Phong cách học phê phán - hướng tiếp cận mới của phong cách học về văn bản phi văn chương

TP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN  
TP 6 S3  
PHONG CÁCH HỌC PHÊ PHÁN – HƯỚNG TIẾP CẬN MỚI  
CỦA PHONG CÁCH HỌC VỀ VĂN BẢN PHI VĂN CHƯƠNG  
Nguyễn Thế Truyền  
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh  
Ngày nhận bài: 31/7/2018, Ngày duyệt đăng: 17/12/2018  
Tóm tắt  
Phong cách học phê phán là lĩnh vực nghiên cứu mới của phong cách học phương Tây đương  
đại. Với giới hạn khảo sát là văn bản phi văn chương, phong cách học phê phán có mục đích khám  
phá và bóc trần ý thức hệ của văn bản vì sự bình đẳng và tiến bộ xã hội. Trong bài viết này, nhằm  
giúp bạn đọc có một cái nhìn tổng quan, tác giả giới thiệu bốn nội dung chính của phong cách học  
phê phán: nguồn gốc, quá trình hình thành, mục đích nghiên cứu, hệ thống công cụ phân tích. Qua  
bài viết, tác giả hy vọng bạn đọc Việt Nam có những hiểu biết cơ bản về phong cách học phê phán,  
tiến tới có thể áp dụng các nguyên lý và cách thức tiếp cận của phong cách học phê phán vào thực  
tiễn nghiên cứu của Việt Nam.  
Từ khoá: phong cách học phê phán, phân tích diễn ngôn phê phán, ý thức hệ, văn bản phi văn  
chương, tư duy phê phán.  
Critical stylistics a new approach of stylistics to non-literary texts  
Abstract  
The critical stylistics is a new field of study in contemporary Western learning styles. With limited  
to non-literary texts, critical stylistics has the purpose of seeking and exposing ideological  
underpinnings of texts for social equality and progress. Therefore, in order to help readers with an  
overview about critical stylistics, this article aims to present four main aspects of critical stylistics,  
including its origins, formation process, purpose of research, and a set of analytical tools. This  
article is to provide Vietnamese readers with basic knowledge about the critical stylistics so that the  
readers can apply the critical stylistics principles and how to conduct critical stylistics in research  
practices in Vietnam.  
Keywords: critical stylistics, critical discourse analysis, ideology, non-literary texts, critical thinking.  
văn bản phi văn chương là quan hệ giao tiếp trực  
tiếp qua chất liệu ngôn ngữ của lời nói thông tin,  
không thông qua mã hình tượng (của lời nói  
nghệ thuật).  
Trong phong cách học tꢁ thập kỷ 70 trở về  
trước, khi mà “phong cách học đôi lúc được gọi  
là ngôn ngữ học văn chương – literary  
linguistics” (Burke, 2014: tr. 1), thì đối tượng  
được nghiên cứu chủ yếu là văn bản văn  
1. Khái niệm văn bản phi văn chương  
Văn bản1 phi văn chương (non-literary texts)  
là loại văn bản được xây dựng dựa vào phương  
thức phản ánh cuꢀc sống thực thay vì phản ánh  
mꢀt thế giới hư cấu. Văn bản phi văn chương  
nhằm mục đích chủ yếu là cung cấp thông tin,  
phân biệt với văn bản văn chương (literary texts)  
với mục đích chủ yếu là tác đꢀng thẩm mỹ.  
Quan hệ giao tiếp giữa tác giả và người đọc của  
1
Văn bản (text) nói đến trong phong cách học phê phán  
texts) lẫn văn bản nói (spoken texts).  
hiểu theo nghĩa rꢀng bao gồm cả văn bản viết (written  
3
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE  
VOLUME 6 NUMBER 3  
chương. Tuy nhiên, văn bản phi văn chương vẫn  
được chú ý xem xét tꢁ hai góc đꢀ. Trong giai  
đoạn tu tꢁ học cổ điển, văn bản phi văn chương  
được phân tích tꢁ góc đꢀ nghệ thuật nói năng  
trong mꢀt bꢀ phận quan trọng của tu tꢁ học thời  
kỳ đó là thuật hùng biện (elocution). Trong giai  
đoạn phong cách học chức năng truyền thống  
Nga Xô-Viết2 (thập kỷ 50-70), văn bản phi văn  
chương được xem xét tꢁ góc đꢀ chức năng xã  
hꢀi và được phân chia thành các loại: phong  
cách hành chính, phong cách khoa học, phong  
cách báo chí, phong cách chính luận. Như vậy,  
trong phong cách học truyền thống, văn bản phi  
văn chương mới chỉ được khảo sát tꢁ góc đꢀ  
hình thức diễn đạt và chức năng xã hꢀi, chưa  
được khảo sát tꢁ góc đꢀ nꢀi dung phản ánh, đặc  
biệt là góc đꢀ nꢀi dung tư tưởng mà nó chuyển  
tải và tác đꢀng tới người tiếp nhận.  
2. Nguồn gốc của phong cách học phê phán  
Như nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định,  
cũng như chính tác giả của quyển sách Critical  
stylistics: The Power of English (Jeffries, 2010)  
thꢁa nhận, phong cách học phê phán bắt nguồn  
tꢁ ngôn ngữ học phê phán, phân tích diễn ngôn  
phê phán và chịu nhiều ảnh hưởng của ngôn ngữ  
học chức năng – hệ thống.  
of language) có thể chi phối tư tưởng của con  
người. Ngôn ngữ học phê phán được hình thành  
“để khám phá cách thức những nghĩa xã hꢀi  
(social meaning), như quyền lực và ý thức hệ,  
được diễn tả thông qua ngôn ngữ như thế nào và  
cách thức ngôn ngữ trong phương diện này có  
thể tác đꢀng tới cách chúng ta nhận thức thế giới  
như thế nào” (Nørgaard và cꢀng sự, 2010: tr. 11-  
12). Với ngữ pháp hệ thống như mꢀt bꢀ công cụ,  
ngôn ngữ học phê phán tập trung phân tích mối  
quan hệ không thể chia cắt giữa ngôn ngữ và  
nghĩa xã hꢀi qua các trường hợp như nhan đề bài  
báo, bài quảng cáo – nơi mà những giả định đặc  
biệt hoặc ý thức hệ có thể được đóng dấu vào  
trong diễn ngôn mꢀt cách không có ý thức  
(Wales, 2011: tr. 96).  
Phân tích diễn ngôn phê phán (critical  
discourse analysis) khởi nguồn vào giữa thập  
niên 80 thế kỷ XX như mꢀt hướng nghiên cứu  
mới trong các tác phẩm của Norman Fairclough  
(Đại học Lancaster, Anh) và của mꢀt số tác giả  
khác. Tiền thân trực tiếp của phân tích diễn ngôn  
phê phán là ngôn ngữ học phê phán. “Phân tích  
diễn ngôn phê phán khám phá mối quan hệ giữa  
ngôn ngữ và xã hꢀi. Nó cho rằng ngôn ngữ đóng  
vai trò quyết định trong việc tạo ra, duy trì và  
hợp pháp hoá sự bất bình đẳng, bất công và áp  
bức trong xã hꢀi” (Nørgaard và cꢀng sự, 2010:  
tr. 69). Phân tích diễn ngôn phê phán được đặc  
trưng bởi sự đa dạng về hướng tiếp cận lý thuyết  
và phương pháp luận, và trong lúc các khái niệm  
như ‘quyền lực’, ‘diễn ngôn’, ‘ý thức hệ’ nằm ở  
hạt nhân của tất cả những nghiên cứu phân tích  
diễn ngôn phê phán, chúng lại được định nghĩa  
khác nhau theo nhiều cách. Nhưng điều này  
không dẫn tới sự phân hóa giữa các nhà phân  
tích diễn ngôn phê phán. Cái thống nhất của  
phân tích diễn ngôn phê phán không phải là  
2.1. Ngôn ngữ học phê phán và phân tích  
diễn ngôn phê phán  
Ngôn ngữ học phê phán3 (Critical  
Linguistics) là mꢀt phong trào khởi phát tꢁ  
trường Đại học East Anglia (Anh) vào những  
năm giữa thập niên 70 của thế kỷ XX với người  
đề xướng là Roger Flowler và những đồng  
nghiệp của ông (công trình Language and  
control4, 1979). Ngôn ngữ học phê phán nghiên  
cứu quan hệ giữa ngôn ngữ và ý thức hệ  
(ideology), vạch ra những con đường mà các  
khuôn hình xã hꢀi của ngôn ngữ (social patterns  
2
Phân biệt với phong cách học chức năng – cấu trúc của  
hơn để hàm ý chỉ mꢀt quan điểm Marxist về những vấn đề  
xã hꢀi. “Cách dùng như thế xem phân tích ‘phê phán’ nhằm  
mục đích đơn đꢀc cho mꢀt quan điểm về sự đàn áp của diễn  
ngôn thống trị được những ‘nhân vật tạo nghĩa’ (meaning-  
maker) như chính trị gia, chủ doanh nghiệp và các công ty  
truyền thông tạo ra” (Jeffries, 2016: tr. 158-159).  
Fowler, R., Hodge, R., Kress, G., Trew, T. (1979).  
Language and control. Routledge & Kegan Paul; dẫn theo:  
Wales, 2011: tr. 96.  
trường phái Praha (thập kỷ 50-60) và phong cách học chức  
năng trường phái Halliday (tꢁ cuối thập kỷ 70).  
3
Tꢁ ‘phê phán’ (critical) trong ngôn ngữ học phê phán,  
phân tích diễn ngôn phê phán, phong cách học phê phán  
được hiểu là ‘nhận thức với tinh thần phản tỉnh, phân biệt  
đúng sai, hay dở, thấy được thực chất của những vấn đề  
che giấu đằng sau’. Nhưng trong phân tích diễn ngôn phê  
phán “tꢁ ‘critical’ cũng thường được dùng mꢀt cách hẹp  
4
4
TP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN  
TP 6 S3  
phương pháp luận hay sự chính thống về lý  
thuyết, mà là mục đích chung: sự phê bình các  
thể loại và diễn ngôn bá chủ (hegemonic  
discourses and genres) – những cái tạo ra bất  
bình đẳng, bất công và sự áp bức trong xã hꢀi  
đương đại (van Leeuwen, 2006: tr. 2155). Gốc  
rễ của phân tích diễn ngôn phê phán nằm ở sự  
chiết trung nhiều chuyên ngành, bao gồm: khoa  
học tri nhận, nhân học, triết học, tu tꢁ học, ngôn  
ngữ học ứng dụng và ngôn ngữ học xã hꢀi.  
Những nhà phân tích diễn ngôn phê phán không  
chỉ tham dự vào mꢀt dãy những hệ hình phân  
tích diễn ngôn, mà còn với những lý thuyết xã  
hꢀi mang tính phê phán (van Leeuwen, 2006:  
tr. 2154).  
Phân tích diễn ngôn phê phán vượt ra ngoài  
ngôn ngữ học phê phán ở mꢀt số phương diện.  
Phương diện thứ nhất là cố gắng xây dựng nền  
móng của phân tích diễn ngôn phê phán trên  
những lý thuyết xã hꢀi mang tính phê phán và  
chỉ rõ mối quan hệ giữa diễn ngôn và thực tiễn  
xã hꢀi trong đó chúng được ghi khắc dấu ấn.  
Phân tích diễn ngôn phê phán cũng đi ra xa  
ngoài ngôn ngữ học phê phán để chấp nhận mꢀt  
hướng tiếp cận liên ngành đầy đủ hơn; việc  
nghiên cứu không chỉ về văn bản, bản ghi cuꢀc  
thoại, mà còn cả ngữ cảnh của chúng, dù có hoặc  
không dùng phương pháp lịch sử hay phương  
pháp dân tꢀc học. Phân tích diễn ngôn phê phán  
cũng đi ra xa ngoài lĩnh vực ngôn ngữ, đảm nhận  
mꢀt phạm vi nghiên cứu rꢀng hơn, trong đó diễn  
ngôn được thực hiện bằng đa phương tiện,  
không chỉ thông qua văn bản và cuꢀc thoại, mà  
còn thông qua những cách thức giao tiếp khác  
như hình ảnh (van Leeuwen, 2006: tr. 2156).  
Mặc dù có mꢀt số khác nhau về quan điểm  
và cách đánh giá, nhưng ngôn ngữ học phê phán  
và phân tích diễn ngôn phê phán “thường được  
xem như đồng nghĩa” và thực sự, phân tích diễn  
ngôn phê phán “đôi lúc được dùng như mꢀt  
thuật ngữ khái quát để bao trùm cho cả hai  
trường phái tư tưởng này” (Wales, 2011: tr. 96).  
Những khái niệm chìa khoá của ngôn ngữ  
học phê phán và phân tích diễn ngôn phê phán  
là: ‘discourse’ (diễn ngôn), ‘power’ (quyền lực),  
và ‘ideology’ (ý thức hệ), trong đó, khái niệm  
tạo ra nhiều khác biệt nhất là ý thức hệ.  
Thuật ngữ ‘ý thức hệ’ vốn là mꢀt tꢁ thông  
dụng, được dùng trong nhiều chuyên ngành với  
những sự khác nhau nhưng chồng chéo về sắc  
thái nghĩa. Theo Wales (2011), ý thức hệ được  
phân lập trong ba lĩnh vực chính sau đây:  
(1) Ý thức hệ liên tưởng tới phê bình  
Marxist, nơi nó có thể được định nghĩa như  
những quan niệm hoặc cách thức tư duy của mꢀt  
giai cấp hoặc mꢀt hệ thống kinh tế-chính trị; đặc  
biệt là những quan niệm được cho là bản chất  
hoặc có giá trị phổ quát. Trong nghĩa này, chúng  
ta có thể nói, ví dụ, ý thức hệ chủ nghĩa tư bản,  
ý thức hệ chủ nghĩa cꢀng sản, ý thức hệ tư sản.  
Những quan niệm này, tự nó, không chỉ mang  
tính chính trị về nguồn gốc, mà còn mang tính  
đạo đức, tín ngưỡng, triết học và thẩm mỹ. Ý  
thức hệ trong nghĩa này liên hệ với quan hệ  
quyền lực thống trị, bá chủ trong xã hꢀi, mặc dù  
người bình thường không nhận thức được ảnh  
hưởng của chúng đối với những điều họ nói  
hoặc họ tin. Trong bất cứ xã hꢀi nào, các cơ cấu  
tổ chức ý thức hệ nhà nước (ideological state  
apparatuses) quan trọng là hệ thống giáo dục và  
truyền thông. Diễn ngôn ý thức hệ vì thế mang  
tính quyền lực, dù đó là bản tuyên truyền chính  
trị hiển ngôn, phim tư liệu truyền hình hay mꢀt  
bài thơ trào phúng.  
(2) Bên ngoài khung lý luận Marxist, với sự  
liên tưởng tiêu cực ở mꢀt mức đꢀ nào đó về tín  
điều và giáo lý, ý thức hệ thường được dùng mꢀt  
cách đơn giản như trong ký hiệu học để chỉ bất  
cứ hệ thống giá trị nào dựa trên những quan  
niệm, định kiến, những giả định văn hoá - xã  
hꢀi, cái chung quy lại là mꢀt thế giới quan không  
có ý thức và thâm nhập khắp nơi.  
Mỗi cá nhân có ý thức hệ của chính người đó,  
hoặc mꢀt tập hợp ý thức hệ cấu thành mꢀt loại  
mã (code) trong ngôn ngữ. Mỗi văn bản văn  
chương hoặc phi văn chương biểu lꢀ mꢀt ý thức  
hệ cụ thể, hoặc những ý thức hệ cạnh tranh nhau,  
mꢀt số trong số đó có thể mang tính chính trị như  
nghĩa (1) nói ở trên. Theo quan điểm của Bakhtin  
và Voloshinov (1994) thì mọi tꢁ và mọi diễn  
ngôn đều mang tính ý thức hệ, và mọi người nói  
đều là nhà lý luận, nhà tư tưởng (idilogue).  
5
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE  
VOLUME 6 NUMBER 3  
(3) Ý thức hệ còn được dùng với mꢀt nghĩa  
rꢀng hơn với những ngụ ý về quyền lực chính  
trị, điều này tꢁ thập kỷ 80 đã trở thành mối quan  
tâm của phân tích phong cách và văn bản được  
biết đến với tên gọi ngôn ngữ học phê phán và  
phân tích diễn ngôn phê phán. Mục đích của các  
trường phái nghiên cứu này là thẩm tra mối quan  
hệ giữa ngôn ngữ với nghĩa, điều ảnh hưởng tới  
tư tưởng và phản ánh những giả định ý thức hệ  
trong diễn ngôn như trong nhan đề bài báo, điều  
lệ, quảng cáo cũng như các hình thức truyền  
thông khác. (Wales, 2011: tr. 209-210)  
hệ được thâm nhập vào trong diễn ngôn và dần  
dần chúng trở thành những lẽ thường, như  
những cái cần chấp nhận, không bàn cãi gì nữa,  
và nhờ thế ý thức hệ trở thành thấm sâu (và nhập  
tịch) vào trong xã hꢀi (Nørgaard và cꢀng sự,  
2010: tr. 12). Cho nên mꢀt trong nhiệm vụ quan  
trọng nhất của các nhà ngôn ngữ học phê phán,  
phân tích diễn ngôn phê phán và phong cách học  
phê phán là phơi trần những sự thật bị giấu kín  
đó, nhận thức đúng bản chất của chúng, và khi  
cần thiết, loại bỏ chúng ra khỏi ngôn ngữ và tư  
duy của con người vì những mục đích tiến bꢀ.  
Dữ liệu được các nhà phân tích diễn ngôn  
phê phán sử dụng tập trung vào bài diễn thuyết  
của các chính trị gia, các cuꢀc tranh luận nghị  
trường, bài báo và xã luận trên các phương tiện  
truyền thông. Các nhà phân tích diễn ngôn phê  
phán cũng phân tích cả sách giáo khoa, quảng  
cáo, sách của các nhà quản lý, bản ghi chép đối  
thoại bác sĩ – bệnh nhân và tương tác hꢀi họp tại  
nơi làm việc (van Leeuwen, 2006: tr. 2155). Nếu  
đi vào đề tài cụ thể hơn thì trong phân tích diễn  
ngôn phê phán, “các ẩn dụ trong diễn ngôn về  
giới tính, chủng tꢀc, sự toàn cầu hoá và chính trị  
được tập trung phân tích” (Wales, 2011: tr. 97).  
2.2. Ngôn ngữ học chức năng – hệ thống  
Khi nói về mối quan hệ giữa ngôn ngữ học  
chức năng – hệ thống và khuynh hướng nghiên  
cứu theo định hướng đánh giá ý nghĩa, giá trị xã  
hꢀi của ngôn ngữ, nhà nghiên cứu van Leeuwen  
trong Encyclopedia of language and linguistics  
viết: “Ngôn ngữ học chức năng – hệ thống của  
Halliday đã cung cấp sự thấu hiểu mang tính  
chất nền tảng giúp cho phân tích ngôn ngữ có  
thể vượt ra ngoài miêu tả hình thức và dùng nó  
cho phê bình xã hꢀi” (van Leeuwen, 2006: tr.  
2155). Trong Key terms in stylistics, Nørgaard  
và cꢀng sự (2010: tr. 3) cho biết: “Vì sự tập  
trung chú ý của nó [ngôn ngữ chức năng – hệ  
thống] về ngữ cảnh xã hꢀi và sự nhận thức văn  
bản bằng các nhân tố ngữ cảnh như ngữ vực, thể  
loại và ý thức hệ, ngôn ngữ học Halliday trở nên  
đóng mꢀt vai trò quan trọng trong các phân  
nhánh phong cách học quan tâm đến biểu hiện  
ngôn ngữ của ý thức hệ như phong cách học nữ  
quyền, phong cách học phê phán”.  
Tuy ý thức hệ là khái niệm chìa khoá, nhưng  
các nhà phân tích diễn ngôn phê phán thường  
hiểu khác nhau, xem ý thức hệ như là ‘thế giới  
quan’ (worldview), cái cấu thành sự tri nhận xã  
hꢀi, trong lúc Fairclough có mꢀt quan điểm ý  
thức hệ Marxist (Marxist ideology) hơn. Theo  
Fairclough (1989: tr. 33) thì quyền lực ý thức hệ  
(ideological power), cái quyền lực phóng chiếu  
vị trí thực tại của mꢀt cá nhân, tổ chức, tầng lớp  
như mꢀt phổ quát và lẽ thường (common sense),  
là mꢀt sự bổ sung quan trọng cho quyền lực  
chính trị và quyền lực kinh tế. Hai con đường  
mà những kẻ có quyền lực có thể thực thi và  
nắm giữ nó là dùng sự ép buꢀc và dùng sự chấp  
thuận, trong đó thì “Ý thức hệ là bꢀ máy chìa  
khoá của sự cai trị bằng chấp thuận, và vì là cỗ  
xe ân huệ của ý thức hệ, nên diễn ngôn là biểu  
hiện xã hꢀi cần quan tâm suy xét (Fairclough,  
1989: tr. 34). Sự cân bằng giữa ép buꢀc và chấp  
thuận, giữa vũ lực và ý thức hệ có tác dụng duy  
trì sự kiểm soát xã hꢀi, và ý thức hệ “hiệu quả  
nhất lúc hoạt đꢀng của nó là ít hữu hình nhất”  
(Fairclough, 1989: tr. 85), “lúc ý thức hệ trở  
thành lẽ thường, nó xoá dấu vết bề ngoài là ý  
thức hệ”, “ý thức hệ chỉ thực sự hiệu quả khi nó  
được nguỵ trang” (Fairclough, 1989: tr. 107).  
Mặt khác, ý thức hệ, giống như những thiên  
kiến, tín điều, phần lớn trường hợp được biểu thị  
mꢀt cách hàm ẩn, vì ý thức hệ “thường thường  
‘vô hình’ (invisible) và ‘được trung lập hoá’  
(neutralized)” (Wales, 2011: tr. 97).  
Mꢀt khái niệm trung tâm khác trong phân  
tích diễn ngôn phê phán là ‘sự nhập tịch’  
(naturalization), đó là quan điểm cho rằng ý thức  
6
TP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN  
TP 6 S3  
Như vậy, bên cạnh ngôn ngữ học phê phán  
và phân tích diễn ngôn phê phán như mꢀt nguồn  
cảm hứng cho sự hình thành phong cách học phê  
phán thì ngôn ngữ học chức năng – hệ thống  
đóng vai trò ảnh hưởng không nhỏ với tư cách  
là cơ sở phương pháp luận của lĩnh vực phong  
cách học mới mẻ này. Những luận điểm cơ bản  
của ngôn ngữ học chức năng – hệ thống là tiền  
đề lý thuyết quan trọng của phong cách học phê  
phán. Chẳng hạn, luận điểm về vai trò của ngữ  
pháp trong việc xây dựng bức tranh tinh thần về  
thế giới trải nghiệm: “Ngữ pháp vượt ra ngoài  
những quy tắc của sự chính xác về hình thức. Nó  
là phương tiện để miêu tả những mô hình trải  
nghiệm (…). Nó có thể giúp con người xây dựng  
mꢀt bức tranh tinh thần về thực tại, tạo ra ý  
nghĩa về trải nghiệm của họ đối với sự việc diễn  
ra xung quanh họ và bên trong họ” (Halliday,  
1989: tr. 101)5.  
Quan điểm này về giá trị phản ánh nghĩa xã  
hꢀi của phương tiện ngữ pháp là cơ sở quan  
trọng để phong cách học phê phán đi sâu vào  
khảo sát ngữ pháp như mꢀt công cụ cơ bản  
phóng chiếu các quan niệm xã hꢀi trong văn  
bản, đặc biệt qua việc khảo sát hệ thống chuyển  
tác (transitivity). Qua khảo sát này, các nhà  
phong cách học phê phán (cũng như các nhà  
phân tích diễn ngôn phê phán và ngôn ngữ học  
phê phán trước đây) thấy rằng “quan điểm  
chính trị không chỉ được mã hoá thông qua  
những phương tiện tꢁ vựng khác nhau (với ví  
dụ nổi tiếng, nhiều người biết là freedom fighter  
– cảm tử quân, trong sự đối lập với terrorist –  
khủng bố), mà còn thông qua những cấu trúc  
ngữ pháp khác nhau”. Trong khuôn khổ khảo  
sát này, việc xoá bỏ tác nhân chủ đꢀng trong  
câu là mẫu hình chìa khoá của việc xem xét sự  
nhau” (Nørgaard và cꢀng sự, 2010: tr. 185).  
Halliday (1994)6 phân biệt các phương diện  
thuần tuý hệ thống của ngôn ngữ, cái mà ông gọi  
là “văn bản – textual”; cách dùng ngôn ngữ để  
miêu tả mꢀt quan điểm về thế giới, cái mà ông  
gọi là “quan niệm – ideational”; và hiệu quả của  
cách dùng ngôn ngữ như thế trong các mối quan  
hệ, cái mà ông gọi là “liên nhân – interpersonal”.  
Phong cách học phê phán tập trung khảo sát  
phương diện nghĩa quan niệm (ideational  
meaning) của văn bản (cũng gọi là nghĩa xã hꢀi  
– social meaning) đã được Halliday chỉ ra, và  
xem đây là mục đích trung tâm của việc khảo sát  
văn bản của lĩnh vực nghiên cứu này.  
Ngôn ngữ học chức năng – hệ thống chú  
trọng xem xét ngôn ngữ trong ngữ cảnh. Theo  
ngôn ngữ học chức năng – hệ thống, ngữ cảnh  
của mꢀt văn bản có các loại khác nhau: ngữ cảnh  
của tình huống trực tiếp, trong đó văn bản được  
tạo ra cũng như ngữ cảnh văn hoá rꢀng hơn của  
thể loại và ý thức hệ, là ngữ cảnh được nhận thức  
nhờ các nhân tố tꢁ vựng và ngữ pháp của văn  
bản. Và việc “tập trung chú ý vào nghĩa trong  
ngữ cảnh này đã tạo nên nền tảng lý thuyết  
Halliday trong ngôn ngữ học phê phán, phân  
tích diễn ngôn phê phán và phong cách học phê  
phán” (Nørgaard và cꢀng sự, 2010: tr. 185).  
3. Quá trình hình thành của phong cách  
học phê phán  
Theo Hermeston thì lĩnh vực phong cách học  
phê phán “được vạch ra mꢀt cách đầy đủ nhất  
với Jeffries (2010, 2014, 2016). Tuy nhiên,  
phong cách học phê phán nợ mꢀt món nợ lớn tꢁ  
tác phẩm của Paul Simpson (1993)7 về ý thức hệ  
và điểm nhìn trong văn bản, và cũng sử dụng  
nhiều nguyên lý của phong cách học nữ quyền  
(feminist stylistics)” (Hermeston, 2017: tr. 37).  
Nhóm tác giả quyển Key terms in stylistics  
cho rằng, quá trình hình thành phong cách học  
phê phán đã trải qua mꢀt giai đoạn khoảng 15  
năm, qua bốn tác giả là Fowler, Burton,  
Simpson, và Jeffries. Theo nhóm tác giả này,  
biến  
đổi  
ý
thức  
hệ  
‘‘ideological  
transformations’’ của văn bản (van Leeuwen,  
2006: tr. 2155). Nói rꢀng hơn, “những lựa chọn  
ngữ pháp khác nhau” sẽ “cấu thành những xã  
hꢀi khác nhau và những thế giới quan khác  
5
Halliday M A K (1989). Introduction to functional  
Grammar, 2nd edn. London: Edward Arnold; dẫn theo:  
grammar. London: Arnold; dẫn theo: van Leeuwen, 2006:  
tr. 2155.  
Jeffries, 2016: tr. 162.  
Simpson P. (1993). Language, Ideology and Point of  
View. London: Routledge.  
7
6 Halliday, M. A. K. (1994). An Introduction to Functional  
7
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE  
VOLUME 6 NUMBER 3  
trong trào lưu của ngôn ngữ học phê phán và  
phân tích diễn ngôn phê phán, về phong cách  
học, “Fowler là mꢀt trong những người khởi  
xướng đầu tiên và nổi tiếng nhất. Trong  
Linguistic Criticism8 (1986), ông đã khảo sát  
các hiện tượng như trình bày trải nghiệm thông  
qua ngôn ngữ, nghĩa và thế giới quan, vai trò của  
người đọc cũng như quan hệ giữa văn bản và  
ngữ cảnh” (Nørgaard và cꢀng sự, 2010: tr. 12).  
Đó là những vấn đề sau này sẽ tạo nền tảng cho  
sự ra đời của phong cách học phê phán. “Tꢁ  
phương diện nữ quyền, phân tích của Burton  
(1982)9 về kết cấu ngôn ngữ của tình trạng  
không có quyền hành (powerlessness) của các  
nhân vật chính nữ trong tiểu thuyết The Bell Jar  
(Nắp thuỷ tinh) của Sylvia Plath (1963) thường  
được trích dẫn. Thông qua phân tích về mô hình  
chuyển tác, Burton chứng minh cách nhân vật  
chính của tiểu thuyết được cấu trúc về phương  
diện ngôn ngữ như mꢀt sự thụ đꢀng, vô quyền  
hành lúc trải qua việc điều trị cú sốc điện tại  
bệnh viện tâm thần, nơi mà cô bị đưa vào”  
(Nørgaard và cꢀng sự, 2010: tr. 12). Cách thức  
phân tích mô hình chuyển tác sau này cũng được  
các nhà phong cách học phê phán chú ý nhưng  
nhấn mạnh vấn đề ý thức hệ và quan điểm tư  
tưởng của tác giả khi dùng các mô hình này.  
Nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất đối với sự ra  
đời của phong cách học phê phán là P. Simpson.  
Trong Language, Ideology and Point of View  
(1993), Simpson, chỉ ra cách phân tích điểm  
nhìn (tâm lý và/ hoặc ý thức hệ) trong mꢀt số  
loại văn bản văn chương và phi văn chương  
(Nørgaard và cꢀng sự, 2010: tr. 12-13). Simpson  
tꢁng viết: “Bằng việc xây dựng và phát triển mꢀt  
phong cách cụ thể, người tạo lập văn bản nói  
hoặc viết ban đặc quyền cho mꢀt cách giải thích  
nào đó, mꢀt con đường xem xét sự vật nào đó,  
trong lúc đàn áp hoặc giáng cấp những cái khác.  
[…] Mục đích của việc này, nói mꢀt cách khác,  
là thám hiểm dưới bề mặt ngôn ngữ, để giải mã  
sự lựa chọn phong cách cái định hình nghĩa của  
mꢀt văn bản” (Simpson, 1993: tr. 8)10. “Để thực  
hiện thám hiểm này, Simpson khảo sát các hiện  
tượng ngôn ngữ, chẳng hạn như sự biểu thị thái  
đꢀ thông qua ngôn ngữ (tình thái – modality),  
kết cấu ngôn ngữ của sự trải nghiệm (sự chuyển  
tác – transitivity) cũng như các phương diện  
dụng học của việc tạo nghĩa” (Nørgaard và cꢀng  
sự, 2010: tr. 13). Cuối cùng, Jeffries trong  
Critical Stylistics: The Power of English (2010)  
đốt nóng, gắn nối phân tích diễn ngôn phê phán  
và phong cách học, nhấn mạnh tầm quan trọng  
những công cụ phân tích nghĩa xã hꢀi (Nørgaard  
cꢀng sự, 2010: tr. 13). Hướng tiếp cận này,  
theo Jeffries, phát sinh tꢁ sự bất mãn  
(discontent) với đường hướng nghiên cứu của  
phân tích diễn ngôn phê phán. Hướng tiếp cận  
sư phạm của Jeffries đối với nghiên cứu ngôn  
ngữ được nhấn mạnh trong quá trình xây dựng  
phân ngành phong cách học phê phán.  
Đánh giá về Jeffries trong việc khai sinh  
phong cách học phê phán với công trình Critical  
stylistics: The Power of English11, nhà nghiên  
cứu Xiang viết: “Mục đích của tác giả là tích hợp  
phong cách học với phân tích diễn ngôn phê phán  
thành phong cách học phê phán” (Xiang, 2011:  
tr. 221) và hướng tiếp cận mới này “có thể áp  
dụng cho phân tích văn bản viết của chính trị gia,  
người viết bài quảng cáo, và nhà báo trong ngữ  
cảnh chính trị và xã hꢀi cụ thể để nghiên cứu ảnh  
hưởng của chúng đối với người đọc” (Xiang,  
2011: tr. 221). Mills, trong mꢀt bài điểm sách, nói  
rõ hơn về đóng góp của Jeffries: “Jeffries không  
chỉ xử lý với các nhân tố mà phân tích diễn ngôn  
phê phán tập trung giải quyết, như danh hoá  
8 Fowler, R. (1986). Linguistic Criticism. Oxford and New  
York: Oxford University Press.  
thiếu tự tin về ý nghĩa cụm tꢁ “the power of English” muốn  
nói tới. Những cụm tꢁ như vậy, nói chung, liên tưởng tới  
quan điểm thực dân và bảo thủ, những quan điểm nhìn  
nhận tiếng Anh trong mꢀt số góc đꢀ như là mꢀt ngôn ngữ  
ưu việt hơn các ngôn ngữ khác”, trong khi đó, “Quyển sách  
này rõ ràng nói về cách dùng ngôn ngữ của những người ở  
vị trí quyền lực và sự kháng cự bằng những chiến lược khác  
nhau của những người ít quyền lực, và nó không phải là  
mꢀt ví dụ cho sự quan tâm dễ dãi về sức mạnh của tiếng  
Anh hay mꢀt ngôn ngữ nào khác” (Mills, 2011: tr. 226).  
9 Burton, D. (1982), ‘Through glass darkly: Through dark  
glasses’, in R. Carter (ed.), Language and Literature. An  
Introductory Reader in Stylistics. London: George Allen  
and Unwin, pp. 195214.  
10 Dẫn lại theo: Nørgaard và cꢀng sự, 2010: p. 13.  
11 Phụ đề của quyển sách Critical stylistics: The Power of  
English bị Mills phê phán: “Mꢀt trong những phương diện  
có vấn đề nhất của quyển sách này là phụ đề. Tôi thực sự  
8
TP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN  
TP 6 S3  
(nominalisation), thể bị đꢀng (passivisation) và  
sự chuyển tác (transitivity), mà bà còn xử lý các  
vấn đề khác như chỉ xuất (dexis), tình thái  
(modality), thế giới khả hữu (possible worlds),  
điểm nhìn (point of view), sự phủ định  
(negation), sự đối lập (opposition), ví dụ và liệt  
kê (exemplifying and enumerating), những vấn  
đề mà phân tích diễn ngôn phê phán không quan  
tâm” (Mills, 2011: tr. 225).  
Bản thân Jeffries, khi nói về công việc của  
mình, đã nhấn mạnh vai trò phát triển hệ thống  
công cụ phân tích ý thức hệ trong văn bản:  
“Quyển sách này quan tâm đến con đường mà  
ngôn ngữ, khi được dùng trong những văn bản  
cụ thể, có thể giúp khắc dấu ấn ý thức hệ vào  
trong quan điểm của chúng ta về thế giới”  
(Jeffries, 2010: tr. 5). “Mặc dầu phong cách học  
phê phán chia sẻ nhiều giả định của phân tích  
diễn ngôn phê phán với sự quan tâm về khả năng  
của văn bản ảnh hưởng tới người tiếp nhận, tôi  
đã đề xuất các công cụ phân tích mà dùng nó có  
thể gợi ra mꢀt bꢀ máy về ảnh hưởng của ý thức  
hệ” (Jeffries, 2016: tr. 161).  
Trong quá trình hình thành của mình, phong  
cách học phê phán liên hệ rất nhiều với phong  
cách học nữ quyền (Hermeston, 2017: tr. 37).  
Nhóm tác giả Key Terms in Stylistics cũng nhận  
định: “Các nhà phong cách học nữ quyền đặc  
biệt quan tâm đến sự thể hiện và duy trì quan hệ  
giới tính (bất bình đẳng) trong văn chương, cũng  
như trong các loại văn bản và phương tiện  
truyền thông khác” và thực sự có thể xem phong  
cách học nữ quyền “như mꢀt biến thể của phong  
cách học phê phán – mꢀt lĩnh vực với những  
trọng tâm nghiên cứu khái quát hơn ở những  
biểu hiện về phương diện ngôn ngữ của bất bình  
đẳng xã hꢀi, cấu trúc quyền lực và ý thức hệ”  
(Nørgaard và cꢀng sự, 2010: tr. 3).  
vực mới của phong cách học, liên quan đến phân  
tích diễn ngôn phê phán cũng như với chính  
phong cách học. Phong cách học phê phán có  
mục đích mang lại tính nghiêm ngặt và trọng  
tâm phong cách học văn bản về phân tích văn  
bản phi văn chương với quan điểm nhận diện  
nền móng ý thức hệ của những văn bản như thế”  
(Jeffries, 2014: tr. 417). Năm 2016, khi so sánh  
với phân tích diễn ngôn phê phán, Jeffries cho  
biết thêm: “Đặc trưng phân biệt quan trọng của  
phong cách học phê phán” “là sự quan tâm của  
nó về việc vạch trần ý thức hệ nằm bên dưới văn  
bản” (Jeffries, 2016: tr. 159).  
Như các nhà nghiên cứu phân tích diễn ngôn  
phê phán đã khẳng định, mọi văn bản được xây  
dựng dựa trên ý thức hệ và mang ý thức hệ mặc  
dù ý thức hệ này là mꢀt phần của tiến trình có ý  
thức hoặc không có ý thức. Simpson (1993: tr. 6)  
khẳng định ngôn ngữ tất yếu bị giới hạn trong ngữ  
cảnh chính trị – xã hꢀi mà nó thực hiện chức năng,  
vì thế nó có thể cấu trúc, phản ánh và tái tạo ý thức  
hệ thống trị. Mꢀt phong cách12 cụ thể thể hiện sự  
lựa chọn tꢁ vô số những khả năng cho phép khác  
nhau của hệ thống ngôn ngữ, nó ưu tiên cho cách  
giải thích này nhưng giáng cấp những cách giải  
thích khác (Simpson, 1993: tr. 8), vì thế sự lựa  
chọn này mang tính ý thức hệ và điểm nhìn chính  
trị. Cho nên, các biến thể phong cách khác nhau  
không chỉ khác nhau do thủ pháp nghệ thuật, cách  
thức diễn đạt, mà còn do ý thức hệ khác nhau.  
Xiang cũng cho biết: vì sự lựa chọn phong cách  
được thực hiện bởi người soạn thảo văn bản là  
mang tính chất ý thức hệ (“ideologically loaded”)  
và được điều khiển bởi ý thức hệ (“ideologically  
manipulative”) nên sự mã hoá ý thức hệ hoặc nꢀi  
dung ý thức hệ của mꢀt văn bản cần phải được  
khám phá (Xiang, 2011: tr. 221).  
Cũng như ngôn ngữ học phê phán và phân  
tích diễn ngôn phê phán, ý thức hệ là khái niệm  
trung tâm của phong cách học phê phán. Nói  
rꢀng ra hơn là nghĩa xã hꢀi (social meaning) của  
văn bản, được văn bản phản ánh hoặc truyền đạt.  
4. Mục đích nghiên cứu của phong cách  
học phê phán  
Jeffries định nghĩa phong cách học phê phán  
như sau: “Phong cách học phê phán là mꢀt lĩnh  
12 Khái niệm “phong cách” (style) được hiểu trong phong  
cách học phê phán nghiêng về góc đꢀ quan điểm tư tưởng,  
nó rất gần với khái niệm “mind style” (phong cách tư duy,  
kiểu tư duy), tức phong cách ở đây chỉ sự lựa chọn khác  
nhau của thái đꢀ, cách giải thích, cách phản ánh thực tiễn,  
chứ không phải là phong cách với cách hiểu là những nét  
riêng biệt về cách diễn đạt ở phương diện hình thức của  
phong cách học truyền thống.  
9
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE  
VOLUME 6 NUMBER 3  
Nghĩa xã hꢀi bao gồm ý thức hệ, quan điểm tư  
tưởng, thế giới quan của người nói người viết,  
cơ cấu quyền lực xã hꢀi phản chiếu trong văn  
bản, diễn ngôn. Nghĩa xã hꢀi đó, hoặc hẹp hơn,  
ý thức hệ (được xem xét tꢁ góc đꢀ phong cách  
như mꢀt lựa chọn) là đối tượng nghiên cứu của  
phong cách học phê phán. Theo nhóm tác giả  
Key Terms in Stylistics thì: “phong cách học phê  
phán là thuật ngữ được dùng để chỉ việc phong  
cách học khám phá con đường, trong đó, nghĩa  
xã hꢀi được biểu thị thông qua ngôn ngữ.  
Khuynh hướng phong cách học này được truyền  
cảm hứng mạnh mẽ tꢁ ngôn ngữ học phê phán  
và phân tích diễn ngôn phê phán” (Nørgaard và  
cꢀng sự, 2010: tr. 11). Phong cách học phê phán  
quan tâm tới việc khám phá và phơi bày ý thức  
hệ bị giấu kín trong văn bản và diễn ngôn. Phong  
cách học phê phán khám phá cách mà nghĩa xã  
hꢀi và quan hệ quyền lực được diễn tả trong văn  
bản và ngôn bản.  
Thực ra ý thức hệ mà phong cách học phê  
phán hiểu chỉ là quan niệm (tư tưởng) về các vấn  
đề chính trị – xã hꢀi (như nghĩa thứ 2 của định  
nghĩa ý thức hệ trong Wales, 2011: tr. 209-210).  
Ví dụ như khi Jeffries dùng các kết hợp: ‘gender  
ideology’ (Jeffries, 2010: tr. 53), ‘racist  
ideology’ (Jeffries, 2014: tr. 414) có thể hiểu là  
“quan điểm về giới tính” hay “quan điểm phân  
biệt chủng tꢀc”.  
Khi khám phá ý thức hệ, Jeffries cảnh báo  
các nhà phong cách học phải trung lập, khách  
quan: “ý thức hệ của chính cá nhân chúng ta có  
thể trùng hợp hoặc xung đꢀt với cái ý thức hệ  
chúng ta tìm kiếm trong văn bản xung quanh ta  
trên mꢀt cơ sở đời sống hằng ngày. Hãy chắc  
chắn rằng chúng ta không bị ảnh hưởng mꢀt  
cách tinh tế bởi những ý thức hệ này” (Jeffries,  
2016: tr. 160). So với phân tích diễn ngôn phê  
phán thì phong cách học phê phán ít mang tính  
chính trị: “Ngữ pháp Halliday đóng vai trò cốt  
yếu đối với phân tích phong cách học, nhưng  
phân tích phong cách học thường ít mang đꢀng  
cơ chính trị” (Nørgaard và cꢀng sự, 2010: tr.  
70). Mꢀt số nhà nghiên cứu cho rằng phong cách  
học phê phán không liên hệ tới bất kỳ quan điểm  
chính trị nào. Trong lúc cách xử lý nghiên cứu  
ban đầu của phân tích diễn ngôn phê phán được  
chỉ dẫn tꢁ phương diện chính trị xã hꢀi chủ  
nghĩa, phong cách học phê phán lại được đề xuất  
như mꢀt phương pháp phát hiện ý thức hệ trong  
bất kỳ văn bản nào, mặc dù nhà nghiên cứu có  
đồng ý với nó hay không.  
Mặt khác, so với phân tích diễn ngôn phê  
phán thì phong cách học phê phán tập trung vào  
những vấn đề thuꢀc ngôn ngữ, ở cấp đꢀ vi mô,  
trong khi phân tích diễn ngôn phê phán lại có  
thiên hướng chú ý những vấn đề vĩ mô và ngữ  
cảnh. Mꢀt phạm vi bao quát hơn các vấn đề ở  
cấp đꢀ ngôn ngữ học vi mô (micro-linguistic  
level) chính là điểm mạnh của phong cách học  
phê phán trong so sánh với phân tích diễn ngôn  
phê phán.  
Mục đích nghiên cứu của phong cách học phê  
phán, theo cách hiểu hẹp hơn của Jeffries, là xác  
lập mꢀt bꢀ công cụ phân tích nꢀi dung ý thức hệ  
(ideological content), là cái mà các nhà phân tích  
diễn ngôn phê phán không chú ý xây dựng, nhằm  
giải mã ý thức hệ của người nói, người viết và tác  
đꢀng của nó đối với người tiếp nhận.  
Bꢀ công cụ phân tích này có khi được  
Jeffries gọi là các ‘chức năng văn bản – quan  
niệm’ (textual-conceptual functions)13. Theo  
Jeffries, “các chức năng văn bản – quan niệm là  
cơ sở của phong cách học phê phán” (Jeffries,  
2016: tr. 162), chúng giới thiệu mꢀt cấp đꢀ  
nghĩa ở giữa cấu trúc ngôn ngữ và ngôn ngữ  
trong ngữ cảnh. Jeffries cũng khẳng định rằng  
các chức năng văn bản – quan niệm hình thành  
tꢁ tư tưởng của Halliday (1985) về chức năng  
quan niệm của ngôn ngữ, theo đó, chúng ta dùng  
ngôn ngữ để xây dựng nên quan niệm về vũ trụ  
và con người. Các chức năng văn bản – nhận  
thức giúp đưa ra cách thức xác định ý thức hệ  
trong văn bản, thông qua suy xét kỹ lưỡng về  
hình thức ngôn ngữ liên hệ như thế nào với  
nghĩa quan niệm cấp đꢀ cao14 trong văn bản.  
13  
14  
Jeffries không mꢀt lần giải thích thuật ngữ này, nhưng  
Tức là ý thức hệ, lập trường, quan điểm, thế giới quan  
của người viết.  
chúng ta có thể hiểu với nghĩa là chức năng tổ chức văn  
bản và biểu thị quan niệm.  
10  
TP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN  
TP 6 S3  
Jeffries lưu ý rằng “điểm thiết yếu của những  
công cụ này về bản chất không phải mang tính  
kỹ thuật mà mang tính quan niệm” (Jeffries,  
2010: tr. 15).  
5. Hệ thống công cụ phân tích của phong  
cách học phê phán  
chuyển tác’ (transitivity – ai đã làm gì với ai  
hoặc cái gì), mꢀt khái niệm do ngữ pháp chức  
năng – hệ thống đề xuất. Đó là con đường mà  
mꢀt mệnh đề được dùng để phân tích những sự  
kiện, tình huống như là mꢀt loại hình nào đó. Và  
sự chuyển tác có khả năng phân tích cùng mꢀt  
sự kiện theo những con đường khác nhau. Vì có  
nhiều khả năng lựa chọn thể hiện mô hình  
chuyển tác (tức cũng là nhiều cách thức mô tả)  
nên sự lựa chọn chỉ rõ quan điểm về sự kiện,  
hành đꢀng, tình trạng, và đàn áp những khả năng  
khác. Mô hình chuyển tác “cho thấy cách người  
nói đã mã hoá trong ngôn ngữ bức tranh tinh thần  
của họ về thực tại như thế nào và cách họ giải  
thích những trải nghiệm về thế giới chung quanh”  
(Simpson, 1993: tr. 88)16. Ví dụ cùng mꢀt sự  
kiện, nhưng cách tường thuật của hai tờ báo như  
hai câu sau sẽ khác nhau rất nhiều về cách tiếp  
cận vấn đề: “Cảnh sát ủng hộ người da trắng đã  
nổ súng và giết chết ba mươi người châu Phi  
không vũ trang vào ngày hôm qua17, “Ba mươi  
người châu Phi đã chết trong cuộc xung đột  
chính trị và bạo lực vào ngày hôm qua”.  
5.1. Những công cụ phân tích do Jeffries đề  
xướng15  
Trong Critical stylistics: The Power of  
English, Jeffries đã chỉ rõ: “Vậy nên, mục đích  
của quyển sách này là trao cho người đọc bꢀ  
công cụ phân tích sáng sủa, dễ hiểu nhằm tiến  
hành công việc phân tích văn bản với mục đích  
khám phá hoặc phơi trần ý thức hệ nằm bên dưới  
văn bản” (Jeffries, 2010: tr. 6).  
Bꢀ công cụ phân tích nhằm khám phá ý thức  
hệ trong văn bản do Jeffries đề xuất trong Critical  
stylistics: The Power of English gồm 10 loại.  
5.1.1. Gọi tên và xác định rõ tính chất  
(Naming and Describing)  
Công việc đầu tiên khi xây dựng văn bản là  
gọi tên đối tượng, xác định đặc điểm của nó để  
đưa nó vào thế giới văn bản. Đối tượng có thể đã  
có tên gọi có sẵn trong vốn tꢁ của mꢀt ngôn ngữ,  
nhưng việc tác giả chọn dùng tên gọi nào trong  
số nhiều tên gọi của đối tượng đã thể hiện mꢀt  
quan niệm, mꢀt sự đánh giá. Mặt khác, tác giả có  
thể đặt ra những tên gọi mới cho đối tượng, thêm  
cho nó (hoặc bớt đi) những định ngữ (hoặc những  
danh hiệu, biệt danh) và công việc đó hoặc trực  
tiếp hoặc gián tiếp thể hiện quan điểm, sự đánh  
giá (trung lập, tiêu cực hoặc tích cực) cũng như  
thể hiện ý thức hệ của người viết.  
5.1.2. Trình bày hành động/sự kiện/tình  
trạng (Representing Actions/Events/States)  
Mꢀt hành đꢀng, sự kiện, tình trạng được tác  
giả miêu tả như thế nào (có chủ định hay không  
có chủ định; chủ đꢀng, hưởng lợi hay bị đꢀng,  
gánh chịu hậu quả),… đều thể hiện quan điểm,  
thái đꢀ của tác giả, trực tiếp hoặc gián tiếp.  
Nền tảng của sự miêu tả vꢁa nói là ‘sự  
5.1.3. Xác lập sự tương đồng và đối lập  
(Equating and Contrasting)  
Khi đặt mꢀt sự vật, hiện tượng trong thế đối  
lập hay tương đương với sự vật hiện tượng khác,  
người viết đã cấp cho đối tượng đó mꢀt nghĩa và  
sự đánh giá thông qua đối chiếu; sự đối chiếu đó  
thể hiện quan niệm của tác giả về sự vật, hiện  
tượng. Ví dụ sự đối lập trong câu sau đây biểu thị  
quan điểm phản đối sự kỳ thị và mong muốn xây  
dựng tình đoàn kết hữu nghị giữa các chủng tꢀc:  
“Giờ là thời khắc kéo đất nước chúng ta ra khỏi  
vũng lầy của bất bình đẳng chủng tꢀc để bước lên  
nền tảng vững chắc của tình đoàn kết anh em”  
(Martin Luther King, Diễn văn tại cuꢀc tuần hành  
đòi quyền dân sự, Washington DC, 1963).18  
5.1.4. Lấy ví dụ minh họa và liệt kê  
(Exemplifying and Enumerating)  
Khi minh họa bằng cách lấy ví dụ hoặc liệt  
15  
Phần này chúng tôi chỉ lược thuật làm nổi rõ lý do và  
16 Dẫn lại theo: Jeffries, 2010: tr. 50.  
công dụng của các công cụ mà Jeffries đề xuất, không đi  
vào các chi tiết cụ thể như mô hình ngôn ngữ, nút bấm cấu  
trúc cú pháp,… của bꢀ công cụ được tác giả giới thiệu  
trong 10 chương sách.  
17 Dựa theo ví dụ của van Leeuwen 2006: tr. 2155.  
18 Dựa theo ngữ liệu trong bài tập 4.22 của Jeffries, 2010:  
tr. 62: “Now is the time to lift our nation from the quick  
sands of racial injustice to the solid rock of brotherhood”.  
11  
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE  
VOLUME 6 NUMBER 3  
kê những trường hợp cụ thể của vấn đề được nói  
đến, người viết nhằm khắc sâu các thuꢀc tính  
của đối tượng và thông qua đó thể hiện quan  
điểm của mình về vấn đề. Lấy ví dụ và liệt kê là  
mꢀt cách chứng minh, phân tích thông qua  
những chứng cứ cụ thể. Quan điểm của người  
viết thể hiện qua các ví dụ được chọn (trường  
hợp tác giả cho là tiêu biểu) và cách thức liệt kê  
(cái gì được đưa ra trước hay ra sau; cái nào  
được nhấn mạnh, cái nào là đặc biệt, khác  
thường, cái nào bị bỏ sót hoặc cố tình quên đi;  
là mꢀt danh sách thực hay danh sách mang tính  
biểu tượng).  
5.1.7. Phủ định (Negating)  
Khi khẳng định mꢀt điều gì đó người viết đã  
thể hiện quan điểm của mình về sự vật, hiện  
tượng, và khi phủ định thì quan điểm của người  
viết lại càng được bꢀc lꢀ, nhưng theo mꢀt chiều  
khác. “Việc phủ định có hiệu quả tạo ra bức  
tranh tinh thần của cả cái phủ định lẫn sự xác  
nhận khẳng định. Điều này có nghĩa rằng việc  
phủ định có hiệu quả ý thức hệ đáng kể nếu  
người tạo lập văn bản cố gắng tác đꢀng tới  
người đọc hướng về mꢀt phiên bản tích cực”  
(Jeffries, 2014: tr. 416). Ví dụ: “Ngày nay  
không ai cần phải dùng lꢁa lọc để kinh doanh;  
cꢀng tác với người lao đꢀng, đối thoại với  
khách hành, trân trọng môi trường, rõ ràng,  
minh bạch trong đối xử – tất cả những cái đó là  
chìa khoá của sự thành công”19. Sự phủ định  
trong câu này phản ánh sự thay đổi về công  
việc kinh doanh trong chủ nghĩa tư bản đương  
đại và là lời khẳng định về kinh doanh trung  
thực, lành mạnh, tôn trọng những giá trị đạo  
đức – văn hoá của xã hꢀi.  
5.1.5. Sự ưu tiên (Prioritizing)  
Sự ưu tiên (hay thăng cấp hay giáng cấp tầm  
quan trọng thông tin) thường bꢀc lꢀ qua hệ  
thống tꢁ ngữ của văn bản (cái gì được nói tới  
nhiều hoặc nhấn mạnh quá mức bình thường, cái  
gì không nói tới, ít nói tới mà lẽ ra phải nói tới  
hoặc nói tới nhiều trong ngữ cảnh đó; và vấn đề  
được nói với cách đánh giá đề cao hay hạ thấp  
hơn mức mà nó vốn có). Sự ưu tiên còn thể hiện  
trong cấu trúc ngữ pháp của câu hoặc cả trong  
kết cấu của đoạn văn, văn bản (thông tin được  
nói tới ở vị trí mạnh hay yếu của kết cấu, ở cấp  
đꢀ cấu trúc nào, kiểu loại cấu trúc nào, theo  
những chiến thuật nào để làm nổi bật hoặc làm  
sai lệch có dụng ý ý thức hệ về thông tin).  
5.1.8. Nêu giả thuyết (Hypothesizing)  
Mꢀt phát biểu sử dụng các phương tiện tình  
thái (modality) sẽ có ảnh hưởng nhất định đối  
với quan điểm của người nghe, người đọc do nó  
đưa ra những tình huống mang tính chất giả  
thuyết và khẳng định luận điểm với sự giả thuyết  
5.1.6.Giđịnhvàhàmý(AssumingandImplying) đó. Theo Jeffries, tình thái “giới thiệu mꢀt cách  
Giả định và hàm ý có khả năng sử dụng để  
làm cho quan điểm của người viết xuất hiện ẩn  
dưới hình thức những ‘lẽ thường’. Quá trình  
‘nhập tịch’ (naturalization) này của ý thức hệ là  
“mꢀt trong những nhân tố quan trọng của con  
đường văn bản ảnh hưởng tới quan điểm, cách  
nhìn nhận của con người” (Jeffries, 2010: tr.  
93). “Cái mà người nói, người viết giả định hoặc  
hàm ý là có sức tác đꢀng mạnh” “vì những quan  
điểm tư tưởng này không được cấu trúc thành  
phát biểu chính của phát ngôn hoặc câu, và vì  
thế chúng ít bị ảnh hưởng bởi sự dò xét hoặc  
chất vấn” (Jeffries, 2010: tr. 93). Khả năng tác  
đꢀng của tiền giả định và hàm ý nằm ở đặc trưng  
‘bị che giấu’ của những loại nghĩa này.  
tường minh quan điểm của người tạo lập văn  
bản và điều này tự nó có thể có hiệu quả đối với  
người tiếp nhận” (Jeffries, 2010: tr. 115) và làm  
cho người tiếp nhận “tin, khao khát hoặc sợ hãi”  
(Jeffries, 2010: tr. 130). Tác đꢀng tiếp nhận này  
có thể rất nguy hiểm, bởi vì mặc dù người nói  
chỉ nêu ra những khả năng, giả thuyết, nhưng  
người nghe lại có khuynh hướng cho là sự thật.  
Những phát biểu tình thái “trong vị trí quyền lực  
để đưa ra thông tin cho công chúng, như các tổ  
chức truyền thông có uy thế (ví dụ: BBC hoặc  
những tờ báo quốc gia như The Times) thường  
được xem là có thẩm quyền cho việc tìm kiếm  
sự thật” (Jeffries, 2010: tr. 115). Chính quyền,  
nhà chức trách, người có uy tín cũng có thể diễn  
19 Dựa theo ví dụ của Jeffries 2010: tr. 111: “Nobody has to be  
employees,dialoguewithcustomers,respectfortheenvironment,  
vile in order to do business these days; collaboration with  
transparency ofdeals – these are the keys to success.”  
12  
TP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN  
TP 6 S3  
tả ý kiến của mình về cái có thể là, hoặc phải là,  
và họ thường được công chúng lắng nghe và tin  
theo. Đây là ảnh hưởng ý thức hệ dựa trên thân  
phận (status-based influence), mꢀt điều mà các  
chính khách, nhà báo, diễn giả hay lợi dụng để  
tác đꢀng vào người đọc, người nghe không có  
suy nghĩ đꢀc lập. Vì vậy người đọc, người nghe  
phải cảnh giác với những cái bẫy tình thái như  
thế khi cuꢀc sống hiện đại cực kỳ phức tạp, buꢀc  
con người phải tiêu hoá mꢀt khối lượng thông  
tin khổng lồ thì ngay cả người đọc kháng cự,  
thông minh và kỹ lưỡng nhất cũng bị ảnh hưởng  
không nhỏ của những điều họ đọc hoặc nghe.  
5.1.9. Trần thuật lời nói và tư tưởng của  
người khác (Presenting the Speech and  
Thoughts of other Participants)  
trần thuật của văn bản, và đối mặt với những  
thách thức” (Jeffries, 2010: tr. 157) mà văn bản  
đặt ra. Những thuꢀc tính cơ bản của thời gian,  
không gian trần thuật và các thông số quan hệ  
xã hꢀi của người tham gia tương tác trực tiếp  
(qua xưng hô) của văn bản phi văn chương ảnh  
hưởng tới rất nhiều sự tri nhận của người đọc  
với tư cách là người đứng bên ngoài, thụ đꢀng,  
đối kháng, hoài nghi, hay ở bên trong, tích cực,  
chủ đꢀng. Định vị hay chỉ xuất là phương tiện  
khá tinh tế trong quan hệ với tác đꢀng của ý thức  
hệ. Nó kéo người đọc, người nghe lâm thời ra  
khỏi trung tâm chỉ xuất của chính họ để đi vào  
vị trí quan sát, suy tư của văn bản. Điều này có  
khả năng làm thay đổi quan điểm tư tưởng của  
người tiếp nhận đối với văn bản.  
Trong tranh luận, diễn thuyết, khi tác giả dẫn  
lời nói, tư tưởng của người khác thì quan điểm  
của tác giả bꢀc lꢀ ở cách trích dẫn và sự bình  
luận của họ đối với điều được thuật lại. Tác giả  
có thể đồng tình hay hàm ý đồng tình, đứng về  
phía người được trích dẫn hoặc phản đối, chỉ  
trích. Lời nói được trích dẫn là phương tiện dùng  
quyền uy của người được dẫn để tác đꢀng mạnh  
tới quan điểm, tư tưởng của người đọc. Lời nói  
hay tư tưởng của người khác cũng bị tác giả văn  
bản bóp méo, xuyên tạc theo nhiều cách thức  
khác nhau với “mục đích ý thức hệ nào đó”  
(Jeffries, 2010: tr. 131), và tất nhiên cách dẫn đó  
làm thay đổi quan điểm, thái đꢀ của người tiếp  
nhận so với nguyên bản ban đầu.  
5.1.10. Định vthời gian, không gian và quan hệ  
giao tiếp (Representing Time, Space and Society)  
Những vấn đề đặt ra trong văn bản phi văn  
chương phải được người đọc nhận thức tꢁ mꢀt  
điểm nhìn tri nhận nào đó, qua đó, họ cấu trúc  
thế giới của văn bản trong tâm trí của họ theo  
mꢀt cách nào đó. Cách tốt nhất để người đọc  
nhận thức những vấn đề của văn bản là “đặt  
người đọc vào trung tâm chỉ xuất của tiếng nói  
5.2. Những công cụ phân tích khác  
Vì công việc xây dựng bꢀ công cụ của  
Jeffries có tính chất “dần dần tꢁng bước và thăm  
dò” (Jeffries, 2014: tr. 417) nên kết quả nghiên  
cứu của bà chưa mỹ mãn. Mặt khác cũng không  
thể nào liệt kê mꢀt cách cạn kiệt các công cụ  
phân tích phê phán phong cách học. Mꢀt danh  
sách đề xuất nào cũng có tính chất tương đối, và  
không phải với bất cứ tác phẩm nào, thể loại nào  
cũng dùng mꢀt bꢀ công cụ phân tích duy nhất.  
Trong qua trình phát triển hệ thống công cụ  
phân tích này, Hermeston trong bài viết  
Towards a critical stylistics of disability cho  
biết rằng trong khi sử dụng mꢀt số công cụ phân  
tích do Jeffries đề xuất, ông cũng chú ý dùng  
“những công cụ của các nhà nghiên cứu khác  
như van Leeuwen20, Mills21 và Simpson22”  
(Hermeston, 2017: tr. 38) và “bổ sung những  
yếu tố cho khung lý thuyết, đặc biệt là tác phẩm  
Martin và White23 về thái đꢀ (attitude) [của  
ngôn ngữ đánh giá ‘evaluative language’24],  
cũng như các vấn đề về lạ hoá (foregrounding)  
và lệch chuẩn (deviation)” (Hermeston, 2017: p.  
38). Hermeston cũng quan tâm về phân tích  
20  
Van Leeuwen, T. (1996). The representation of social  
23 Martin, J. R. and White, P. R. R. (2005). The Language  
of Evaluation. Basingstoke and New York: Palgrave  
actors. In C. R. Caldas-Coulthard and M. Coulthard (eds)  
Texts and Practices, pp. 3270. London and New York:  
Routledge  
24  
Bản thân Jeffries cũng nhắc đến vai trò của ngôn ngữ  
21 Mills S. (1995). Feminist stylistics. London: Routledge.  
đánh giá (evaluative language) trong việc tăng cường hiệu  
quả biểu thị quan điểm tư tưởng của tác giả văn bản (x.  
Jeffries, 2010: tr. 147).  
22  
Simpson P. (1993). Language, Ideology and Point of  
View. London: Routledge.  
13  
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE  
VOLUME 6 NUMBER 3  
‘phong cách tư duy’ (mind-style), phương thức  
trần thuật (narrative mode) và tình thái  
(modality) (Hermeston, 2017: p. 57). Mặt khác,  
theo chúng tôi (N.T.T), các công cụ xuất phát tꢁ  
chính lĩnh vực phong cách học (chứ không phải  
dựa quá nhiều ngữ pháp chức năng – hệ thống  
của Halliday và dụng học như Jeffries chẳng  
hạn) như ẩn dụ (Goatly 200725), phúng dụ, uyển  
ngữ,… cũng cần được nghiên cứu sâu thêm tꢁ  
phương diện phản ánh ý thức hệ.  
học phê phán có mꢀt mục đích đáng trân trọng là  
nâng cao ‘nhận thức mang tính phê phán về ngôn  
ngữ’ (critical language awareness) cho mọi  
người, bao gồm cả trong trường học, và nhận  
thức đó là cơ sở để tạo ra những sự thay đổi xã  
hꢀi thông qua những hình thức can thiệp trực tiếp  
(direct intervention) liên quan đến ngôn ngữ  
(Wales, 2011: tr. 145). Khi ngôn ngữ là diễn đàn  
của quyền lực xã hꢀi, khi ngôn ngữ góp phần  
củng cố ý thức hệ thống trị và che giấu sự thật,  
thì ý thức phê phán về diễn ngôn có thể xem “là  
mꢀt cơ sở cho sự giải phóng xã hꢀi” (Lời nói đầu  
của Tổng biên tập – Fairclough, 1989: x).  
6. Ý nghĩa thực tiễn xã hội của phong cách  
học phê phán  
Phân tích diễn ngôn phê phán và phong cách  
Xã hội  
Hệ
ng
Chấp thuận  
Người đọc  
Người nghe  
Người nói  
Người viết  
Văn bản  
(nói, viết)  
Lựa chọn  
Ý thức  
hệ  
Tác động  
Kháng cự  
Ghi khắc  
Bóc trần  
Nhà phong cách học  
sbì nhđẳngvàtiếnbxã hô i  
Bộ công cụ phân tích  
(Phương tiện)  
Ngôn ngữ học vi mô  
(Cấp độ)  
Ý thức hệ của văn bản  
(Mục đích)  
(Trọng tâ m)  
Hình 1. Phong cách học phê phán – Nguyên lý mã hoá  
và cách thức bóc trần ý thức hệ của văn bản  
Phong cách học phê phán cũng như phân tích  
diễn ngôn phê phán xem xét “hoạt đꢀng của ý  
thức hệ trong ngôn ngữ” (Jeffries, 2010: tr. 6) và  
ảnh hưởng của nó tới thế giới quan của người  
đọc. Phong cách học phê phán xuất phát tꢁ “ý  
tưởng rằng ngôn ngữ học có thể được dùng cho  
ứng dụng trong thế giới thực” (Jeffries, 2016: tr.  
158). Phong cách học phê phán chỉ rõ bổn phận  
xã hꢀi, trách nhiệm chính trị của nhà ngôn ngữ  
học trước các vấn đề xã hꢀi đương đại. Phong  
cách học phê phán còn là mꢀt phần của hệ hình  
đang phát triển nhằm mục đích truyền ý thức  
hành đꢀng và sự tự tin cho sinh viên về tư duy  
phê phán (critical thinking) để phát triển nhận  
thức tích cực về chính trị cho sinh viên.  
Hiển nhiên, phân tích diễn ngôn phê phán và  
phong cách học phê phán chỉ vận hành dễ dàng  
trong mꢀt xã hꢀi dân chủ, có tiếng nói đa chiều  
25  
Goatly, A. (2007). Washing the Brain: Metaphor and  
Company; dẫn theo: Jeffries, 2010: tr. 54.  
Hidden Ideology. Amsterdam: John Benjamins Publishing  
14  
TP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN  
TP 6 S3  
và ý thức phản biện; nhưng chính phân tích diễn  
ngôn phê phán và phong cách học phê phán  
cũng lại là cơ sở của mꢀt xã hꢀi dân chủ.  
Đến đây, chúng ta có thể hình dung bức tranh  
về sự mã hoá ý thức hệ vào hệ thống ngôn ngữ  
(và ghi khắc dấu ấn vào văn bản) cùng cách thức  
bóc trần ý thức hệ của văn bản theo quan điểm  
của phong cách học phê phán qua sơ đồ mà tác  
giả (N.T.T) mô tả trong Hình 1.  
phong cách học phê phán có mở rꢀng sang văn  
bản văn chương hay không. Nếu có, khi đó bꢀ  
công cụ phân tích của nó chắc chắn phải thay  
đổi rất nhiều vì ý thức hệ trong văn bản phi văn  
chương là đơn chủ thể, còn trong văn bản văn  
chương là mꢀt phức chủ thể gồm nhân vật,  
người trần thuật và tác giả. Và nếu phong cách  
học phê phán mở rꢀng sang văn bản văn chương  
thì nó sẽ khác với phê bình văn học theo khuynh  
hướng xã hꢀi học ở khối các nước xã hꢀi chủ  
nghĩa ý thức hệ Marxist trước đây như thế nào?  
Đến đây cũng cần nói rõ về hai cách tiếp cận  
ý thức hệ: theo truyền thống “ngục văn tự”  
phương Đông và theo kiểu dân chủ phương  
Tây. Trong lịch sử chế đꢀ phong kiến phương  
Đông và kéo dài sang cả thời kỳ chuyên chính  
vô sản, việc khám phá ý thức hệ, quan điềm tư  
tưởng là công việc của tầng lớp thống trị nhằm  
phát hiện lập trường, chính kiến của quần  
chúng, nhất là trí thức, văn nghệ sĩ (qua tác  
phẩm văn chương) để đàn áp, khủng bố những  
người chống đối. Ngược lại, truyền thống phân  
tích phê phán ý thức hệ kiểu dân chủ phương  
Tây với trường phái tiêu biểu phân tích diễn  
ngôn phê phán lại xuất phát tꢁ chủ thể là dân  
chúng, còn đối tượng phân tích phê phán ở đây  
lại là những chính trị gia và những người nắm  
giữ quyền lực trong xã hꢀi (qua lời diễn thuyết,  
tuyên ngôn, bài xã luận, bản tin, truyền đơn,…).  
Mục đích của việc phê phán này nhằm nâng cao  
ý thức xã hꢀi và giải phóng khỏi những bất bình  
đẳng, bất công và áp bức.  
7. Một số vấn đề tồn tại của phong cách  
học phê phán  
Vấn đề đầu tiên là đặc trưng ‘phong cách  
học’ chưa thể hiện rõ nét trong phong cách học  
phê phán, nhất là trong quyển Critical stylistics:  
The Power of English của Jeffries. Mặc dù tác  
giả sách cho biết: “Và giống Simpson, tôi cũng  
quan tâm đến việc lựa chọn phong cách, và phân  
tích văn bản – cái có thể soi sáng những lựa chọn  
mà người tạo lập văn bản đã thực hiện, mặc dù  
họ có ý thức hay không” (Jeffries, 2010: tr. 16),  
nhưng chính Jeffries cũng thꢁa nhận khi có đôi  
lời thanh minh về nhan đề tập sách của mình:  
“Trong lúc trọng tâm ý thức hệ có nghĩa rằng  
‘critical’ là chắc chắn được bao hàm [trong nhan  
đề tập sách], thì cái được chọn ‘stylistics’ là khó  
khăn hơn” (Jeffries, 2010: tr. 2). Khi điểm sách  
Critical stylistics: The Power of English, Xiang  
cũng nêu ý kiến là mối quan hệ giữa phong cách  
học và quan điểm ý thức hệ trong sách cần phải  
được khám phá sâu hơn (Xiang, 2011: tr. 223).  
Vì đặc trưng phong cách học không nổi rõ, nên  
phong cách học phê phán được mꢀt số nhà  
nghiên cứu xem chỉ như sự mở rꢀng của phân  
tích diễn ngôn phê phán.  
Vấn đề thứ hai, tuy đối tượng khảo sát là văn  
bản, nhưng phạm vi khảo sát của phong cách  
học phê phán (như trong quyển Critical  
stylistics: The Power of English) chỉ mới giới  
hạn ở cấp đꢀ vi mô của văn bản (câu, tꢁ), thiếu  
các vấn đề vĩ mô của văn bản, tức là khảo sát  
văn bản như mꢀt toàn thể về đề tài, chủ đề, cấu  
trúc, lập luận, chiến lược tương tác, hệ thống tꢁ  
vựng, lối giao tiếp,... – những vấn đề quan hệ  
rất chặt chẽ với ý thức hệ và quan điểm tư tưởng  
của tác giả.  
8. Kết luận  
Phong cách học phê phán là phương pháp  
phong cách học của phân tích ngôn ngữ, quan  
tâm tới cách thức ngôn ngữ chuyển tải những ý  
nghĩa xã hꢀi, nằm trong mꢀt lĩnh vực lớn hơn là  
‘những hướng tiếp cận phê phán về ngôn ngữ’  
(critical approaches to language) (Jeffries,  
2010: tr. 114). Phong cách học phê phán bắc  
những nhịp cầu nối kết phân tích diễn ngôn phê  
phán với phong cách học bằng việc dùng và  
phát triển sâu hơn hướng tiếp cận ngôn ngữ học  
phê phán cho phân tích văn bản. Thành tựu chủ  
yếu của phong cách học phê phán cho đến thời  
điểm hiện nay là cung cấp mꢀt tập hợp công cụ  
phân tích mang tính hệ thống và bao quát. Vì  
Mꢀt vấn đề khác là phạm vi nghiên cứu của  
15  
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE  
VOLUME 6 NUMBER 3  
disability. Journal of Language and  
Discrimination, 1 (1), pp. 34-60.  
thế, tꢁ mꢀt góc đꢀ nào đó mà nói thì phong cách  
học phê phán có thể được xem như mꢀt cách  
tiếp cận khác của phân tích diễn ngôn phê phán  
có thể được định vị trong nghiên cứu ngôn  
ngữ học phê phán, vì cả phân tích diễn ngôn phê  
phán và phong cách học phê phán đều hành  
đꢀng để chỉ rõ ý thức hệ và quyền lực trong diễn  
ngôn. Đó là công việc “làm sáng tỏ những quan  
hệ phức tạp và vô hình” (Fairclough, 1989: tr.  
27) và mang nhiều ý nghĩa thực tiễn trong  
khuynh hướng dân chủ hoá vì sự tiến bꢀ và bình  
đẳng xã hꢀi.  
Phong cách học phê phán thể hiện mꢀt cách  
hiểu mới về phong cách: phong cách là sự lựa  
chọn của những thái đꢀ, cách giải thích, cách  
phản ánh. Phong cách là sự phản ánh cách nhận  
thức thực tế, phản ánh thế giới quan và tư duy  
và cũng chính là sự phản ánh mꢀt cách sống,  
mꢀt cách quan niệm.  
Jeffries, L. (2010). Critical Stylistics: The Power of  
English. Hampshire; Palgrave Macmillian.  
Jeffries, L. (2014). Critical stylistics. In: Burke, M.  
(ed.). The Routledge Handbook of Stylistics.  
London: Routledge, pp. 408-420.  
Jeffries, L. (2016). Critical stylistics. In: Sotirova, V.  
(ed). The Bloomsbury Companion to  
Stylistics. London and New York;  
Bloomsbury, pp. 157-176.  
Mills, S. (2005) [1995]. Feminist stylistics. London;  
Routledge.  
Mills, S. (2011). Critical stylistics, by Lesley  
Jeffries, Critical Discourse Studies, 8 (3), pp.  
225-226.  
Nørgurd, N., Montoro, R. and Busse, B. (2010). Key  
Terms in Stylistics. London; Continuum.  
Simpson, P. (1993). Language, Ideology and Point  
of View. London; Routledge.  
Simpson, P. (2004). Stylistics. London and New  
York; Taylor & Francis.  
van Leeuwen, T. (2006). Critical Discourse  
Analysis. In: Brown K (ed.). Encyclopedia of  
language and linguistics. New York;  
Elsevier, pp. 2155-2159.  
Phong cách học phê phán mở ra những đề tài  
nghiên cứu mới trong mꢀt phạm vi cũ. Trong  
hướng khảo sát này, các đề tài về tìm hiểu ý thức  
hệ (hoặc quan điểm tư tưởng, chính trị) trong  
hiến pháp hay mꢀt bꢀ luật của mꢀt quốc gia nào  
đó chẳng hạn, sẽ là đề tài có nhiều điều mới mẻ  
và thú vị.  
Voloshinov, U.N and Bakhtin, M (1994). Marxism  
and the Philosophy of Language. Trans. L.  
Matejka and I.R. Titunik. Bakhtin Reade  
Selected writings of Bakhtin, Medaredev,  
Voloshinov, (Ed.) Pam Morris. London:  
Edward Arnold, pp. 25-37.  
Tài liệu tham khảo  
Burke, M. (2014). Stylistics: From classical rhetoric  
to cognitive neuroscience. In: Burke L. (ed.),  
The Routledge Handbook of Stylistics,  
London; Routledge, pp. 1-7.  
Wales, K. (2011). A Dictionary of Stylistics (3rd ed.).  
London and New York; Routledge.  
Fairclough, N. (1989). Language and power.  
London: Longman.  
Hermeston, R. (2017). Towards a critical stylistics of  
Xiang, Y. (2011). Critical stylistics, by Lesley  
Jeffries, Critical Discourse Studies, 8 (3), pp.  
221-223.  
16  
pdf 14 trang baolam 13/05/2022 3300
Bạn đang xem tài liệu "Phong cách học phê phán - hướng tiếp cận mới của phong cách học về văn bản phi văn chương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfphong_cach_hoc_phe_phan_huong_tiep_can_moi_cua_phong_cach_ho.pdf