88,46  
88,63  
88,87  
88,98  
89,02  
Độ Brix  
%
6,13  
0,6  
6,08  
0,57  
6,03  
0,54  
6,01  
0,50  
5,97  
0,47  
Năng suất  
tấn/300 m2  
Lượng thức ăn còn lại cũng như sự chuyển hóa phần bùn này thu gom nhưng chưa có kết hoạch xử lý. Từ  
lớn của nguồn thức ăn này thành sản phẩm bài tiết  
của cá được tích lũy trong bùn đáy ao, tích lũy trong  
rau muống và một phần thải ra nguồn tiếp nhận.  
Lượng điện tiêu thụ do máy bơm nước được chuyển  
hóa thành công và nhiệt năng thải vào môi trường.  
Lượng cá giống 140 kg được cộng dồn vào một lượng  
nhỏ cá chết thải trực tiếp ra môi trường và lượng cá  
thành phẩm.  
Sau quá trình thu hoạch cá, lượng bùn đáy ao được  
xác định là 315 tấn khô. Các thành phần tham gia  
góp phần vào bùn đáy ao gồm có thức ăn dư thừa của  
cá, sản phẩm bài tiết của cá, xác vi sinh vật có trong ao  
nuôi cá, lượng vôi và hóa chất dùng xử lý đáy ao, lượng  
bùn đất xói mòn của ao nuôi cá, và các chất lơ lững  
những phân tích trên, chúng tôi đề xuất giải pháp ủ  
phân compost lượng bùn thải này phục vụ phục lại  
cho cây trồng xung quanh. Giảm thiểu phát thải ra  
môi trường, tận dụng tối đa nguồn thải như là nguyên  
liệu cho ngành sản xuât phân hữu cơ, và tăng hiệu quả  
kinh tế từ nguồn thu này.  
Sản lượng rau muống thu được sau 5 vụ là 2.680 kg.  
Trong đó, lượng nước chiếm 2.380 kg và lượng chất  
khô còn lại (98 kg) hấp thu dinh dưỡng từ nước ao  
nuôi cá, và lượng cacbon (202 kg) có trong môi trường  
khí quyển thông qua quá trình quang hợp. Như vậy,  
việc tận dụng các ao rau muống xử lý nước thải ao  
nuôi cá đã hấp thu và tích lũy lại một phần chất thải  
có trong nước đầu vào của ao nuôi. Hiện tại lượng từ nước thải của ao nuôi.  
121  
   
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Trái đất và Môi trường, 4(1):115-127  
Nhìn chung, qua phân tích kiểm toán dòng vật chất pH nước thải ao nuôi cá dao động trong khoảng 6,78 -  
trong ao nuôi cá cho chúng ta thấy rằng. Canh 7,15. So với tiêu chuẩn nước mặt QCVN 08:2008/BT-  
tác nuôi cá theo phương pháp truyền thống thì  
lượng nước thải thải trực tiếp ra nguồn tiếp nhận là  
2.751,634 tấn, và lượng chất thải rắn (bùn thải) là  
315,314 tấn. Trong khi đó, áp dụng các biện pháp  
giảm thiểu sẽ giảm được một lượng lớn chất thải rắn  
thải trực tiếp ra nguồn là 315,098 tấn chất thải rắn.  
Tổng nguyên liệu đầu vào  
NMT (pH phải có giá trị từ 6,0-8,5 là thích hợp cho  
môi trường thủy sinh), và quy chuẩn nước thải QCVN  
24:2009/BTNMT (pH từ 5,5-9), giá trị nước thải ao  
nuôi cá tra sau khi được xử lý bằng các ao rau muống  
đạt giá trị xả thải ra nguồn tiếp nhận.  
Tổng quá trình xử lý hữu cơ tổng (TOC) của 5 ao rau  
muống là 37,93%. Hàm lượng TOC trong nước thải  
từ ao nuôi giảm dần sau khi được xử lý qua 5 ao rau  
muống lần lượt là 14,45%, 10,55%, 7,61%, 7,31% và  
5,26%. Hiệu quả xử lý nitrogen của 5 ao rau muống là  
21,68% và hiệu quả xử lý nitrogen lần lượt của các ao  
là 7,19%, 5,10%, 4,83%, 3,16% và 3,5%. Trong khi đó  
hiệu quả xử lý photpho của ao rau muống là cao nhất  
59,49%. Hiệu quả xử lý photpho của ao rau muống  
thứ nhất (Ao 1) là 21,51% và hiệu quả xử lý thấp nhất  
ở ao thứ 5 (Ao 5) là 13,51%. Nhìn chung, kết quả thực  
nghiệm cho thấy rằng khả năng xử lý TOC, nitrogen,  
photpho và kali trong nước thải giảm dần từ ao thứ  
nhất (Ao 1) cho đến Ao thứ 5 (Ao 5) đồng thời đạt  
quy chuẩn xả thải ra môi trường (QCVN 11:2015/BT-  
NMT).  
m = mnc + m n + mcging = 3.150.000 + 150.000 +  
R
thc  
140 = 3.300.140 kg  
Tổng sản phẩm  
m = mp1 + mp2 + … + mpn = 101.078 kg  
P
Tổng lượng chất thải  
m = m + mc + mbnthi = 2.751. 634 + 545 +  
W
nc  
thi  
cht  
315.000 = 3.067.179 kg  
Tổng lượng sản phẩm tồn lưu  
m = m = 412,745 kg  
s
s1  
Tổng lượng thất thoát là vật liệu không xác định  
m = mnc bay hi = 315.000 kg  
L
Đánh giá hiệu quả mô hình  
Đánh giá về hiệu quả môi trường  
Nitrogen (N) và photpho (P) được xem là một trong  
những nguyên nhân chính gây nên hiện tượng phú  
dưỡng hóa nguồn nước17. Đặc biệt, P được xem là  
nguyến tố chính gây ra hiện tượng phú dưỡng hóa  
cho nguồn nước ngt18. Phú dưỡng nguồn nước gây  
ra những bất lợi cho sinh vật thủy sinh và giảm chất  
lượng nguồn nước19. Việc xử lý nguồn nước thải từ  
ao nuôi cá giúp giảm nồng độ N và P trong nước thải  
trước khi thải ra nguồn tiếp nhận. Đặc biệt là hàm  
lượng P giảm đi đáng kể, đạt 0,64 mg/L tại đầu ra là  
một trong những giải pháp kiểm soát hàm lượng P  
trong nước thải trước khi thải vào kênh.  
Ngoài ra, 3 nguyên tố nitrogen (N), photpho (P) và  
kali (K) được xem là các nguyên tố đa lượng của cây  
trồng. Chúng tham gia vào các thành phần cầu trúc  
hóa học quan trọng của cơ thể sống và đóng vai trò  
quan trọng cho sự sinh trưởng, phát triển và năng suất  
cây trồng20. Hàm lượng 3 nguyên tố này trong nước  
thải ao nuôi cá giảm xuống sau khi đi qua các ao rau  
muống cho thấy rằng khả năng hấp thu các nguyên tố  
này của cây rau muống góp phần vào hình thành cấu  
trúc cơ thể sống, góp phần thúc đẩy sự sinh trưởng,  
phát triển và năng suất xanh cho cây rau muống. Như  
vậy, việc xử lý nước thải ao nuôi cá bằng cây rau  
muống không những góp phần giảm thiểu ô nhiễm  
cho nguồn nước mà còn góp phần tái sử dụng các  
thành phần thải từ ao nuôi cá cung cấp dinh dưỡng  
Hiện tại, các hộ nuôi cá tại khu vực này nước thải từ  
ao nuôi cá thải bỏ trực tiếp ra môi trường và gây ô  
nhiễm nguồn nước kênh rạch nội đồng. Các hợp chất  
có trong bùn thải sẽ góp phần gây ô nhiễm nguồn  
nước kênh. Việc tái sử dụng nguồn dinh dưỡng có  
trong nước thải ao nuôi để trồng rau muống, hay mô  
hình cây rau muống cộng sinh trên nền nước thải ao  
nuôi cá tra, giúp giảm thiểu phát thải gây ô nhiễm  
môi trường. Loại bỏ một trong những tác nhân gây  
ô nhiễm nguồn nước kênh Núi Chóc Năng Gù, bảo  
vệ môi trường. Đồng thời, tăng thêm nguồn thu nhập  
cho hộ nuôi cá tra thay vì chỉ để trống mảnh đất trong  
thời gian không canh tác lúa.  
eo kết quả đánh giá diễn biến chất lượng nước  
ao nuôi của Lê Hoàng Nam16 cho thấy hầu hết các  
thông số vật lý (nhiệt độ, pH, TSS) và hóa học (DO,  
BOD5, COD) vẫn nằm trong ngưỡng cho phép; các  
thông số về dưỡng chất (Ntổng, Ptổng) và vi sinh  
(tổng Coliform) không đạt yêu cầu xả thải được quy  
định tại QCVN 02- 20:2014/ BNNPTNT và QCVN  
08-MT:2015/BTNMT.  
Hiệu quả xử lý nước thải ao nuôi của rau muống được  
trình bày trong Bảng 2. Kết quả thực nghiệm cho thấy  
rằng, thành phần ô nhiễm của nước giảm dần qua các  
ao rau muống khác nhau. Điều này cho thấy rằng rau  
muống hấp thu tốt các chất ô nhiễm có trong nước  
thải ao nuôi. Hiệu quả xử lý TOC, N, P và K có trong  
nước thải ao nuôi thông qua 5 ao rau muống lần lượt cho cây rau muống, tăng hiệu quả sử dụng và chuyển  
là 37,93%, 29,26%, 59,49% và 37,5%.  
hóa thành phần thức ăn của cá.  
122  
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Trái đất và Môi trường, 4(1):115-127  
Hình 5: Kiểm toán dòng vật chất trong ao nuôi.  
Bảng 3: Thành phần và tính chất nước thải aonuôi cá trong các ao rau muống khác nhau  
Chỉ tiêu  
Đơn vị  
Đầuvàocủa Đầu ra  
Ao 1  
Ao 1  
Ao 2  
9,32  
9,5  
Ao 3  
8,61  
9,33  
0,87  
6,23  
Ao 4  
7,98  
8,57  
0,74  
5,82  
Ao 5  
7,56  
8,27  
0,64  
5,45  
TOC  
mg/L  
mg/L  
mg/L  
mg/L  
11,34  
10,56  
1,58  
10,42  
9,8  
N tổng  
P tổng  
K tổng  
1,24  
7,58  
1,02  
6,89  
8,72  
Ngoài sử dụng để xử lý nước thải từ ao cá Rau muống Rau muống có khả năng hấp thụ các chất ô nhiễm có  
còn được dung để xử lý nước thải vô cơ từ phòng thí hàm lượng cao TN, TP, Fe, Zn trong nước sông Nhuệ.  
nghiệm khoa Hóa của Rau Muống đạt trên 63,6% và Rau muống hấp thụ 21,0 ÷27% TN, 23,9 ÷30,4 TP.  
hầu như các kim loại nặng đều đạt loại A sau 5 ngày Quá trình tự làm sạch của nước ở các bể đối chứng  
xử lý. Do đó, hầu hết các chỉ tiêu khảo sát đều dừng đạt hiệu quả thấp so với các bể thí nghiệm trồng rau  
lại sau 5 ngày. Tuy nhiên, các chỉ tiêu nhiệt độ, độ muống. Sau 14 ngày TNG, chỉ 31÷ 35% TSS ở các bể  
màu, pH, Ammonium, Nitrogen và Phosphorus vẫn đối chứng giảm so với 77,7 ÷91% ở các bể trồng rau  
được khảo sát nhằm theo dõi điều kiện sống của Rau muống. Như vậy tại thời 24 điểm cuối thí nghiệm, ở  
Muống. Kết quả cho thấy, các chỉ tiêu này hầu như ổn các bể có trồng thực vật, chất lượng nước sông Nhuệ  
định sau 10 ngày theo dõi21  
.
hầu hết đạt được tiêu chuẩn nước tưới tiêu thuỷ lợi  
123  
   
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Trái đất và Môi trường, 4(1):115-127  
của BTNMT (QCVN 08:MT/BTNMT/2015)22  
.
KẾT LUẬN  
Rau muống có thể được sử dụng như một loại cây  
trồng thủy sinh dùng để xử lý nước thải từ hoạt động  
nuôi trồng thủy sản. Hiệu quả xử lý photpho của cây  
rau muống là cao nhất 59,49%, khả năng xử lý TOC  
là 37,93% và nitrogen là 29,26%. Ngoài ra, cây rau  
muống cũng đem lại một nguồn lợi nhuận đáng kể  
cho hộ gia đình sau một vụ nuôi cá. Bằng phương  
pháp phân tích kiểm toán dòng vật chất của ao nuôi  
cá cho thấy rằng, việc tái sử dụng lượng bùn đáy ao  
sản xuất thành compost sẽ giảm thiểu đáng kể lượng  
chất thải rắn thải trực tiếp vào nguồn tiếp nhận, giảm  
thiểu tác nhân gây ô nhiễm môi trường nước. Kết  
quả khả quan thu được ở quy mô thử nghiệm là cơ  
sở để mở rộng ứng dụng công nghệ này trong xử lý  
nước ao nuôi cá trên diện rộng và xa hơn là xử lý các  
loại nước thải khác như nước thải sinh hoạt, nước  
thải chăn nuôi… Kết quả nghiên cứu của đề tài dù  
không hẳn hoàn toàn mới nhưng khả năng áp dụng  
tốt cho những nơi không có điều kiện hoặc ở nông  
thôn, không đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật cao, có tính thực  
tế, hiệu quả, kinh tế gắn với môi trường nuôi trồng  
nhỏ lẻ phổ biến hiện nay.  
Đánh giá lợi ích kinh tế mô hình  
Hiệu quả kinh tế mô hình tái sử dụng nước thải ao  
nuôi cá dùng để trồng rau muống không những giảm  
thiểu ô nhiễm môi trường mà còn đem lại thu nhập  
thêm cho người nuôi cá. Vi diện tích trồng rau  
muống 1.500 m2 sau một vụ nuôi cá, chủ hộ sẽ thu  
thêm được 5 lứa rau muống. Sau khi trừ hết chí phí  
đầu tư, chủ hộ đã tăng thêm thu nhập 24.820.000  
VN đồng/vụ (Bảng 4). Vì vậy ngoài nguồn thu nhập  
chính từ cá chủ hộ có thêm nguồn thu nhập từ việc  
tận dụng nước thải ao nuôi (Bảng 5).  
THẢO LUẬN  
Trong số các loài cây cỏ có tính năng làm sạch nước  
thì rau muống (Ipomea aquatica) là giống bản địa phát  
triển rất nhanh nhưng dễ kiểm soát vì hạt không thể  
tự mọc trong nước. Đây lại là nguồn thực phẩm có  
nhu cầu lớn nên không phải xử lý lượng sinh khối  
khổng lồ sau một chu kỳ sử dụng. Một nghiên cứu  
công bố trên báo Agricultural Water Management số  
95 (năm 2008) cho biết hàm lượng kim loại nặng chủ  
yếu tập trung trong bùn rễ và rồi lắng xuống đáy nước,  
trong khi sản phẩm rau muống vẫn bảo đảm mức độ  
an toàn thực phẩm theo các yêu cầu của Tchức Y tế  
ế giới (WHO) và Cơ quan Lương Nông Liên hợp  
quốc (FAO).  
Kết quả đề tài nghiêncứuđã chứng minh được rằng  
trong trường hợp hộ nuôi cá có được một diện tích  
vừa phải thì môhìnhdùng thực vật thủy sinh (rau-  
muống) là phương án ưu tiên do có thể xử lý một  
lượng nước thải tương đối lớn, nhu cầu diện tích đất  
vừa phải (khoảng 20% tổng diện tích nuôi), tăngthun-  
hậpchohộnuôi, chi phí vận hành cho xử lý thấp, công  
nghệ xử lý đơn giản, chi phí hóa chất và năng lượng  
thấp - đây cũng chính là những tiêu chí mà người nuôi  
cá trên địa bàn tỉnh An Giang đặt ra đối với một hệ  
thống xử lý nước thải có thể chấp nhận đầu tư.  
Tuy nhiên, mô hình vẫn có một vài điểm thiếu sót;  
vẫn còn vấn đề, chỉ chú trọng đến các nguyên tố dinh  
dưỡng cho cây trồng N, P, K chưa nghiên cứu thêm  
các thông số khác như BOD, COD, SS, Coliform, chưa  
tận dụng được toàn bộ lượng bùn thải; sản lượng và  
lợi nhuận thu lại của ao rau muống vẫn dễ dàng bị  
biến động từ thị trường do khó có một nguồn thu ổn  
định và lâu dài hơn; tâm lý, cũng như kinh nghiệm  
của người dân vẫn còn là một vấn đề lâu dài cần thời  
gian để thay đổi, cũng như khuyến khích và vận động  
để áp dụng mô hình.  
LỜI CẢM ƠN  
Tập thể tác giả xin chân thành gửi lời cảm ơn đến Sở  
Khoa học và Công nghệ tỉnh An Giang đã tài trợ thực  
hiện nghiên cứu này.  
Xin cảm ơn đến Đại học Quốc gia TP HCM, văn  
phòng chương trình Tây Nam Bộ, Viện Môi trường  
và Tài nguyên đã hỗ trợ, tạo mọi điều kiện thuận lợi  
để chúng tôi có thể hoàn thành nghiên cứu, xin cảm  
ơn các Sở Ban Ngành đặc biệt là Sở Tài nguyên và Môi  
trường các tỉnh ĐBSCL đã hỗ trợ và cung cấp số liệu,  
tạo điều kiện khảo sát thực tế địa phương.  
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT  
BOD5: Nhu cầu oxy hóa sinh học  
COD: Nhu cầu ôxy hóa học  
ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long  
DO: Lượng oxy hoà tan trong nước cần thiết cho sự  
hô hấp của các sinh vật  
EC: Độ dẫn điện  
TOC: Tổng cacbon hữu cơ  
NTTS: Nuôi trồng thủy sản  
VN: Việt Nam  
XUNG ĐỘT LỢI ÍCH  
Nhóm tác giả cam đoan rằng không có xung đột lợi  
ích trong công bố bài báo “Nghiên cứu đề xuất mô  
124  
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Trái đất và Môi trường, 4(1):115-127  
Bảng 4: Đánh giá lợi nhuận sau mộtvụ nuôi cá  
Diện tích  
Đơn vị  
1.500m 2  
5
Số đợt thu hoạch  
Đợt  
Lượng rau thu hoạch trong vụnuôicá  
Gía 1kg rau muống trên thị trường  
Số tiền thu được trong một năm  
Số tiền mua 1 kg hạt giống  
Số lượng hạt giống cần cho 5 đợt  
Số tiền mua hạt giống  
Kg/tấn  
VNĐ  
2680kg  
10.000/1kg  
26.800.000  
8000  
VNĐ  
VNĐ  
kg  
60  
VNĐ  
480.000  
5
Số công nhân thuê cắt rau  
Tiền công một lần cắt  
Công nhân  
VNĐ/1 công nhân  
VNĐ  
300.000  
1.500.000  
Tổng số tiền trả cho công nhân trong 5 đợt thu  
hoạch rau muống.  
Tổng  
VNĐ  
24.820.000  
Bảng 5: Thu nhập của hộ nuôi cá sau 1 vụ nuôi  
u nhập  
Cá  
Trướckhiápdụngmô hình  
Saukhiápdụngmô hình  
800.000.000  
800.000.000  
-
Rau muống  
24.820.000  
hình cộng sinh cho hoạt động nuôi trồng thủy sản  
nước ngọt và trồng rau màu trên địa bàn tỉnh An Gi-  
ang”  
7. Ying-Feng, Jing SR, Lee DY, Chang YF, Chen YM, Shih KC. Per-  
formance of a constructed wetland treating intensive shrimp  
aquaculture wastewater under high hydraulic loading rate,.  
Environ Pollut. 2005;134(3):411–421.  
8. Ying-Feng, Jing SR, Lee DY, Wang TW. Nutrient removal from  
aquaculture wastewater using a constructed wetlands sys-  
tem,. Aquaculture. 2002;209(1-4):169–184.  
9. Khater ESG, Bahnasawy AH, Shams AEHS, Hassaan MS, Hassan  
YA. Utilization of effluent fish farms in tomato cultivation. Ecol  
Eng. 2015;83:199–207.  
10. Wenxiang, Zhongjie. In situ nutrient removal from aquacul-  
ture wastewater by aquatic vegetable Ipomoea aquatica on  
floating beds,. Water Sci Technol. 2009;59(10):1937–1943.  
11. Hende SVD, Taelman SE, Meester SD, Dewulf J. Environmental  
sustainability assessment of a microalgae raceway pond treat-  
ing aquaculture wastewater: From up-scaling to system inte-  
gration. Bioresour Technol. 2015;190:321–331.  
ĐÓNG GÓP CỦA TÁC GIẢ  
Tác giả Nguyễn Hồng Anh ư, Trần ị Hiệu, Trà  
Văn Tung, Nguyễn Việt ắng, Nguyễn Khôn Huyền,  
Lê Quốc Vĩ, Nguyễn ị Phương ảo, Lê anh Hải  
cùng thực hiện tất cả các bước và quy trình xây dựng  
kết quả của nghiên cứu này.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
12. Trang NTD, Brix H, Jouven M, Thomas M, Tichit M. Use  
of planted biofilters in integrated recirculating aquaculture-  
hydroponics systems in the Mekong Delta, Vietnam. Aquac  
Res. 2014;45(3):460–469.  
1. L. T. La và N. T. Hải, “Quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản  
vùng Đồng bằng Sông Cửu Long đến năm 2015, định hướng  
đến năm 2020,Cục Nuôi trồng Thủy sản, Bộ Nông nghiệp và  
Phát triển nông thôn, p. 237, 2009.  
13. L. A. Tuấn, “Xử lý nước thải ao nuôi cá nước ngọt bằng đất  
ngập nước kiến tạo,Hội thảo Quản lý và xử lý ao nuôi thủy  
sản, Sở NN và PTNT An Giang, 2007.  
14. Quy trình kỹ thuật trồng rau muống nước. Sở Nông nghiệp và  
Phát triển Nông thôn TP Hồ Chí Minh;.  
2. Dieu TTM, Brown PH. Greening food processing industry in  
Vietnam: Putting industrial ecology to work; 2003.  
3. Bonaudo T, et al. Agroecological principles for the redesign of  
integrated crop–livestock systems,. Eur J Agron. 2014;57:43–  
51.  
15. Nguyên PQ, Bé NV, Công NV. Xác định số lượng, chất lượng  
bùn đáy ao nuôi cá tra (Pangasianodon Hypophthalmus) và  
sử dụng trong canh tác rau,. Tạp chí Khoa học Trường Đại học  
Cần Thơ. 2014;p. 78–89.  
16. Nam LH, Bé NV, Ngân NVC, Wang. Khảo sát chất lượng nước ao  
nuôi cá tra công nghiệp phục vụ quản lý chất lượng ao nuôi,.  
Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một;35:46–54.  
4. Dumont B, Fortun-Lamothe L, Jouven M, Thomas M, Tichit M.  
Prospects from agroecology and industrial ecology for animal  
production in the 21st century. Animal. 2013;7(6):1028–1043.  
5. Nguyên NTT, Trang NTD, Brix H, Long LM. Khả năng xủa lý  
nước nuôi thủy sản thâm canh bằng hệ thống đất ngập nước  
kiến tạo,. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 2012;p.  
198–205.  
17. Schindler DE, Vallentyne JR, Brix H, Long LM. The algal bowl:  
overfertilization of the world’s freshwaters and estuaries Ed-  
monton. Alberta, Canada: University of Alberta Press; 2008.  
6. Konnerup D, Trang NTD, Brix H. Treatment of fishpond water  
by recirculating horizontal and vertical flow constructed wet-  
lands in the tropics,. Aquaculture. 2011;313(1-4):57–64.  
125  
                                     
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Trái đất và Môi trường, 4(1):115-127  
18. Hecky RE, Kilham P. Nutrient limitation of phytoplankton in  
freshwater and marine environments: a review of recent ev-  
idence on the effects of enrichment 1. Limnol Oceanogr.  
1988;33(4 part 2):796–822.  
19. Shinde R, Gawande S. Eutrophication and aquatic life. Int J  
Adv Res Sci Eng Technol. 2016;4(3):238–243.  
21. Nam TT. Đánh giá khả năng sinh tồn và xử lý nước thải vô cơ  
của phòng thí nghiệm khoa hóa học ứng dụng tại trường đại  
học trà vinh của một số loài thực vật thủy sinh,; 2008.  
22. Thảo VTP, Vallentyne JR. Nghiên cứu thực nghiệm, đánh giá  
vai trò của một số loài thực vật thủy sinh và đề xuất giải pháp  
sinh học nhằm cải thiện chất lượng môi trường nước sông  
Nhuệ,. Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi Khí hậu.  
2017;.  
20. White PJ, Brown PH. Plant nutrition for sustainable develop-  
ment and global health. Ann Bot. 2010;105(7):1073–1080.  
126  
         
Science & Technology Development Journal – Science of The Earth & Environment, 4(1):115-127  
Research Article  
Open Access Full Text Article  
Study on the proposal of a community of freshwater aquaculture  
and vegetable farming in An Giang  
Nguyen Hong Anh Thu*, Tran Thi Hieu, Tra Van Tung, Nguyen Viet Thang, Nguyen Khon Huyen, Le Quoc Vi,  
Nguyen Thi Phuong Thao, Le Thanh Hai  
ABSTRACT  
In recent years, fish farming (Pangasianodon hypophthalmus) an important contribution to the  
economy of Vietnam in general and the Mekong Delta provinces in particular. However, along  
Use your smartphone to scan this  
QR code and download this article  
with economic development issues is the problem of environmental pollution and disease caused  
by waste from fish farming operations. The optimal solution to this problem is the wastewater treat-  
ment of aquaculture. To the aquaculture industry in general and the fish farming profession in par-  
ticular sustainable development, and to protect the natural environment, the research group con-  
ducts a symsanitary models of livelihoods symbiosis between freshwater aquaculture operations  
and vegetable farming. This model functioned as a way to reuse water and nutrients discharged  
from aquaculture activities, which caters for vegetable farming. The efficiency of the model is to  
minimize a large amount of solid waste disregarded directly to the receiving source, which was  
315.098 kg. The quality of wastewater had been improved after releasing it to the source. The to-  
tal amount of carbon (TOC), nitrogen and phosphorus was 7.56%, 8.27% and 0.64% respectively,  
all of which meet the standard index of waste discarded directly into the environment. Thus, the  
wastewater treatment ponds with tree water morning glory contribute to reducing pollution to  
water sources but also contribute to reuse components of waste from fish pond provides nutrients  
for plant water morning glory, increased efficiency, and the metabolic component of fish feed. In  
addition, the model also brings additional income for households with 24.9 million VN dong after  
every fish breeding in comparison with the traditional farming model.  
Key words: sustainable livelihoods, symbiotic models, ecological modeling, fisheries waste,  
reduce pollution  
Institute For Environment And  
Resources – VNU-HCM, Vietnam  
Correspondence  
Nguyen Hong Anh Thu, Institute For  
Environment And Resources –  
VNU-HCM, Vietnam  
Email: anhthu0710.95@gmail.com  
History  
Received: 05-8-2019  
Accepted: 19-11-2019  
Published: 05-4-2020  
DOI : 10.32508/stdjsee.v4i1.505  
Copyright  
© VNU-HCM Press. This is an open-  
access article distributed under the  
terms of the Creative Commons  
Attribution 4.0 International license.  
Cite this article : Hong Anh Thu N, Thi Hieu T, Van Tung T, Viet Thang N, Khon Huyen N, Quoc Vi L, Thi  
Phuong Thao N, Thanh Hai L. Study on the proposal of a community of freshwater aquaculture and  
vegetable farming in An Giang. Sci. Tech. Dev. J. - Sci. Earth Environ.; 4(1):115-127.  
127  
pdf 13 trang Hứa Trọng Đạt 09/01/2024 660
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu đề xuất mô hình cộng sinh cho hoạt động nuôi trồng thủy sản nước ngọt và trồng rau màu trên địa bàn tỉnh An Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_de_xuat_mo_hinh_cong_sinh_cho_hoat_dong_nuoi_tron.pdf