Đánh giá sự biến đổi chất lượng của tôm sú nhằm xác định hạn sử dụng bằng các phương pháp bảo quản khác nhau

Khoa học Nông nghiệp  
Đánh giá sự biến đổi chất lượng của tôm sú  
nhằm xác định hạn sử dụng  
bằng các phương pháp bảo quản khác nhau  
Lê Nhất Tâm1*, Đoàn Như Khuê1, Huỳnh Nguyễn Quế Anh1,  
Trương Huỳnh Anh Vũ2, Chu Vân Hải2  
1Trường Đại học Công nghiệp TP Hồ Chí Minh  
2Trung tâm Dịch vụ phân tích thí nghiệm TP Hồ Chí Minh,  
Sở KH&CN TP Hồ Chí Minh  
Ngày nhận bài 27/12/2018, ngày chuyển phản biện 7/1/2019; ngày nhận phản biện 18/3/2019; ngày chấp nhận đăng 25/3/2019  
Tóm tắt:  
Những biến đổi chất lượng cảm quan, hóa sinh và vi sinh của tôm sú sau thu hoạch được xem xét trong nghiên  
cứu này. Tôm được xử lý và bảo quản bằng các phương pháp khác nhau ở 0°C trong 14 ngày. Ba mẫu tôm xử lý  
được đánh giá so với mẫu đối chứng (bảo quản 0°C). Các phương pháp xử lý, bảo quản bao gồm ngâm trong dịch  
polyphenol 2,5%, bảo quản chân không, và kết hợp ngâm trong dịch polyphenol trước khi bảo quản chân không.  
Các chỉ số chất lượng bao gồm TVC (total viable count), QI (quality index), TVB-N (total volatile base nitrogen) và  
TMA-N (trimethylamine nitrogen) được xác định trong suốt quá trình bảo quản. Kết quả cho thấy, TVC tăng đáng  
kể vào cuối thời gian bảo quản. TVB-N và TMA-N tăng cùng với thời gian bảo quản nhưng ở hai giai đoạn khác  
nhau. Giá trị QI tương quan tuyến tính với thời gian bảo quản. Hạn sử dụng của các mẫu xử lý dài hơn so với mẫu  
đối chứng. Các mẫu đóng gói chân không có thể duy trì chất lượng tôm trong 12 ngày. Thời hạn sử dụng cꢀn lại có  
thể ước tính thông qua phương trình hồi quy tuyến tính.  
Từ khóa: polyphenol, QI, TMA-N, tôm sú, TVB-N, TVC.  
Chỉ số phân loại: 4.5  
pháp bảo quản trong biến đổi thành phần khí (MAP), xử lý  
Đặt vấn đề  
bằng nước ozon, xử lý bằng các muối acid hữu cơ, xử lý  
Tôm sú và tôm thꢀ chân trắng là hai loài tôm xuất khẩu  
bằng các hợp chất có hoạt tính sinh học [5]. Tiến trình ươn  
mạnh ở Việt Nam trong những năm gần đây. Kim ngạch xuất  
hỏng tôm sau khi chết trải qua 2 giai đoạn tự phân và phân  
khẩu từ tôm so với tổng kim ngạch xuất khẩu ngành thủy  
hủy. Trong đó, vi khuẩn là tác nhân chính ở giai đoạn sau  
sản năm 2016: 47% (3,3 tỷ USD/7,45 tỷ USD); năm 2017:  
[6]. Các yếu tố bao gồm enzyme, vi khuẩn, và phản ứng hóa  
45% (3,8 tỷ USD/8,30 tỷ USD); năm 2018: 39,80% (3,58 tỷ  
học được xem là nguyên nhân gây ra tiến trình này [1]. Sự  
USD/9 tỷ USD). Tuy nhiên, tôm cũng như các loài thủy sản  
tác động của 3 yếu tố trên gây nên những biến đối trạng thái  
khác, dễ bị hư hỏng sau thu hoạch so với các loài súc sản.  
cảm quan, vật lý, thành phần hóa học, và lượng vi sinh vật  
Nguyên nhân do cấu trúc cơ thịt của các loài thủy sản lỏng  
ở tôm. TVB-N và TMA-N là hai chỉ số luôn được sử dụng  
lꢀo hơn so với các loài sinh vật trên cạn, thêm vào đó mạng  
để đánh giá chất lượng thủy sản, và Howgate (2010) đã có 2  
collagen của chúng cũng kém chặt chẽ hơn [1]. Tôm sau  
khi thu hoạch thường được bảo quản bằng nước đá, sau đó  
chuyển đến điểm thu mua. Tại đây, tôm được bảo quản đông  
lạnh. Vì vậy, chất lượng tôm suy giảm đáng kể trong khoảng  
thời gian bảo quản bằng nước đá. Đây chính là lý do tại  
sao nhiều nghiên cứu hướng tới kéo dài hạn sử dụng trong  
khoảng thời gian này [2-4]. Các phương pháp nghiên cứu  
nhằm kéo dài hạn bảo quản thực phẩm có thể được chia làm  
2 nhóm. Nhóm truyền thống như các phương pháp bảo quản  
công bố về hai chỉ số này [7]. Quality index method (QIM)  
được xem là phương pháp cảm quan được ưa chuộng nhất  
hiện nay trong đánh giá chất lượng thủy sản do đặc tính ưu  
việt của nó. Sự khác biệt của phương pháp này so với các  
phương pháp trước đây như EC scheme hay Quantitative  
Descriptive Analysis (QDA) là phương pháp đánh giá được  
xây dựng trên một loài cụ thể [8, 9]. Điều này giúp cho các  
chuyên gia đánh giá dễ dàng cảm nhận mức độ biến đổi của  
các thuộc tính cảm quan. Vì vậy, công tác huấn luyện hội  
lạnh, lên men, ướp muối, và nhóm hiện đại như phương đồng đánh giá cảm quan sản phẩm được tiến hành dễ dàng  
*Tác giả liên hệ: Email: lenhattam@iuh.edu.vn  
47  
61(5) 5.2019  
Khoa học Nông nghiệp  
QIM. Xu hướng nghiên cứu đánh giá kết hợp giữa các yếu  
tố cảm quan, hóa học, vi sinh đến độ tươi, đồng thời đánh  
giá phân loại chất lượng bằng các chỉ số chất lượng vẫn ít  
được đề cập. Đốm đen hay còn gọi là melanin xuất hiện rất  
nhanh ở loài giáp sát nói chung và tôm nói riêng nếu như  
bảo quản không hợp lý. Mặc dù đã có những công bố là  
melanin không ảnh hưởng tới sức khỏe người tiêu dùng,  
Evaluation on the changes in black  
tiger shrimp quality to determine  
its shelf-life using different  
preservation methods  
Nhat Tam Le1*, Nhu Khue Doan1, Nguyen Que Anh Huynh1, nhưng chúng làm giảm đáng kể giá trị kinh tế của tôm [14].  
Huynh Anh Vu Truong2, Van Hai Chu2  
1Industrial University of Ho Chi Minh City  
2Center of Analytical Services and Experimentation Ho Chi Minh City  
Nguyên nhân hình thành các đốm đen ở tôm bắt đầu từ các  
sinh vật gây bệnh chứa các thành phần như PGBP (phức  
peptidoglycan và protein), LGBP (phức lipopolysacharide  
và β-1,3-glucan - protein) và BGBP (β-1,3-glucan kết hợp  
protein) kích hoạt các enzyme polyphenoloxidase (PPO) từ  
vô hoạt trở nên có hoạt tính. Tiếp theo, PPO xúc tác chuyển  
hóa các nhóm phenol ở các acid amine thành quinone không  
màu. Cuối cùng các phân tử quinone bị oxy hóa bởi oxy  
không khí hình thành các sắc tố màu đen gọi là melanin  
[14]. Như vậy, có hai yếu tố liên quan đến sự tạo đốm đen,  
thứ nhất là sự có mặt các nhóm phenolic tồn tại ở các acid  
amine như tyrosine, phenylalanine; thứ hai là sự có mặt của  
oxygen trong quá trình oxy hóa các phân tử quinon thành  
melanin.  
Received 27 December 2018, accepted 25 March 2019  
Abstract:  
Thechangesinsensory, biochemical, andmicrobiological  
qualities of post-harvest black tiger shrimp were  
investigated in this research. Shrimp was treated and  
stored by different methods during 14 days at 0°C. Three  
treated shrimp samples were evaluated in comparison to  
the control sample (stored at 00C only). The preservation  
methods included immersing in polyphenol solution,  
vacuum packing, and combination of polyphenol  
solution and vacuum packing. Quality indices including  
total viable count (TVC), quality index (QI), total  
volatile basic nitrogen (TVB-N) and trimethylamine  
nitrogen (TMA-N) were determined during the storage.  
Results showed that TVC increased dramatically at the  
end of the storage period. TVB-N and TMA-N increased  
in accordance with the increase of storage time but at  
two different stages. The QI was linearly correlated with  
the storage time. The shelf-life of the treated samples  
was longer than that of the control samples. Vacuum  
packing could maintain the quality of shrimp samples  
for 12 days. Shelf-life remaining can estimate throught  
the linear regression equation.  
Nghiên cứu được thực hiện nhằm xem xét mối tương  
quan giữa các chỉ số chất lượng QI, TVC, TVB-N, TMA-N  
và thời gian bảo quản, xem xét khả năng ức chế hình thành  
đốm đen ở tôm. Hai phương pháp bao gồm bảo quản chân  
không, xử lý tôm với dung dịch polyphenol trước khi bảo  
quản, và kết hợp cả hai phương pháp trên được đưa vào  
thực hiện trong nghiên cứu này. Từ đó đưa ra phương pháp  
cải thiện chất lượng và kéo dài hạn sử dụng tôm sú sau thu  
hoạch.  
Đối tượng và phương pháp  
Đối tượng nghiên cứu  
Tôm sú: tôm sú được thu mua ở chợ đầu mối Bình Điền  
(TP Hồ Chí Minh). Tôm được lựa chọn có cấu trúc nguyên  
vẹn, còn sống, kích cỡ 35-40 con/kg. Khối lượng tôm dùng  
thí nghiệm là 30 kg, tôm được rửa bằng nước sạch, phân vào  
300 túi polyethylene vô trùng. Các túi mẫu được bảo quản  
trong thùng polystyrene chứa đá bào với tỷ lệ tôm: đá = 1:2  
(w/w), và được chuyển đến phòng thí nghiệm sau 2 giờ. Tại  
phòng thí nghiệm, các túi mẫu được tiếp tục đặt trong thùng  
xốp và giữ lạnh ở 0ºC bằng tủ lạnh.  
Keywords: black tiger shrimp, polyphenol, QI, TMA-N,  
TVB-N, TVC.  
Classification number: 4.5  
hơn, và kết quả đánh giá chính xác hơn. Hyldig cùng cộng  
sự (2004) dự đoán QIM là một phương pháp sẽ được sử  
dụng chính thức trong đánh giá chất lượng thủy sản ở cộng  
động châu Âu trong tương lai [8]. Vi khuẩn được xem là  
nguyên nhân chủ yếu gây nên quá trình hư hỏng thủy sản ở  
giai đoạn 2 [10]. Vì vậy, chỉ số TVC luôn được xem xét đánh  
giá [11, 12]. Ở nước ta hiện nay xu hướng phân loại các loại  
tôm nói chung vẫn theo tiêu chuẩn TCVN 3726-89 [13], và  
Hóa chất, thiết bị phân tích:  
- Dung dịch polyphenol 2,5%: dung dịch polyphenol  
được chiết từ rong sụn Cottonii (Kappaphycus alvarezii)  
dạng khô, được mua từ một cửa hàng ở phường Trung Mỹ  
Tây, quận 12, TP Hồ Chí Minh. Cân chính xác 20 g rong  
sụn, nghiền nhỏ. Dung môi ethanol cho vào rong sụn theo tỷ  
chưa có quy định đánh giá cho từng loại như phương pháp lệ 15 ml ethanol/1 g rong sụn, trích ly ở nhiệt độ 40ºC trong  
61(5) 5.2019  
48  
Khoa học Nông nghiệp  
5 giờ [15]. Dịch chiết thu được được cô quay chân không bày dưới dạng log CFU/g (colony forming units).  
để lấy cao ethanol có khối lượng từ 1,6 đến 2,0 g. Dung  
dịch polyphenol 2,5% được chuẩn bị từ kết quả đo tổng hàm  
lượng polyphenol.  
- Phương pháp QIM cho tôm sú: phương pháp đánh giá  
QIM cho tôm sú được thực hiện như của Lê Nhất Tâm và  
cộng sự (2017) [18]. Hội đồng gồm 6 chuyên gia tham gia  
xây dựng phương pháp QIM cho tôm sú. Đầu tiên tôm được  
để ươn tự nhiên, các chuyên gia sẽ quan sát, mô tả các chỉ  
tiêu bao gồm màu sắc, cấu trúc và mùi. Các thuộc tính của  
các chỉ tiêu này sẽ được ghi nhận cẩn thận theo trình tự từ  
lúc tươi cho đến khi ươn hỏng hoàn toàn. Tiếp theo, các  
chuyên gia sẽ sắp xếp thứ tự các thuật ngữ mô tả vào trong  
khung điểm từ 0 đến 3 theo độ tươi giảm dần. Bảng 1 là  
khung đánh giá điểm chất lượng cho các mục tiêu màu, cấu  
trúc và mùi. Các thuộc tính đánh giá bao gồm đầu, thân,  
đuôi, hình dáng và thịt.  
- Hóa chất: chuẩn TMA được đặt mua từ Công ty  
Sigma-Aldrich (Singapore). Các dung môi và hóa chất  
sử dụng trong phân tích như ethanol, toluene, acid picric,  
trichlomethanol được cung cấp từ Công ty Merck.  
- Thiết bị sử dụng trong nghiên cứu: thiết bị cô quay  
chân không eyela/Nhật (N-1200AS, 243110), thiết bị quang  
phổ hấp thu UV-Vis Thermo - Mỹ (GENESYS 50 UV-Vis),  
thiết bị đóng gói chân không Falcon 80 (Henkelmen Hà  
Lan), thiết bị đo độ chân không Testo 552 (Trung Quốc).  
Phương pháp nghiên cứu  
Bảng 1. Chương trình đánh giá QIM cho tôm sú (Penaeus  
Phương pháp bố trí thí nghiệm: tại phòng thí nghiệm, monodon)  
300 túi tôm được chia làm 4 phần, được bảo quản ở 0ºC theo  
4 kỹ thuật như sau:  
Thuộc tính  
Mô tả  
QI  
Hồng sáng  
0
1
2
3
0
1
2
3
0
1
2
3
0
1
2
3
Phần 1: mẫu đối chứng (ĐC): tôm được giữ nguyên và  
được bảo quản ở 0ºC.  
Xanh đồng sáng, không có điểm đen  
Xanh đồng, hơi đen, có vài vài đốm đen.  
Đen  
Đầu  
Phần 2: mẫu bảo quản trong túi chân không (CK): tôm  
được cho vào túi hút chân không đạt tới giá trị 2,50 mbar,  
xác định bởi thiết bị Testo 552, bảo quản ở 0ºC.  
Xanh đồng, sáng óng ánh  
Xanh nâu, độ sáng giảm, hơi đục.  
Đỏ nâu, đục, có vài đốm đen  
Đen  
Thân  
Đuôi  
Phần 3: mẫu xử lý trong dịch chiết polyphenol 2,5%  
(PP) trước khi bảo quản: tôm được nhúng trong dịch chiết  
polyphenol 2,5% (PP) trong khoảng thời gian 10 phút ở  
nhiệt độ 4ºC, bảo quản ở 0ºC.  
Màu  
Hồng sáng,  
Xanh đồng, sáng  
Xanh đồng, hơi đen, có vài đốm đen  
Đen  
Phần 4: mẫu xử lý trong dịch chiết polyphenol 2,5%  
(PP), sau đó được bảo quản trong túi chân không (PP/CK):  
tôm được nhúng trong dịch chiết polyphenol 2,5% trong  
khoảng thời gian 10 phút ở nhiệt độ 4ºC. Sau đó các túi mẫu  
được hút chân không đạt tới giá trị 2,50 mbar, xác định bởi  
thiết bị Testo 552, bảo quản ở 0ºC.  
Trắng sáng  
Trắng đục  
Thịt  
Hơi hồng  
Hồng hay hơi vàng  
Săn chắc, đầu gắn chặt vào thân  
0
1
Thời gian, nhiệt độ và nồng độ các dung dịch dùng xử lý  
tôm trước khi bảo quản được áp dụng như nghiên cứu của  
Sallam cùng cộng sự (2007) [16]. Tôm được bảo quản trong  
14 ngày, tần suất lấy mẫu 1 ngày/lần. Các chỉ tiêu đánh giá  
bao gồm TVC, TMA, TVC, và QI.  
Săn chắc, đầu gắn vào thân hơi lõng.  
Hình  
dáng  
Đầu gắn vào thân lỏng, vỏ gắn vào thịt hơi  
yếu.  
2
3
Đầu gần như rụng khỏi thân, thịt dể tách khỏi  
vỏ  
Cấu  
trúc  
Phương pháp phân tích:  
Cứng, đàn hồi  
Hơi mềm, độ đàn hồi giảm  
Mềm vừa phải  
Mềm và chảy nước  
Tươi  
0
1
2
3
0
1
2
3
- Phương pháp xác định TVC: phương pháp xác định  
TVC được thực hiện theo thông báo của Leboffe và Pierce  
(2012) [17]. Trong đó, 10 g tôm bảo quản ở những khoảng  
thời gian khác nhau được nghiền mịn với 90 ml dung dịch  
NaCl 0,9%, ly tâm và thu lấy phần dịch. Dịch thu được tiến  
hành pha loãng 10 lần. Các dung dịch có nồng độ pha loãng  
Thịt  
Thịt  
Rong biển  
-3, 10-4 và 10-5 được chọn để nghiên cứu. Mật độ  
Mùi  
bao gồm 10  
Không mùi, hơi chua  
Chua nồng  
vi sinh vật được đánh giá theo phương pháp đếm trên đĩa.  
Các thí nghiệm được lặp lại 3 lần và giá trị TVC được trình  
49  
61(5) 5.2019  
Khoa học Nông nghiệp  
- Phương pháp xác định TVB-N: hàm lượng TVB-N  
trong tôm được xác định theo công bố của Jinadasa [19].  
Tôm sau khi lột vỏ, bỏ đầu được cân khoảng 5 g rồi xay  
nhuyễn với 90 ml acid perchloric bằng máy xay (MX-  
SM1031S, Panasonic, Japan). Dịch sau khi trích ly được ly  
tâm và lọc qua giấy lọc định lượng Whatman số 1 (Sigma  
Aldrich, Germany) và định mức bằng nước cất thành 100  
ml. Tiến hành chưng cất dịch thu được trong môi trường  
kiềm, các thành phần của TVB được hấp thu bằng một  
lượng dư NaOH 0,1N và dùng HCl 0,1N để chuẩn độ.  
Thời điểm giá trị TVC tăng đột ngột vào ngày thứ 7  
cho mẫu ĐC, ngày 10 cho mẫu CK, ngày 7 cho mẫu PP  
và ngày 10 cho mẫu PP/CK. Điều này có thể giải thích do  
giai đoạn đầu của quá trình ươn hỏng là tự phân, tác nhân  
chính trong giai đoạn này được xem là các enzyme nội sinh.  
Vì vậy lượng TVC tăng không đáng kể [1]. Giá trị TVC  
của các mẫu vượt ngưỡng log cfu = 6 tại thời điểm ngày  
9, ngày 13, ngày 11 và ngày 13, tương ứng với mẫu ĐC,  
CK, PP và PP/CK. Theo Ủy ban quốc tế quy định vi sinh  
thực phẩm (International Commission on Microbiological  
Specifications for Foods - ICMSF) đối với tôm đông lạnh  
giá trị TVC = 6 (log cfu/g). Như vậy, hạn sử dụng của mẫu  
ĐC, CK, PP và PP/CK tương ứng là 8 ngày, 12 ngày, 10  
ngày và 12 ngày. Nguyên nhân chủ yêu gây ra sự hư hỏng  
thực phẩm nói chung và thủy sản nói riêng do tác nhân vi  
sinh vật [22]. Naik cùng cộng sự nghiên cứu trên tôm sú bảo  
quản ở 0oC cho thấy, giá trị TVC ban đầu là 3,72; 4,76; 5,33;  
5,52 (log cfu/g) tương ứng ở ngày 0, ngày 2, ngày 4, ngày  
6 và đạt giá trị cao nhất là 6,3 ở ngày 8 [12]. Rohani cùng  
cộng sự (2008) thông báo giá trị TVC đạt ngưỡng log cfu  
= 6 tại thời điểm ngày 11 và ngày 15 ứng với điều kiện bảo  
quản đá và bảo quản trong điều kiện biến đổi thành phần khí  
(40% CO2, 30% O2 và 30% N2) [23].  
- Phương pháp xác định TMA-N: hàm lượng TMA-N  
được xác định theo tiêu chuẩn AOAC 971-14 [20]. Cân  
10±0,01 g thịt tôm rồi tiến hành trích ly 3 lần, mỗi lần 30  
ml dung dịch TCA 7,5% (w/v). Toàn bộ dịch trích ly đem đi  
ly tâm bằng máy ly tâm (Hetich-EBA 20S, Sigma-Aldrich,  
Germany) ở 4.000 vòng/phút trong 10 phút, sau đó định  
mức 100 ml bằng nước cất. Tiếp theo trimethylamine cho  
phản ứng với acid picric tạo muối pirat có màu vàng. Lượng  
muối này được xác định bằng phương pháp phổ hấp thụ UV-  
Vis, với bước sóng hấp thu cực đại ở 410 nm.  
- Phương pháp định lượng tổng polyphenol: hàm lượng  
polyphenol được xác định theo tiêu chuẩn ISO 145021:2005  
[21].  
Biến đổi QIM  
Phương pháp xử lý số liệu: tất cả các thí nghiệm được  
tiến hành 3 lần. Dữ liệu thu thập được xử lý thống kê bằng  
phần mềm Statgraphics centurion, xác định mô hình tuyến  
tính bằng MS. Excel (2010). Sự khác biệt có ý nghĩa ở mức  
p<0,05.  
Kết quả cho thấy, các giá trị QI của 4 mẫu thí nghiệm  
đều có sự khác biệt về mặt thống kê giữa các ngày bảo quản  
như mô tả ở hình 2. Ở ngày đầu tiên, QI có giá trị là 1,53;  
0,33; 0,54; 0,45 tương ứng với các mẫu ĐC, CK, PP, PP/  
CK. Như vậy, ba mẫu được xử lý bằng PP, và bảo quản chân  
không có giá trị QI ban đầu thấp hơn mẫu đối chứng. Giá trị  
QI của các mẫu khảo sát tăng tuyến tính theo thời gian bảo  
quản. Tuy nhiên, do mức độ ảnh hưởng của hoạt chất xử lý  
và điều kiện bảo quản khác nhau nên độ tăng giá trị QI của  
mẫu khác nhau. Điều này có thể thấy qua sự tương quan  
tuyến tính giữa QI và ngày bảo quản (hình 2).  
Kết quả và bàn luận  
Biến đổi Total viable count (TVC)  
Kết quả đánh giá lượng TVC ở các mẫu tôm theo ngày  
bảo quản được trình bày ở hình 1. Giá trị TVC của các mẫu  
khảo sát ở ngày 1 gần như không có sự khác biệt đáng kể.  
Giá trị TVC bằng 5,04; 5,13; 5,25 và 5,09 mg/100 g tương  
ứng với mẫu ĐC, CK, PP và PP/CK. Giá trị TVC ở các  
ngày tiếp theo tăng rất chậm (CK, PP, PP/CK), hay hầu như  
không đổi (mẫu ĐC).  
Dựa trên kết quả TVC, chất lượng mẫu đối chứng có  
hạn sử dụng cho người tiêu dùng là 8 ngày. Tôm bảo quản  
ở ngày 9 có các dấu hiệu cảm quan: đầu hầu như tách khỏi  
thân, vỏ tôm tách khỏi phần thịt, thịt biến vàng hay hồng  
nhạt. Đặc biệt, tôm có mùi chua và tanh rõ rệt. Các đặc tính  
này cũng thể thiện ở ngày 13, 11, 13 tương ứng với các mẫu  
CK, PP, PP/CK còn lại. Như vậy, hạn sử dụng của các mẫu  
tôm là 8 ngày với mẫu ĐC, 12 ngày với mẫu CK, 10 ngày  
với mẫu PP và 12 ngày với mẫu PP/CK. Tại thời điểm này,  
các giá trị QI của các mẫu có giá trị 14,33; 11,37; 11,58 và  
10,40 tương ứng với mẫu ĐC, CK, PP và PP/CK. Như vậy,  
QI của các mẫu PP, CK và PP/CK có giá trị thấp hơn mẫu  
đối chứng tại thời điểm chất lượng không chấp nhận cho  
người tiêu dùng. Điều này được giải thích liên quan đến sự  
hình thành các đốm đen ở tôm như đã trình bày ở phần mở  
7,000  
6,500  
6,000  
5,500  
5,000  
4,500  
Ngày  
4,000  
0
2
4
6
8
10  
12  
14  
16  
Hình 1. Giá trị TVC của các mẫu thí nghiệm theo thời gian bảo  
quản (♦ mẫu ĐC, x mẫu CK, ● mẫu PP, ■ mẫu PP/CK).  
61(5) 5.2019  
50  
Khoa học Nông nghiệp  
đầu [14]. Các phân tử polyphenol bổ sung vào tôm sẽ tham  
gia vào các phản ứng chuyển hóa từ phenol thành quinone,  
bảo vệ thịt tôm không bị biến đen. Ngoài ta, môi trường  
chân không sẽ ức chế quá trình oxy hóa quinone thành  
melanin. Thêm vào đó, polyphenol còn có tính khử, chúng  
có thể ức chế các tiến trình oxy hóa xảy ra ở tôm. Vì vậy,  
các tiến trình hình thành đốm đen ở các mẫu này bị ức chế,  
QI của chúng thấp hơn so với mẫu đối chứng. Nghiên cứu  
ức chế tạo đốm đen ở tôm cũng được thông báo bởi Nirmal,  
et al. và Pardio, et al. Các tác giả này nghiên cứu ảnh hưởng  
của các dung dịch acid feruvic, acid ascorbic, acid citric,  
potassium sorbate và 4-hexyl resorcinol đến sự tạo đốm đen  
ở tôm (Panaeus aztecus) [24, 25].  
9
32,30i±0,05  
37,52k±0,01  
15,73i±0,03  
18,67k±0,02  
23,16l±0,01  
27,49m±0,01 37,14m±0,05 27,19m±0,06  
32,36n±0,07  
36,12o±0,04  
23,68i±0,05  
28,05k±0,02 18,38k±0,02  
32,45l±0,01 22,71l±0,01  
15,50i±0,07  
10  
11  
12  
13  
14  
31,78n±0,03  
35,15o±0,03  
y = 1,60x +  
4,67  
R² = 0,979  
x: 1 đến 4  
y = 1,10x +  
2,81  
R² = 0,949  
x: 1 đến 6  
y = 1,2x +  
4,92  
y = 0,92x +  
3,19  
R² = 0,929  
x: 1 đến 5  
R² = 0,894  
x: 1 đến 6  
Phương trình hồi  
quy tuyến tính  
y: TVB  
y = 4,52x –  
8,57  
R² = 0,991  
x: 5 đến 10  
y = 3,54x –  
14,61  
R² = 0,972  
x: 7 đến 14  
y = 4,05x –  
11,17  
y = 3,49x –  
14,59  
x: ngày  
R² = 0,988  
x: 6 đến 12  
R² = 0,991  
x: 7 đến 14  
20  
Giá trị TVB-N ở ngày 1 bằng 6,46 mg/100 g; 4,32  
mg/100 g; 6,39 mg/100 g và 4,41 mg/100 g, tương ứng với  
mẫu ĐC, CK, PP và PP/CK. Như vậy, các mẫu được bảo  
quản chân không có giá trị TVB-N thấp hơn. Điều này giải  
thích do liên quan đến khả năng tăng sinh của vi sinh vật  
trong môi trường chân không. Đối với mẫu ĐC, TVB-N  
ở ngày 1 (6,47 mg/100 g) thấp hơn so với nghiên cứu của  
Reddy cùng cộng sự [2] trên tôm sú là 8,92 mg/100 g và tôm  
pacific white là 8,01 mg/100 g [24], 7,9 mg/100 g [26], 7,2  
mg/100 g [27]. Sự khác biệt này có thể giải thích là do có  
sự khác nhau về thành phần hóa học giữa các loài tôm, điều  
kiện nuôi, môi trường nước, chế độ thức ăn cũng như điều  
kiện sinh lý ở mỗi loại [28, 29]. Bảng 2 cho thấy, sự biến đổi  
giá trị TVB-N trải qua 2 giai đoạn chậm và nhanh. Khoảng  
thời gian giai đoạn 1 từ ngày 1 đến ngày 4 đối với mẫu ĐC,  
đến ngày 6 đối với mẫu CK, đến ngày 5 đối với mẫu PP và  
đến ngày 6 đối với mẫu PP/CK. Sau đó, giá trị TVB-N tăng  
nhanh ở những ngày tiếp theo.  
QI  
15  
10  
5
Ngày  
0
0
5
10  
15  
Hình 2. Giá trị QI của các mẫu thí nghiệm theo thời gian bảo quản  
(♦ mẫu ĐC, x mẫu CK, ● mẫu PP, ■ mẫu PP/CK). Phương trình  
hồi quy tuyến tính tương ứng: y = 1,7392x + 0,3778, R² = 0,9928; y  
= 1,0253x – 1,2198, R² = 0,9876; y = 1,1875x – 0,2446, R² = 0,9973;  
y = 0,8974x – 0,5181, R² = 0,996, với y là QI, x là ngày bảo quản.  
Biến đổi TVB-N  
TVB-N là tổng lượng các chất dễ bay hơi có tính kiềm.  
Các chất chủ yếu tạo nên thành phần này là trimethylamine  
(TMA, sản phẩm từ vi khuẩn gây ươn hỏng), ammonia (sản  
phẩm từ quá trình deamine hóa các amino acid) và DMA  
(sản phẩm từ quá trình tự phân bởi enzyme trong suốt quá  
trình bảo quản lạnh). Các hoạt động này xảy ra trong giai  
đoạn phân hủy [30]. Điều đó giải thích tại sao TVB-N tăng  
nhanh ở giai đoạn 2. Tại thời điểm được xem là hạn sử dụng  
(theo kết quả TVC) giá trị TVB-N là 26,17 mg/100 g; 34,39  
mg/100 g; 28,05 mg/100 g và 27,19 mg/100 g, tương ứng  
với các mẫu ĐC, CK, PP và PP/CK. Các giá trị này đều thấp  
hơn 35 mg/100 g được xem là giới hạn cho phép đối với  
người tiêu dùng [30].  
Nhìn chung, giá trị TVB-N của các mẫu có sự khác biệt  
về mặt thống kê giữa các ngày (p≤0,05) và tăng dần theo  
thời gian bảo quản (bảng 2).  
Bảng 2. Giá trị TVB-N của các mẫu tôm thí nghiệm theo thời gian  
bảo quản.  
Thời gian bảo  
quản  
Mẫu ĐC  
Mẫu CK  
Mẫu PP  
Mẫu PP/CK  
1
2
3
4
5
6
7
8
6,47a±0,05  
7,77b±0,01  
9,09c±0,01  
11,37d±0,03  
14,58e±0,08  
18,89f±0,02  
22,73g±0,02  
26,17h±0,04  
4,32a±0,01  
5,07b±0,04  
5,48c±0,08  
6,72d±0,03  
8,89e±0,07  
9,49f±0,04  
12,19g±0,09  
14,41h±0,07  
6,39a±0,01  
7,41b±0,02  
8,31c±0,01  
9,03d±0,04  
11,65e±0,07  
14,89f±0,04  
4,61a±0,00  
4,89b±0,01  
5,25c±0,02  
6,77d±0,04  
8,28e±0,01  
9,12f±0,05  
Biến đổi TMA-N  
TMA-N là một thành phần của TVB-N, được hình thành  
từ TMAO thông qua hoạt động của enzyme TMAOase [31].  
Giá trị TMA-N của các mẫu được trình bày trong bảng 3.  
17,84g±0,03 11,71g±0,04  
20,62h±0,02 13,87h±0,02  
51  
61(5) 5.2019  
Khoa học Nông nghiệp  
Bảng 3. Giá trị TMA-N của các mẫu tôm thí nghiệm theo thời  
gian bảo quản.  
cuối của giai đoạn 1 (1,86 mg/100 g; 1,66 mg/100 g; 1,63  
mg/100 g; 1,43 mg/100 g), trước khi đi vào giai đoạn phân  
hủy. Tại thời điểm được xem là giới hạn của hạn sử dụng,  
giá trị TMA-N của các mẫu đạt như sau: 7,36 mg/100 g;  
7,24 mg/100 g; 7,19 mg/100 g và 7,02 mg/100 g, tương ứng  
với các mẫu ĐC, CK, PP và PP/CK.  
Thời gian bảo quản Mẫu ĐC  
Mẫu CK  
Mẫu PP  
Mẫu PP/CK  
0,40a±0,04  
0,51b±0,04  
0,66c±0,01  
0,85d±0,02  
1,21e±0,03  
1,43f±0,06  
1,90g±0,07  
2,39h±0,02  
3,28i±0,04  
4,22k±0,01  
5,41l±0,02  
7,02m±0,03  
9,57n±0,05  
11,88o±0,05  
1
0,67a±0,04  
0,89b±0,05  
1,08c±0,02  
1,53d±0,02  
2,09e±0,01  
3,34f±0,01  
5,15g±0,04  
7,36h±0,07  
9,14i±0,04  
10,48k±0,01  
0,40a±0,03  
0,59b±0,03  
0,79c±0,01  
0,89d±0,02  
1,21e±0,02  
1,66f±0,05  
2,24g±0,05  
3,02h±0,06  
3,97i±0,07  
4,42k±0,03  
6,01l±0,05  
7,24m ±0,01  
10,13n±0,05  
12,24o±0,01  
0,59a±0,02  
0,75b±0,02  
0,98c±0,05  
1,37d±0,04  
1,63e±0,04  
2,48f±0,01  
3,27g±0,01  
4,94h±0,04  
5,83i±0,03  
7,19k±0,02  
9,21l±0,07  
11,41m±0,01  
2
Phương trình hồi quy tuyến tính giữa TVB-N, TMA-N  
và hạn sử dụng đối với các mẫu khảo sát  
3
4
Các giá trị của các chỉ số nhìn chung tăng theo thời gian  
bảo quản. Hạn sử dụng của các mẫu khảo sát được đánh  
giá dựa trên kết quả TVC. Các chỉ số TVB-N và TMA-N  
tăng theo thời gian bảo quản. Vì vậy, giá trị của chúng có  
sự tương quan tuyến tính với nhau. Tuy nhiên, phương trình  
hồi quy tuyến tính được thể hiện ở 2 giai đoạn khác nhau  
như đã bàn luận ở trên, và có sự khác biệt giữa các khoảng  
thời gian ở các mẫu. Đánh giá cảm quan theo phương pháp  
QIM cho kết quả điểm chất lượng tôm sú biến đổi tuyến tính  
theo ngày bảo quản. Các phương trình hổi quy tuyến tính đã  
chứng minh điều này. Sử dụng phương trình hồi quy tuyến  
tính có thể ước tính hạn sự dụng còn lại cho các mẫu khảo  
sát. Bằng cách tiến hành đánh giá chất lượng tôm bằng QIM  
để có điểm QI như mô tả ở bảng 1. Tiếp theo, điểm QI được  
thay thế vào phương trình hồi quy tương ứng để xác định  
ngày bảo quản. So sánh số ngày bảo quản với hạn sử dụng  
suy ra hạn bảo quản còn lại. Bảng 4 mô tả những bàn luận  
đã đề cập trên.  
5
6
7
8
9
10  
11  
12  
13  
14  
y = 0,28x + 0,35 y = 0,24x + 0,10  
y = 0,27x + 0,25  
R² = 0,980  
x: 1 đến 5  
y = 0,21x + 0,10  
R² = 0,964  
x: 1 đến 6  
R² = 0,957  
x: 1 đến 4  
R² = 0,948  
x: 1 đến 6  
Phương trình hồi quy  
tuyến tính  
y: TMA  
x: ngày  
y = 1,76x – 6.93  
R² = 0,994  
y = 1,39x – 8,46  
R² = 0,936  
y = 1.46x – 6.82  
R² = 0,977  
y = 1,41x – 9,06  
R² = 0,940  
Bảng 4. Phương trình hồi quy tuyến tính giữa TVB-N, TMA-N,  
hạn sử dụng, và phương trình hồi quy tuyến tính giữa QI và ngày  
x: 5 đến 10  
x: 7 đến 14  
x: 6 đến 12  
x: 7 đến 14  
bảo quản của các mẫu khảo sát.  
Kết quả nghiên cứu cho thấy, giá trị TMA-N của ngày  
1 là 0,67 mg/100 g; 0,4 mg/100 g; 0,59 mg/100 g và 0,4  
mg/100 g, tương ứng với các mẫu ĐC, CK, PP và PP/  
CK. Tương tự như biến đổi TVB-N, giá trị TMA-N thay  
đổi chậm ở giai đoạn đầu và nhanh ở giai đoạn sau. Tuy  
nhiên khoảng thời gian này ở các mẫu hoàn toàn khác nhau,  
nguyên nhân có thể do ảnh hưởng của việc xử lý và bảo  
quản mẫu. Khoảng thời gian của giai đoạn chậm từ ngày 1  
đến ngày 4 với mẫu ĐC, đến ngày 6 với mẫu CK, đến ngày  
5 với mẫu PP và đến ngày 6 với mẫu PP/CK. Tại các thời  
điểm này giá trị TMA-N là 1,53 mg/100 g; 1,66 mg/100 g;  
1,63 mg/100 g và 1,43 mg/100 g, tương ứng cho các mẫu  
ĐC, CK, PP và PP/CK. Theo thông báo của Bonnell [32],  
cá tuyết (cod) chất lượng tươi có TMA-N thấp hơn 1,5 mg/  
100 g. Giá trị này cũng tương đồng với đánh giá của Le, et  
al. (2017) trên tôm sú, chất lượng tôm đạt loại tốt có giá trị  
TMA-N thấp hơn 1,51 mg/100 g [18]. TMA-N của các mẫu  
khảo sát cũng có giá trị gần bằng 1,5 mg/100 g ở thời điểm  
Mẫu ĐC  
Mẫu CK  
Mẫu PP  
Mẫu CK/PP  
Giai đoạn biến đổi chậm  
TVB = 5,71TMA + 2,73  
R² = 0,996  
TVB = 4,50TMA  
+ 2,50  
TVB = 4,44TMA + 3,84  
R² = 0,924  
Từ ngày 1 đến ngày 5  
TVB = 4,63TMA + 2,58  
R² = 0,985  
Từ ngày 1 đến ngày 6  
Từ ngày 1 đến ngày 4  
R² = 0,933  
Từ ngày 1 đến ngày 6  
Giai đoạn biến đổi nhanh  
TVB = 2,55TMA + 9,39  
R² = 0,980  
TVB = 2,46TMA  
+ 7,32  
TVB = 2,51TMA + 9,09  
R² = 0,994  
Từ ngày 6 đến ngày 12  
TVB-N = 2,41TMA + 8,30  
R² = 0,979  
Từ ngày 7 đến ngày 14  
Từ ngày 5 đến ngày 10  
R² = 0,980  
Từ ngày 7 đến  
ngày 14  
Hạn sử dụng và phương trình hồi quy tuyến tính giữa QI và ngày bảo quản  
HSD: 8 ngày  
y = 1,74x + 0,3778  
R² = 0,9928  
HSD: 12 ngày  
y = 1,03x – 1,2198  
R² = 0,9876  
HSD: 10 ngày  
y = 1,19x – 0,2446  
R² = 0,9973  
HSD: 12 ngày  
y = 0,90x – 0,5181  
R² = 0,996  
61(5) 5.2019  
52  
Khoa học Nông nghiệp  
Springer Science & Business Media.  
Kết luận  
Sự biến đổi chất lượng tôm sú sau thu hoạch được xử  
[6] H.H. Huss (1995), Quality and quality changes in fresh fish,  
FAO fisheries technical paper.  
lý bằng các kỹ thuật bảo quản khác nhau đã được tiến hành  
trong nghiên cứu này. Các yếu tố cảm quan, hóa sinh và vi  
sinh được sử dụng trong nghiên cứu đã chứng minh được  
hiệu quả của chúng. Các chỉ số chất lượng sử dụng vào tiến  
trình đánh giá đã phát huy năng lực, phản ánh sự biến đổi  
chất lượng trong suốt quá trình bảo quản. Các chỉ số chất  
lượng hóa học TVB-N, TMA-N có tương quan tuyến tính  
với thời gian bảo quản theo hai giai đoạn khác nhau, tương  
ứng với giai đoạn tự phân và phân hủy. Tại thời điểm được  
đánh giá là hạn sử dụng TVB-N = 26,17; 27,49; 28,05 và  
27,19 mg/100g tương ứng với các mẫu ĐC, CK, PP và PP/  
CK. Tương tự, giá trị TMA-N tại thời điểm này là 7,36; 7,24;  
7,19; 7,02 tương ứng cho cho các mẫu khảo sát. Phương  
trình hồi quy tuyến tính giữa TVB-N và TMA-N đã được  
xây dựng cho từng mẫu khảo sát theo hai giai đoạn khác  
nhau. Đây là điểm mới của nghiên cứu. Đặc biệt, phương  
pháp QIM thể hiện hiệu quả trong đánh giá cảm quan. Giá  
trị QI có thể cho chúng ta ước tính hạn sử dụng còn lại  
của tôm. Giá trị QI tại thời điểm giới hạn có sự khác biệt  
giữa các mẫu. Cụ thể QI = 14,33; 11,37; 11,58; 10,40 tương  
ứng với các mẫu ĐC, CK, PP, PP/CK. Tôm được bảo quản  
trong điều kiện chân không kết hợp với xử lý qua dung dịch  
polyphenol có khả năng ức chế tiến trình tạo đốm đen, tăng  
giá trị về mặt cảm quan, và tăng giá trị kinh tế. Kỹ thuật bảo  
quản chân không có hạn sử dụng 12 ngày so với bảo quản  
thông thường là 8 ngày.  
[7] P. Howgate (2010), A critical review of total volatile bases  
and trimethylamine as indices of freshness of fish. Part 2. Formation  
of the bases, and application in quality assurance, Electronic Journal  
of Environmental, Agricultural & Food Chemistry, 9(1), pp.58-83.  
[8] G. Hyldig & D.M. Green-Petersen (2004), Quality Index  
Method-An objective tool for determination of sensory quality,  
Journal of Aquatic Food Product Technology, 13(4), pp.71-80.  
[9] E. Martinsdóttir, R. Schelvis, G. Hyldig, & K. Sveinsdóttir  
(2009), Sensory evaluation of seafood: methods. Fishery Products-  
Quality, Safety and Authenticity, Wiley-Blackwell, pp.425-443.  
[10] R.S. Singhal, P. Kulkarni & D. Reg (1997), Handbook of  
indices of food quality and authenticity, Elsevier.  
[11] D.F. Maffei, N.F. de Arruda Silveira, & M.d.P.L.M. Catanozi  
(2013) Microbiological quality of organic and conventional  
vegetables sold in Brazil, Food Control, 29(1), pp.226-230.  
[12] R.P. Naik, B.B. Nayak, M.K. Chouksey, T.K Anupama,  
T.L.S.S. Moses, &V. Kumar (2014), Microbiological and biochemical  
changes during ice storage of farmed black tiger shrimp (Peneaus  
monodon), Bionano Frontier, 7(2), pp.249-253.  
[13] TCVN 3726-89: Tôm nguyên liệu tươi - Fresh shrimps for  
food processing.  
[14] A.A. Gonçalves and A.R.M. de Oliveira (2016), Melanosis  
in crustaceans: A review, LWT-Food Science and Technology, 65,  
pp.791-799.  
[15] R. Kossah, C. Nsabimana, H. Zhang, & W. Chen (2010),  
Optimization of extraction of polyphenols from Syrian Sumac,  
Research Journal of Phytochemistry, 4(3), pp.146-153.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
[16] K.L. Sallam (2007), Chemical, sensory and shelf life  
evaluation of sliced salmon treated with salts of organic acids, Food  
Chemistry, 101(2), pp.592-600.  
[1] N.A. Ashie, J.P. Smith, B.K. Simpson, N.F. Haard (1996),  
Spoilage and shelflife extension of fresh fish and shellfish, Critical  
Reviews in Food Science & Nutrition, 36(1-2), pp.87-121.  
[17] M.J. Leboffe, B.E. Pierce (2012), Microbiology: laboratory  
theory and application, Morton Publishing Company.  
[2] V.K. Reddy, P.A. Shinde, F.R. Sofi, P.S. Shelar, & S.B.  
Patange (2014), Effect of antimelanotic treatment and vacuum  
packaging on melanosis and quality condition of ice stored farmed  
tiger shrimp (penaeus monodon), SAARC Journal of Agriculture,  
11(2), pp.33-47.  
[18] N.T. Le, N.K. Doan, B.T. Nguyen, T.V.T. Tran (2017),  
Towards improved quality benchmarking and shelf life evaluation  
of black tiger shrimp (Penaeus monodon). Food Chemistry, 235,  
pp.220-226.  
[3] C.O.R. Okpala, W.S. Choo, and G.A. Dykes (2014), Quality  
and shelf life assessment of Pacific white shrimp (Litopenaeus  
vannamei) freshly harvested and stored on ice, LWT-Food Science  
and Technology, 55(1), pp.110-116.  
[19] B. Jinadasa (2014), Determination of quality of marine  
fishes based on total volatile base nitrogen test (TVB-N), Nature and  
Science, 5(12), pp.106-111.  
[20] J. Hungerford (1998), AOAC Official Method 971.14  
Trimethylamine Nitrogen in Seafood Colorimetric Method. Fish  
and Other Marine Products, Official Methods of Analysis of AOAC  
International, 7, pp.421-434.  
[4] R.K. Kalleda, Y.L. Han, J.E. Toler, F. Chen, H.J. Kim, & P.L.  
Dawson (2013), Shelf life extension of shrimp (white) using modified  
atmosphere packaging, Polish Journal of Food and Nutrition  
Sciences, 63(2), pp.87-94.  
[21] ISO 14502:2005: Determination of substances characteristic  
of green and black tea. Part 1: Content of total polyphenols in tea.  
[5] G.W. Gould (2012), New methods of food preservation,  
53  
61(5) 5.2019  
Khoa học Nông nghiệp  
Colorimetric method using Folin-Ciocalteu reagent.  
[27] H. Mu, H. Chen, X. Fang, J. Mao, H. Gao (2012), Effect of  
cinnamaldehyde on melanosis and spoilage of Pacific white shrimp  
(Litopenaeus vannamei) during storage, Journal of the Science of  
Food and Agriculture, 92(10), pp.2177-2182.  
[22] G.J.E. Nychas, D.L.Marshall, J.N. Sofos (2007), Meat,  
poultry, and seafood, ASM Press, pp.105-140.  
[23] A.C. Rohani, M. Faridah, O.A. Shokri (2008), The effects  
[28] R. Rosa, L. Nunes (2004), Nutritional quality of red shrimp,  
Aristeus antennatus (Risso), pink shrimp, Parapenaeus longirostris  
(Lucas), and Norway lobster, Nephrops norvegicus (Linnaeus),  
Journal of the Science of Food and Agriculture, 84(1), pp.89-94.  
of modified atmosphere packaging on chemical, sensory and  
microbiological changes in black tiger prawn (Penaeus monodon), J.  
Trop. Agric. and Fd. Sc., 36(2), pp.211-219.  
[24] N.P. Nirmal, & S. Benjakul (2009), Effect of ferulic acid on  
inhibition of polyphenoloxidase and quality changes of Pacific white  
shrimp (Litopenaeus vannamei) during iced storage, Food Chemistry,  
116(1), pp.323-331.  
[29] L. Srikar, H. Seshadari, A. Fazal (1989), Changes in lipids  
and proteins of marine catfish (Tachysurus dussumieri) during frozen  
storage, International Journal of Food Science & Technology, 24(6),  
pp.653-658.  
[25] V.T. Pardio, K.N. Waliszewski, & P. Zuñiga (2011),  
Biochemical, microbiological and sensory changes in shrimp  
(Panaeus aztecus) dipped in different solutions using face centred  
central composite design, International Journal of Food Science &  
Technology, 46(2), pp.305-314.  
[30] L.M. Nollet, F. Toldrá (2009), Handbook of seafood and  
seafood products analysis, CRC Press.  
[31] B.Q. Phillippy (1985), Characterization of the in situ tmaoase  
system of red hake muscle, Ph.D. thesis, University of Massachusetts,  
Amherst.  
[26] J. Huang, Q. Chen, M. Qiu, & S. Li (2012), Chitosan based  
edible coatings for quality preservation of postharvest whiteleg  
shrimp (Litopenaeus vannamei), Journal of Food Science, 77(4),  
pp.C491-C496.  
[32] A.D. Bonnell (2012), Quality assurance in seafood  
processing: a practical guide, Springer Science & Business Media.  
61(5) 5.2019  
54  
pdf 8 trang Hứa Trọng Đạt 09/01/2024 460
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá sự biến đổi chất lượng của tôm sú nhằm xác định hạn sử dụng bằng các phương pháp bảo quản khác nhau", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_su_bien_doi_chat_luong_cua_tom_su_nham_xac_dinh_han.pdf