Sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu từ điểm nhìn Văn học sử

TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN  
Soá 19 - Thaùng 2/2014  
SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU  
TỪ ĐIỂM NHÌN VĂN HỌC SỬ  
LÊ VĂN HỶ(*)  
TÓM TẮT  
Bài viết tiếp cận Nguyễn Đình Chiểu từ góc nhìn của lí thuyết tiếp nhận, trong đó sử  
dụng phương pháp lịch sử - chức năng làm chủ đạo. Cứ liệu khảo sát là các công trình lịch sử  
văn học Việt Nam có đề cập đến Nguyễn Đình Chiểu được xuất bản ở Việt Nam từ đầu thế kỉ  
XX đến nay, từ công trình của Dương  uảng Hàm 1943 đến Nguyễn Văn Hầu 2012.  
Từ khoá: văn học sử, Nguyễn Đình Chiểu, lí thuyết tiếp nhận, văn học Việt Nam.  
ABSTRACT  
The article studies Nguyen Dinh Chieu from the perspectives of the receptive  
theory, which uses the history-function method as a decisive method. The survey data are  
the historical literary works on Nguyen Dinh Chieu published in Vietnam from the early  
twentieth century to the present, from the works of Duong Quang Ham in 1943 to the  
works of Nguyen Van Hau in 2012.  
Keywords: historical literature, Nguyen Dinh Chieu, the receptive theory,  
Vietnamese literature.  
1.NGUYỄNĐÌNHCHI UDƯỚIGÓCNHÌN  
CỦA CÁC C NG TRÌNH VĂN HỌC SỬ  
TRƯỚC 1954  
trình hiện đại hoá. Sự ra đời của các đô thị  
lớn, sự phát triển của báo chí đã góp phần  
quyết định đến sự sôi động của đời sống  
nghiên cứu phê bình văn học Việt Nam  
trước 1945. Khoa nghiên cứu văn học Việt  
Nam, trong đó có bộ môn lịch sử văn học từ  
sau khi tiếp xúc với nền học thuật phương  
Tây đã có một sự thay đổi. Theo Nguyễn  
Văn Hoàn, sự tiếp xúc ban đầu là qua tiếng  
Pháp và sách báo bằng tiếng Pháp, tiếp đó là  
qua hệ thống trường học, trong đó môn văn  
học giới thiệu hầu hết các trường phái phê  
bình văn học Pháp, nhất là cuốn Lịch sử văn  
học Pháp của Gustave Lanson được sử dụng  
làm sách giáo khoa suốt thời Pháp thuộc đã  
có một ảnh hưởng nổi bật ở Việt Nam mà  
giai đoạn đầu, tiêu biểu là Dương Quảng  
Hàm với công trình Việt Nam văn học sử  
yếu (1943). Là một nhà giáo, có làm công  
tác biên khảo và dịch thuật, ông đồng thời là  
nhà văn học sử với công trình vừa dẫn. Đây  
là bộ văn học sử đầu tiên do người Việt viết  
nên nó có một ý nghĩa khá đặc biệt. Trước  
đó, Phan Trần Chúc công bố công trình văn  
Khái niệm văn học sử, lịch sử văn học  
được sử dụng trong bài viết này có nội  
hàm tương đương nhau. Người viết tán  
thành ý kiến của các tác giả Từ điển thuật  
ngữ văn học 1992, bên cạnh đó có tham  
khảo ý kiến về khái niệm này trong Lược  
thảo lịch sử văn học Việt Nam - 1957, Sơ  
thảo lịch sử văn học Việt Nam - 1957, Các  
vấn đề của khoa học văn học - 1990, Văn  
học sử những quan niệm mới những tiếp  
cận mới - 2001, Phương pháp luận nghiên  
cứu văn học - 2009 và ý kiến của các tác  
giả như Phạm Thế Ngũ 1965, Thanh Lãng  
1967 và Huỳnh Vân - 2010 trong bài Hans  
Robert Jauss: Lịch sử văn học là lịch sử  
tiếp nhận.  
Trong các công trình văn học sử  
trước 1945, Nguyễn Đình Chiểu được  
nghiên cứu về nhiều mặt, nhiều góc nhìn  
khác nhau. Văn học Việt Nam từ đầu thế  
kỉ XX, nhất là từ sau 1930, bước vào quá  
(*) ThS, Tp chí Vietnam Logistics Review.  
33  
học sử Văn chương quốc âm thế kỉ XIX  
(194) giới thiệu qua về Nguyễn Đình  
Chiểu và truyện Lục Vân Tiên với những  
đánh giá sơ lược, còn nhiều nhầm lẫn về  
năm sinh và tác phẩm của cụ Đồ. Nhìn  
chung nó không có gì mới đối với người  
đương thời cả về phương diện tư liệu lẫn  
phương pháp tiếp cận. “Việt Nam văn học  
sử yếu tạo ra một mốc son trong lịch sử  
văn học sử Việt Nam, có ý nghĩa khai mở  
và là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho  
thế hệ sau mà bằng chứng là cho đến năm  
1968, nó đã được đã in lần thứ 10 và đến  
năm 2002 vẫn còn tiếp tục được tái bản.  
Dương Quảng Hàm còn có một số công  
trình nghiên cứu, biên khảo khác có đề cập  
đến cụ Đồ như: Việt Nam thi văn hợp  
tuyển (1943), Văn học Việt Nam,  uốc văn  
trích diễm nhưng tiêu biểu nhất vẫn là Việt  
Nam văn học sử yếu. Trong bộ văn học sử  
này, tác phẩm của cụ Đồ được khảo sát là  
truyện thơ Lục Vân Tiên ở chương 19 Các  
truyện nôm khác… Tác giả Nguyễn Đình  
Chiểu thì được xếp vào khuynh hướng đạo  
lí của chương 20: Các nhà viết văn nôm về  
thế kỉ thứ XIX. Như vậy, đến lúc này, con  
người và sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu  
đã hiện diện chính thức trong nhà trường  
thời Pháp thuộc qua bộ văn học sử đầu tiên  
của nền học thuật nước nhà. Việt Nam văn  
học sử yếu chịu ảnh hưởng phương pháp  
văn học sử phương Tây khá rõ nét, đó là:  
“… phương pháp phê bình đại học của  
Brunetiere và phương pháp phê bình văn  
học của Gustave Lanson” (Lê Quang Tư,  
2009, trang 61). Trong công trình này,  
Dương Quảng Hàm đã sử dụng khá sớm  
phương pháp so sánh văn học. Tuy nhiên,  
đã có nhà nghiên cứu như Hà Thanh Vân  
lưu ý rằng phương pháp so sánh văn học  
của Dương Quảng Hàm không trùng khớp  
với phương pháp luận văn học so sánh  
hiện đại.  
kháng chiến trường kì 9 năm. Cuộc cách  
mạng mùa thu đã mở ra một kỉ nguyên mới  
trong lịch sử dân tộc, kỉ nguyên độc lập tự  
chủ và chủ nghĩa xã hội. Một nền văn học  
mới đã ra đời trong những điều kiện khắc  
nghiệt của chiến tranh, nền văn học cách  
mạng dần xuất hiện với phương châm: dân  
tộc khoa học và đại chúng. Các nhà văn trở  
thành chiến sĩ và văn hoá văn nghệ cũng là  
một mặt trận như lời của Chủ tịch Hồ Chí  
Minh đã phát biểu năm 1951. Giai đoạn  
này có tính chất nhận đường như tên một  
bài viết của Nguyễn Đình Thi. Trong hoàn  
cảnh ấy, sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu  
đã trở thành một trong những nguồn mạch  
và là nguồn cổ vũ nhiệt thành cho các  
chiến sĩ trên mặt trận văn hoá văn nghệ.  
Trong bối cảnh chung của đất nước, sáng  
tác của Nguyễn Đình Chiểu cũng đã bắt  
đầu những chặng đường mới trong hành  
trình số phận của mình. Sự tác động của lí  
luận văn học cách mạng và ảnh hưởng của  
tư tưởng dân tộc, khoa học, đại chúng nổi  
bật trong thời kì này đối với các công trình  
nghiên cứu lịch sử văn học ở các đô thị bị  
tạm chiếm là một thực tế có thể quan sát  
được qua các công trình xuất bản vào giai  
đoạn này.  
Dựa vào những tài liệu hiện còn và  
đã được công bố, ta có thể nhận thấy  
những nghiên cứu tiêu biểu về Nguyễn  
Đình Chiểu qua các công trình văn học  
sử sau đây.  
Việt Nam văn học sử trích yếu của  
Nghiêm Toản (1949), bộ sách này gồm 2  
tập được nhà sách Vĩnh Bảo ấn hành tại Sài  
Gòn. Tiêu chí phân loại của công trình này  
dựa vào ngôn ngữ và thể loại văn học.  
Nguyễn Đình Chiểu được xếp vào mục Thi  
ca có liên lạc mật thiết với thời cục và mục  
Trường thiên tiểu thuyết thuộc phần thứ ba:  
Văn học vừa bình dân vừa bác học chữ  
Nôm và chữ  uốc ngữ. Nghiêm Toản cho  
rằng những tác phẩm này “… sẽ là gương  
phản chiếu tâm trạng người mình trong một  
giai đoạn lịch sử đầy phẫn hận, đau  
Cách mạng tháng Tám đã khai sinh ra  
nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà non  
trẻ và ngay sau đó phải bước vào cuộc  
34  
thương”[12, tr.177]. Lập trường của tác giả  
bộ sách thể hiện khá rõ trong lời Tựa - lần  
xuất bản thứ nhất: “Văn học là phản ánh  
của xã hội, do tự dân chúng phát sinh và  
phải luôn luôn quay về dân chúng mới đủ  
năng lực trưởng thành; văn học Việt Nam  
theo hai động lực phát triển nhịp nhàng: a)  
tranh đấu, và b) dân chúng hoá” [12,tr.8].  
Không khó khăn gì để nhận thấy sự gần gũi  
của những tuyên bố này với lập trường,  
phương châm dân tộc khoa học và đại  
chúng đang lưu hành rộng rãi trong văn  
nghệ vùng kháng chiến giai đoạn này.  
“Quan niệm văn học này tương đối mới so  
với các nhà văn học sử đương thời. Dấu ấn  
bước đầu ảnh hưởng chủ nghĩa Mác -  
Lênin đã xuất hiện ở đây” [5,tr.66].  
một số sáng tác nào đó của Nguyễn Đình  
Chiểu giữa Dương Quảng Hàm với  
Nghiêm Toản, Nguyễn Tường Phượng –  
Bùi Hữu Sủng, tức giữa hai giai đoạn  
nghiên cứu lịch sử văn học trước và sau  
năm 1945. Điều đó không có gì khó hiểu  
khi lịch sử xã hội và tình hình tư tường,  
văn hoá đã có những thay đồi, đã xuất hiện  
những quan điểm và lí luận văn hoá, văn  
học mới ở vùng kháng chiến. Cụ thể có thể  
thấy trong khi Dương Quảng Hàm không  
đề cập đến thơ văn yêu nước chống Pháp  
thì Nghiêm Toản lại xếp ông vào khuynh  
hướng Thi ca có liên lạc mật thiết với thời  
cục còn Nguyễn Tường Phượng – Bùi Hữu  
Sủng, ngoài việc chú ý đến những tác  
phẩm có nội dung yêu nước của Nguyễn  
Đình Chiểu cũng đã ghi nhận ông cò thuộc  
khuynh hướng văn chương thời thế, tức  
văn chương gắn với thời cuộc của đất  
nước. Tiến trình lịch sử của sự tiếp nhận  
sáng tác của Nguyễn Đìng Chiểu trước và  
sau cách mạng tháng tám năm 1945 đã có  
những sự thay đổi nào đó do chịu ảnh  
hưởng của những điều kiện lịch sử xã hội  
và tư tưởng của mỗi thời kì.  
Công trình của Nguyễn Tường Phượng  
- Bùi Hữu Sủng, Nghiêm Toản, tuy chưa  
tạo ra đột phá về phương pháp tiếp cận và  
tư liệu cũng như chưa tạo ra một cách đọc  
mới đối với các sáng tác của Nguyễn Đình  
Chiểu nhưng đã đặt nền móng, có tính chất  
dò đường và kể cả khi chưa thành công nó  
cũng có một ý nghĩa nhất định. Rất tiếc là  
sau ngày hoà bình lặp lại ở miền Bắc và cả  
sau ngày thống nhất đất nước 1975, hai  
công trình của Nguyễn Tường Phượng -  
Bùi Hữu Sủng, Nghiêm Toản ít được nhắc  
đến và rơi vào lãng quên một cách oan  
uổng, mãi đến sau ngày đổi mới tên tuổi  
các tác giả cũng như những công trình này  
mới được nhìn nhận lại, tiêu biểu là việc  
được đưa vào trong Từ điển văn học (bộ  
mới - 2004).  
Văn học sử Việt Nam hậu bán thế kỉ  
thứ XIX (1952) của Nguyễn Tường Phượng  
- Bùi Hữu Sủng nằm trong dự định bộ sách  
6 cuốn về văn học từ trước thế kỉ 19 đến  
văn học hiện đại nhưng do những biến  
động thời cuộc mà bộ này chỉ mới xuất bản  
được 2 cuốn: Văn học sử tiền bán thế kỉ  
XIX, Văn học sử hậu bán thế kỉ XIX. Dù  
mang tên là một bộ văn học sử nhưng tác  
giả chỉ thừa nhận và thực tế đây chỉ là tài  
liệu giáo khoa bậc trung học lưu hành trong  
vùng tạm chiếm của Pháp ở các tỉnh phía  
Bắc giai đoạn 1945-1954. Các tác giả Văn  
học sử Việt Nam hậu bán thế kỉ thứ XIX đã  
nghiên cứu Nguyễn Đình Chiểu ở hai  
khuynh hướng văn chương đạo lí và văn  
chương thời thế. Phải thừa nhận rằng cách  
phân chia giai đoạn văn học này không có  
gì mới so với những người đi trước như  
Dương Quảng Hàm, Nghiêm Toản nhưng  
cái mới ở công trình này là lần đầu tiên  
ngoài Lục Vân Tiên các tác phẩm như Ngư  
Tiều y thuật vấn đáp, thơ và văn tế như:  
Trung thần nghĩa sĩ, Điếu lục tỉnh sĩ dân  
văn, Văn tế vong hồn mộ nghĩa, Văn tế  
Trương Định đã được đưa vào và bước đầu  
ghi nhận về mặt nội dung yêu nước. Điều  
đó cho thấy rằng có sự khác biệt nhất dịnh  
trong việc chú ý đến hay không chú ý đến  
Khởi thảo văn học sử Việt Nam – Văn  
chương chữ Nôm (1953) là quyển thứ 2  
35  
trong dự định biên soạn bộ văn học sử của  
Thanh Lãng nhưng vì nhiều lí do, dự định  
này không thành. Trong công trình này,  
văn chương chữ Nôm được xem xét trong  
tiến trình lịch sử văn học Việt Nam ở ba  
thời kì: phôi thai, phát đạt và toàn thịnh.  
Theo quan điểm của Thanh Lãng thì  
Nguyễn Đình Chiểu thuộc nhóm các nhà  
làm truyện, bên cạnh các thi sĩ và các nhà  
làm văn tế thuộc thời đại toàn thịnh. Công  
trình chỉ khảo sát Lục Vân Tiên, các sáng  
tác khác chỉ nêu tên mà không đề cập nội  
dung. Sau khi giới thiệu qua về tác giả,  
nguồn gốc, lược truyện, luân lí, triết lí và  
nghệ thuật truyện Lục Vân Tiên, Thanh  
Lãng kết luận: “Nếu nghệ thuật viết truyện  
chỉ là để tả được hết tình ý của mình thì Đồ  
Chiểu quả có một nghệ thuật cao!”  
[19,tr.206]. Tiêu chí phân loại của Thanh  
Lãng là ngôn ngữ, bên cạnh chữ Nôm là  
chữ Hán và sau là chữ Quốc ngữ, cách  
phân chia truyện Nôm là theo tiêu chí có  
tác giả và vô danh (còn gọi là hữu danh và  
khuyết danh). Hạn chế của cách phân chia  
này là chỉ cần tìm ra tác giả là có ngay sự  
thay đổi, tính ổn định không cao. Sau này,  
các nhà văn học sử ở miền Bắc như  
Nguyễn Lộc và nhóm Lê Quý Đôn có cách  
phân chia khác là bình dân và bác học. Các  
tác phẩm khác của Nguyễn Đình Chiểu  
được Thanh Lãng đề cập đến trong Bảng  
lược đồ văn học Việt Nam, quyển hạ 1862-  
1945. Giai đoạn 1945-1954 còn được gọi là  
giai đoạn chống Pháp, nhận đường. Giai  
đoạn này vì nhiều lí do như chiến tranh liên  
miên và ngày càng khốc liệt nên chưa có  
điều kiện giới thiệu các phương pháp tiếp  
cận cũng như những cách đọc mới các sáng  
tác của Nguyễn Đình Chiểu, nhưng những  
cố gắng của các nhà nghiên cứu giai đoạn  
này đã tạo cơ sở, tiền đề và những bước đi  
đầu tiên cho những thành tựu ở cả hai miền  
Nam - Bắc sau này.  
2.1. Nguyễn Đình Chiểu dưới góc nhìn  
của văn học sử miền Bắc xã hội chủ nghĩa  
Từ Hội nghị Geneve, hoà bình đã được  
lập lại ở miền Bắc, vĩ tuyến 17 sông Bến  
Hải đã chia Việt Nam thành hai miền Nam-  
Bắc với hai chế độ chính trị xã hội khác  
nhau. Miền Bắc tiến lên xây dựng chủ  
nghĩa xã hội, tiến hành cuộc kháng chiến  
chống Mỹ cứu nước và hoàn thành sứ  
mệnh lịch sử này vào ngày 30-4-1975.  
Dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng,  
quan niệm mỗi nhà văn là một chiến sĩ trên  
mặt trận văn hoá văn nghệ vẫn được tiếp  
tục và duy trì, mỗi nhà văn là một nghệ sĩ-  
công dân. Định hướng này chi phối toàn bộ  
nền văn học, dĩ nhiên bao gồm cả định  
hướng toàn bộ quá trình nghiên cứu và  
khai thác di sản truyền thống, trong đó có  
Nguyễn Đình Chiểu. Ngay khi vừa lặp lại  
hoà bình, ở miền Bắc, mỗi năm đều có các  
hoạt động kỉ niệm ngày sinh và ngày mất  
Nguyễn Đình Chiểu trên báo chí và các  
hoạt động khác nhưng nổi bật hơn cả là các  
hoạt động kỉ niệm 75 năm ngày mất và 150  
ngày sinh Nguyễn Đình Chiểu. Có thể thấy  
cột mốc năm 1963 và 1972 là thời điểm ghi  
dấu những đỉnh cao trong lịch trình tiếp  
nhận cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình  
Chiểu. Có thể chọn hai cột mốc này để chia  
quá trình tiếp nhận Nguyễn Đình Chiểu  
trong đời sống nghiên cứu, phê bình ở  
miền Bắc từ 1954 đến 1975 làm 2 giai  
đoạn: 1954 – 1963 và 1963 và 1975. Giai  
đoạn 1954 – 1963, đỉnh cao trong quá trình  
tiếp nhận Nguyễn Đình Chiểu là các công  
trình văn học sử có tên Lược thảo lịch sử  
văn học Việt Nam Sơ thảo lịch sử văn  
học Việt Nam.  
Vũ Đình Liên là người phụ trách phần  
viết về Nguyễn Đình Chiểu trong bộ Lược  
thảo lịch sử văn học Việt Nam, tập II và III.  
Nguyễn Đình Chiểu được khảo sát ở giai  
đoạn nửa đầu và nửa cuối thế kỉ XIX. Ở  
giai đoạn nửa đầu thế kỉ (tập II) đề cập đến  
tiểu sử nhà thơ và tác phẩm Lục Vân Tiên,  
soạn giả cho rằng Lục Vân Tiên trước hết là  
2. NGUYỄN ĐÌNH CHI U QUA  
CÁI NHÌN CỦA VĂN HỌC SỬ  
GIAI ĐOẠN 1954-1975  
36  
một truyện luân lí, đạo đức. Về nghệ thuật  
thì truyện này mang đậm tính chất nhân  
dân và đại chúng. Giai đoạn nửa cuối (tập  
III) thì khảo sát Ngư Tiều y thuật vấn đáp  
và các tác phẩm thuộc thơ văn yêu nước  
khác nhưng không đề cập đến Dương Từ -  
 ậu. Tác giả công trình này cho rằng  
Ngư Tiều y thuật vấn đáp là một cuốn sách  
về y học nhưng có giá trị tư tưởng cao và  
có giá trị nghệ thuật đáng kể. Năm 1958,  
chuyên luận Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ  
yêu nước miền Nam được viết lại và xuất  
bản dưới tên mới Nguyễn Đình Chiểu  
(1822-1888) do Hoài Thanh viết lời tựa.  
Đáng chú ý nhất là trong công trình này,  
tác giả cho rằng: “Tư tưởng yêu nước, một  
hình thức mới trong hoàn cảnh mới của tư  
tưởng nhân nghĩa đạo đức của Nguyễn  
Đình Chiểu đã thay thế cho tư tưởng trung  
hiếu tiết nghĩa trong truyên Lục Vân Tiên.  
Tư tưởng nhân nghĩa được nâng cao lên,  
nhưng lại mất một phần tính chất lạc quan  
tươi sáng” [23 – 86,87]. Trong chuyên luận  
này, tác phẩm Dương Từ - ậu vẫn  
chưa được khảo sát chi tiết. Phải đến  
8/1963 nhà nghiên cứu mới công bố bài  
viết về tác phẩm này trên Tạp chí Văn học:  
Bước đầu tìm hiểu Dương Từ -  u  
qua những tài liệu chúng ta hiện có. Theo  
tác giả, tác phẩm này được Nguyễn Đình  
Chiểu sáng tác ở Tân Thuận vào những  
năm 1859-1860. Chủ đề của tác phẩm là  
phê phán xã hội phong kiến suy tàn, đánh  
thức ý thức cảnh giác với âm mưu của thực  
dân xâm lược trên vấn đề tôn giáo. Các ý  
kiến này được tiếp tục khẳng định trong Sơ  
thảo lịch sử văn học Việt Nam - giai đoạn  
nửa cuối thế kỉ XIX (1964), phần viết về  
Nguyễn Đình Chiểu vẫn do Vũ Đình Liên  
chấp bút. Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam  
- giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX đã chia  
cuộc đời sáng tác Nguyễn Đình Chiểu làm  
hai giai đoạn chính: a) Giai đoạn 1849-  
1858, từ khi nhà thơ bị mù đến lúc Pháp  
đánh Nam Bộ, Lục Vân Tiên được sáng tác  
trong giai đoạn này; b) Giai đoạn từ 1858  
đến cuối đời, giai đoạn này lại chia làm 2  
chặng: từ 1858-1870, thơ văn mang tinh  
thần chiến đấu, tích cực và lạc quan. Chặng  
từ 1870 đến cuối đời, thơ văn nói về cuộc  
chiến đấu của nhân dân và lòng căm thù  
giặc ít đi (Vũ Đình Liên, 1964, trang 66-  
67). Như vậy, với Vũ Đình Liên - trên  
phương diện là nhà nghiên cứu - thì đối  
tượng mà ông quan tâm nhiều nhất là tác  
giả Nguyễn Đình Chiểu. Có thể nói, ông là  
một trong số ít chuyên gia hàng đầu về nhà  
thơ mù xứ Nam kì lục tỉnh. Chuyên luận  
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) cùng với  
phần viết về Nguyễn Đình Chiểu trong bộ  
Sơ thảo lịch sử văn nhọc Việt Nam - giai  
đoạn nửa cuối thế kỉ XIX là những cột mốc  
mới trong tiến trình lịch sử tiếp nhận thơ  
văn của Nguyễn Đình Chiểu. Với các công  
trình sưu tầm, chú thích về các sáng tác của  
Nguyễn Đình Chiểu, ông cùng các nhà  
nghiên cứu trong nhóm biên soạn đã tạo  
nên một mặt bằng tư liệu mới cho người  
đọc khi tiếp cận tác phẩm của cụ Đồ, để từ  
đó tạo ra những cách đọc ngày càng chính  
xác, đầy đủ, khách quan và toàn diện hơn  
trong hành trình đọc Nguyễn Đình Chiểu.  
Lịch sử tiếp nhận các sáng tác của Nguyễn  
Đình Chiểu đến đây đã chuyển sang một  
giai đoạn mới với việc tiếp thu và vận dụng  
những yêu cầu của một phương pháp biên  
soạn lịch sử văn học mới đặt trên cơ sở của  
những nguyên lí lí luận văn học mácxit,  
đồng thời cũng cho thấy có sự đáp ứng  
những đòi hỏi của công tác chính trị-tư  
tưởng của cuộc cách mạng ở miền Bắc và  
cuộc đấu tranh giải phóng ở miền Nam. Đó  
có thể nói là khuynh hướng chung và rõ  
ràng – rất là may mắn – lại chứng tỏ không  
chỉ phù hợp mà còn rất hửu hiệu đối với  
việc tiếp nhận các sáng tác chủ yếu của cụ  
Đồ.  
Để đáp ứng nhu cầu của đa số độc giả,  
những người không chuyên nghiên cứu văn  
học muốn có một cái nhìn tổng quan về  
tiến trình phát triển văn học Việt Nam cùng  
với những đặc điểm và tác giả, tác phẩm  
37  
ưu tú nhất của nó, Nhà xuất bản Khoa học  
xã hội đã cho ra mắt công trình Lịch sử  
văn học Việt Nam (sơ giản - 1961) do Văn  
Tân – Nguyễn Hồng Phong biên soạn.  
Công trình này do tính chất, mục đích riêng  
nên phần về Nguyễn Đình Chiểu (do Văn  
Tân phụ trách) chỉ được khảo sát ở giai  
đoạn nửa cuối thế kỉ 19, bộ phận văn học  
yêu nước bên cạnh tác giả Phan Văn Trị  
và các tác giả khác. Sau khi giới thiệu sơ  
lược về tiểu sử, cũng chỉ khảo sát trên bộ  
phận văn tế. Công trình này tuy có chỗ đại  
đồng tiểu dị nhưng có thể xem là phiên bản  
rút gọn của bộ Sơ thảo lịch sử văn học Việt  
Nam xuất bản trước đó.  
Một công trình văn học sử khác về giai  
đoạn văn học Việt Nam thế kỉ 19 là Giáo  
trình lịch sử văn học Việt Nam, tập IV,  
xuất bản năm 1962 do Phan Côn và Lê Trí  
Viễn biên soạn. Đề cập đến Nguyễn Đình  
Chiểu ở chương III, sau khi giới thiệu về  
thân thế sự nghiệp, nội dung thơ văn, người  
viết làm sáng tỏ tư tưởng yêu nước và lòng  
yêu dân thiết tha của Nguyễn Đình Chiểu.  
Các nhà nghiên cứu cho rằng ông có một  
cách nhìn mới mẻ về người nông dân, ca  
ngợi các lãnh tụ nghĩa quân và triệt để  
chống bọn tay sai chia cắt đất nước.  
Nhìn chung về tình hình tiếp nhận  
Nguyễn Đình Chiểu trong giai đoạn này có  
thể nhận thấy, chính nội dung của cuộc  
kháng chiến giải phóng dân tộc đã định  
hướng việc tiếp nhận những giá trị nội  
dung của văn chương cụ Đồ, mà tiêu biểu  
là việc khai thác và đề cao bộ phận thơ và  
văn tế, còn được gọi là thơ văn yêu nước  
chống Pháp.  
Một trong những tiểu luận nổi bật  
trong sách Nguyễn Đình Chiểu tấm gương  
yêu nước và lao động nghệ thuật Truyền  
thống quật cường của Nam Bộ Việt Nam  
với tinh thần đấu tranh của Nguyễn Đình  
Chiểu của Ca Văn Thỉnh. Tác giả bài viết  
đã khảo sát Nguyễn Đình Chiểu trong  
truyền thống lịch sử, văn hoá, văn học Nam  
bộ, và quan niệm Nguyễn Đình Chiểu là  
một nhà thơ chiến đấu vì nghĩa cả và tinh  
thần đấu tranh ấy bắt nguồn từ truyền  
thống quật cường của dân tộc, với sắc thái  
địa phương Nam Bộ (Ca Văn Thỉnh, 1973,  
trang 147). Tác giả tiểu luận là một nhà  
nghiên cứu có uy tín và là đồng hương với  
nhà thơ nên có sự am hiểu sâu sắc về con  
người, văn hoá và văn học địa phương này.  
Hơn nữa, nguồn tư liệu tác giả sử dụng là  
do con trai cụ Đồ - ông Nguyễn Đình  
Chiêm - cung cấp. Do vậy những luận  
điểm đưa ra trong bài viết này có một sức  
thuyết phục, trước nhất là ở giá trị tư liệu.  
Tình hình nghiên cứu về Nguyễn Đình  
Chiểu giai đoạn này đã được Vũ Đức Phúc  
nhận xét là vừa thừa quá lại vừa thiếu quá.  
 ng trình bày sơ lược về tình hình nghiên  
cứu về Nguyễn Đình Chiểu trong thời gian  
qua ở các bình diện tiểu sử, cuộc đời, quá  
trình sáng tác, văn bản, quá trình phát triển  
của tư tưởng và nghệ thuật và cho rằng  
việc nghiên cứu cho đến lúc này (1972) là  
thiên về tĩnh hơn là động. Các ý kiến trong  
bài viết này đã nhìn nhận thực trạng nghiên  
cứu Nguyễn Đình Chiểu trong thời gian  
qua và đề ra phương hướng cho thời gian  
tới, những ưu điểm sẽ được phát huy và  
nhược điểm đã được khắc phục mà kết quả  
có thể thấy rõ trong hội thảo sau đó 10 năm  
(1982) tại Bến Tre. Cho đến nay, nhiều  
phương diện mà Vũ Đức Phúc nêu ra đã  
được khắc phục nhưng trên bình diện  
nghiên cứu Nguyễn Đình Chiểu - nhà giáo  
vẫn chưa có chuyển biến gì so với 40 năm  
trước. Thực tế đó phản ánh khá rõ nét trong  
các công trình văn học sử giai đoạn này.  
Đó là một thực tế trong quá trình tiếp nhận  
Nguyễn Đình Chiểu cần phải thừa nhận và  
xem xét.  
Các kết quả nghiên cứu mà biểu hiện  
của nó là qua các công trình văn học sử ở  
miền Bắc giai đoạn này đã tiếp tục hoàn  
chỉnh một chân dung văn học Nguyễn Đình  
Chiểu. Tư tưởng nhân nghĩa nhân dân và  
lòng yêu nước thiết tha đau đáu của cụ Đồ  
đã tạo ra sự cảm thông và cộng hưởng giữa  
38  
nội dung nhân văn của tác phẩm và ý  
hướng chung của thời đại. Và chính bối  
cảnh thời đại đã tạo nên một mặt bằng văn  
hoá mới, một tầm đón nhận khác trước,  
quy định ý nghĩa và tư tưởng các sáng tác  
của Nguyễn Đình Chiểu - vốn tồn tại dưới  
dạng tiềm năng - trở thành những giá trị  
trong mối quan hệ với thực tiễn đời sống,  
tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho dân tộc  
vượt qua những chặng đường mới. Nói  
cách khác, quá trình tiếp nhận giai đoạn  
này diễn ra theo một quan hệ hai chiều  
thông điệp của tác phẩm tìm gặp thời đại  
của nó và chính thời đại ấy cũng làm sống  
lại những giá trị của quá khứ để tăng thêm  
sức mạnh cho cuộc kháng chiến chống Mỹ  
cứu nước và chiến tranh giải phóng dân tộc  
thống nhất đất nước. Sau ngày hoà bình lập  
lại, trên miền Bắc, hai câu thơ Bao giờ  
thánh đế ân soi xét/  ột trận mưa nhuần  
rửa núi sông sẽ được đọc hiểu theo một ý  
vị khác trước và sau 1975 thì ý vị này càng  
được đẩy đi xa hơn nữa theo chiều hướng  
viên mãn.  
Một đặc điểm chung của quá trình tiếp  
nhận Nguyễn Đình Chiểu trong giai đoạn  
1954-1975 tại miền Bắc xã hội chủ nghĩa  
có thể dễ dàng nhận thấy là phương hướng  
nghiên cứu khá thống nhất: phục vụ sự  
nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước  
trước mắt. Do vậy, có thể thấy trong các  
bình diện của Nguyễn Đình Chiểu thì bình  
diện nhà thơ chiến sĩ, nhà yêu nước được  
khẳng định với số lượng bài nghiên cứu áp  
đảo so với bình diện nhà thơ nghệ sĩ ngôn  
từ hay nhà giáo, lương y.  
chế, nhân vật và cả hoạt động nghiên cứu  
không chỉ về cụ Đồ.  
Di sản của Nguyễn Đình Chiểu được  
khai thác và tiếp cận theo tinh thần câu thơ  
của Tố Hữu: Bốn mươi thế kỉ c ng ra trận  
và phương hướng này cũng như phương  
pháp tiếp cận theo quan điểm mácxít mà cụ  
thể là phương pháp xã hội học mác xít  
ngày càng chặt chẽ và nhuần nhuyễn, thuần  
thục hơn.  
2.2. Nguyễn Đình Chiểu qua các công trình  
văn học sử tại miền Nam từ sau năm 1954  
đến ngày thống nhất đất nước  
Hà Như Chi trong Việt Nam thi văn  
giảng luận (1960) khi khảo sát văn học  
triều Nguyễn thế kỉ 19 - thuộc dòng văn  
chương vừa bác học vừa bình dân đã đề  
cập đến Nguyễn Đình Chiểu trên các bình  
diện nhà chí sĩ với các bài thơ điếu và văn  
tế, bên cạnh đó là nhà văn dạy đời và bênh  
vực cho luân lí cổ truyền với Lục Vân Tiên.  
Hà Như Chi quan niệm: “Nguyễn Đình  
Chiểu viết Lục Vân Tiên vừa làm cái công  
việc giáo hoá truyền bá tư tưởng nho học  
đang bị lu mờ dưới ảnh hưởng của thời thế,  
lại vừa gởi vào tác phẩm một tâm sự”  
[3,tr.676]. Tâm sự đó là xã hội Lục Vân  
Tiên cũng là xã hội Nguyễn Đình Chiểu;  
nhân vật Lục Vân Tiên mang tâm sự  
Nguyễn Đình Chiểu. Ngoài nhân vật chính  
còn có nhân vật phụ mang tâm sự của cụ  
Đồ, đó là Vương Tử Trực, Hớn Minh và  
ông quán.  
Đáng chú ý nhất ở giai đoạn này là hai  
công trình văn học sử của Phạm Thế Ngũ  
và Thanh Lãng.  
Một đặc điểm khác thường thấy xuất  
hiện - có thể gọi là tập quán khoa học,  
trong các bài viết – công trình xuất bản ở  
miền Bắc giai đoạn 1954-1975 (kể cả các  
nghiên cứu của học giả nước ngoài công bố  
trong nước tại thời điểm này) là cuối bài  
thường có liên hệ thực tiễn và phê phán với  
cảm hứng không khoan nhượng đối với chế  
độ Việt Nam cộng hoà trên các mặt thể  
Việt Nam văn học sử giản ước tân biên  
của Phạm Thế Ngũ gồm 3 tập được xuất  
bản trong những năm từ 1961-1965. Tuy  
sử dụng cột mốc 1862 để phân chia văn  
học lịch triều và văn học hiện đại nhưng  
cách phân kì văn học của Phạm Thế Ngũ là  
lịch triều (triều đại) như: thời kì sơ khởi  
Trần Lê, thời kì phát triển Mạc Tây Sơn,  
thời kì thịnh đạt triều Nguyễn; và ngôn  
ngữ, thể loại như tiếng Việt, văn Nôm. Có  
39  
thể thấy rõ là cách phân kì này là kết hợp  
dựa vào tiêu chí triều đại và ngôn ngữ, thể  
loại nhưng thiên về vế sau hơn. Phạm Thế  
Ngũ khảo sát Nguyễn Đình Chiểu ở thời  
Nguyễn, mục các nhà văn Nôm. Theo  
Phạm Thế Ngũ, văn nghiệp của Nguyễn  
Đình Chiểu có thể chia làm hai phần: trước  
và sau cơn quốc biến. Trước quốc biến  
gồm có Lục Vân Tiên Dương Từ - Hà  
 u, sau quốc biến có thơ và văn tế. Ở  
công trình này, Phạm Thế Ngũ chỉ khảo sát  
phần trước quốc biến và cũng chỉ khảo sát  
mỗi truyện thơ Lục Vân Tiên và các nhận  
xét về truyện thơ này cũng không có gì  
khác với người đi trước cũng như người  
cùng thời, vẫn là phương pháp thực chứng,  
tiểu sử tác giả. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu  
này không đánh giá cao phần sáng tác sau  
1858, tuy có đề cập bộ phận thơ và văn tế  
nhưng hết sức sơ lược vì “…phần thơ văn  
này không quan trọng là bao… Nguyễn  
Đình Chiểu có sống trong văn học sử sau  
này cũng chỉ là với tư cách cha đẻ Lục Vân  
Tiên” [18,tr.602]. Chúng tôi cho rằng nhận  
định trên đây là không thoả đáng và khách  
quan. Các sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu  
sau năm 1858 là những giá trị đỉnh cao của  
dòng thơ văn yêu nước cuối thế kỉ 19 và  
điều này đã được sự đồng thuận của giới  
nghiên cứu lâu nay.  
Trong đời sống nghiên cứu phê bình  
văn học tại các đô thị miền Nam trước năm  
1975 thì Thanh Lãng với Khởi thảo văn  
học sử Việt Nam - Văn chương chữ Nôm  
(1953), Biểu nhất lãm văn học cận đại  
1862-1945, tập I (1958), Bảng lược đồ văn  
học Việt Nam (thượng - hạ 1967) là những  
công trình văn học sử có tiếng vang và có  
giá trị trong sự nghiệp của nhà nghiên cứu  
này. Trong Bảng lược đồ văn học Việt  
Nam, Thanh Lãng đã phân kì văn học theo  
thế hệ. Văn học Việt Nam theo quan niệm  
của ông gồm hai thời kì lớn: thời đại cổ  
điển, từ thế kỉ 13 đến giữa thế kỉ 19 và thời  
đại mới từ 1862 đến 1945. Theo quan niệm  
này thì Nguyễn Đình Chiểu có mặt cả ở hai  
thời đại: cổ điển mới. Và từ cách phân  
chia này, Thanh Lãng đã khảo sát tác giả  
Nguyễn Đình Chiểu ở hai thế hệ 1820 và  
1862; Nguyễn Đình Chiểu ở thế hệ 1820  
được nhìn nhận qua các tác phẩm như Lục  
Vân Tiên, Ngư Tiều vấn đáp, còn Nguyễn  
Đình Chiểu ở thế hệ 1862 là các bài thơ và  
văn tế, Thanh Lãng định danh Nguyễn  
Đình Chiểu thuộc văn chương thời thế, nhà  
văn đối kháng và còn là nhà đối kháng toàn  
diện. Khi khảo sát di sản văn chương  
Nguyễn Đình Chiểu, trong nhà nghiên cứu  
Thanh Lãng còn có một giáo dân, hơn nữa  
còn là một linh mục nên ông ít nhắc đến  
tác phẩm Dương Từ -  ậu và ông viết:  
“…  ng tàn ác với phe địch, lắm khi bất  
công nữa. Đây là thái độ của Nguyễn Đình  
Chiểu đối với công giáo: Dân mà mê đạo  
Tây rồi/ Nước người muốn lấy mấy hồi  
phòng lo… Có lẽ trong số các nhà văn  
kháng chiến, không ai có cái giọng cứng  
rắn, hậm hực, tàn ác đối với thực dân cho  
bằng Nguyễn Đình Chiểu” [19,tr.66]. Kết  
luận về tác giả này, ông viết như sau:  
“Nguyễn Đình Chiểu là nhà văn đối kháng  
điển hình nhất của thời kì đối kháng toàn  
diện này. Đó là kết tinh của một lối sống,  
lối tư tưởng, lối hành động một chiều”  
[19,tr.72]. Đóng góp của Thanh Lãng trong  
phương pháp biên soạn văn học sử Việt  
Nam là ở công trình này.  
Nhìn chung, dưới cái nhìn của Phạm  
Thế Ngũ và Thanh Lãng thì Nguyễn Đình  
Chiểu đã có một vị trí ổn định trong văn  
học sử Việt Nam thế kỉ XIX, dù cả hai nhà  
nghiên cứu này đều chịu ảnh hưởng các  
phương pháp nghiên cứu khoa học phương  
Tây – chủ yếu là các nhà văn học sử Pháp.  
Ở Thanh Lãng có dấu hiệu cho thấy ông đi  
xa hơn so với Phạm Thế Ngũ khi trong  
Bảng lược đồ văn học Việt Nam đã thấy sự  
ảnh hưởng của các trường phái lí thuyết  
mới như chủ nghĩa cấu trúc, lí thuyết tiếp  
nhận, văn học so sánh (như Lê Quang Tư  
đã từng chỉ ra). Hai công trình này là khá  
tiêu biểu và nổi bật nhất trong các công  
40  
trình văn học sử xuất bản ở miền Nam giai  
đoạn này có đề cập đến Nguyễn Đình  
Chiểu như một đối tượng nghiên cứu. Vì  
đây là các công trình cá nhân nên không có  
được quy mô và bề thế như các công trình  
văn học sử được biên soạn ở miền Bắc  
trong cùng thời điểm nhưng bù lại, các  
công trình văn học sử ở miền Nam có sự đa  
dạng về quan điểm đánh giá cũng như  
phong phú về phương pháp tiếp cận. Dù  
rằng trong việc nhận xét, đánh giá di sản  
văn chương cụ Đồ vẫn còn thiên lệch và  
phiến diện nhưng so với miền Bắc thì vẫn  
có khác và mới do bị quy định bởi một tầm  
đón nhận khác biệt. Cái mới và khác này là  
do thể chế chính trị của mỗi miền có sự  
khác nhau cũng như do quan điểm và  
nguồn gốc đào tạo và tự đào tạo của những  
người viết văn học sử giai đoạn này. Điều  
này có thể nhận ra một cách rõ rệt không  
chỉ ở việc bỏ qua không nghiên cứu các  
sáng tác có nội dung yêu nước chống Pháp  
của Nguyễn Đình Chiểu, những sáng tác  
mà các nhà nghiên cứu ở miền Bắc đặc biệt  
quan tâm, mà còn qua sự đánh giá trên tinh  
thần phê phán của họ đối với các sáng tác  
này. Ở miền Nam thời bấy giờ các nhà  
nghiên cứu văn học được tự do tiếp thu và  
vận dụng các phương pháp lí luận và  
nghiên cứu văn học hiện đại ở phương Tây,  
nhưng rõ ràng họ hoặc là không chấp nhận  
hoặc là e ngại đề cập nhiều đến những gì  
có liên quan đến kháng chiến, đến chống  
thực dân trong tình hình chính trị ở các đô  
thị miền Nam lúc bấy giờ. Ở đây chúng ta  
thấy được sự khác biệt về kết qua tiếp nhận  
thơ văn Nguyễn Đình Chiểu ở hai miền  
Nam, Bắc vào thời kì 1954-1975 và trong  
tầm đón đợi của họ có một yếu tố chi phối  
rất mạnh mà chúng tôi đã nói đến ở trên.  
Văn học sử thời kháng Pháp (1858-  
bất cộng tác. Các tác phẩm của Nguyễn  
Đình Chiểu được tác giả sách này quan  
niệm là tiếng nói của đạo lí. Lê Văn Siêu  
chỉ khảo sát các truyện thơ và đánh giá cao  
Ngư Tiều y thuật vấn đáp chủ yếu trên  
phương diện trí nhớ của cụ Đồ. Nhìn  
chung, công trình này trình bày đại khái và  
sơ lược về nội dung các tác phẩm, về  
phương pháp tiếp cận vẫn là lối biên niên  
tập hợp các sự kiện văn học không đem lại  
gì mới trong việc nghiên cứu về Nguyễn  
Đình Chiểu.  
Đặc điểm xuyên suốt của quá trình tiếp  
nhận Nguyễn Đình Chiểu ở cả hai miền  
Nam - Bắc trong giai đoạn này là nếu miền  
Nam là quê hương cụ Đồ nhưng việc sưu  
tầm, đánh giá có trách nhiệm và công phu  
về con người và tác phẩm Nguyễn Đình  
Chiểu lại thuộc giới nghiên cứu miền Bắc  
thuộc chính thể Việt Nam dân chủ cộng  
hoà. Bên cạnh đó, con người và tác phẩm  
của Nguyễn Đình Chiểu thường được miền  
Bắc đánh giá cao tinh thần yêu nước và  
nhập cuộc, nói khác đi là nhìn nhận thiên  
về con người chức năng. Trong khi đó,  
miền Nam tuy cũng nói đến các nội dung  
trên nhưng lại khai thác một Nguyễn Đình  
Chiểu ẩn dật và yếm thế và thường dựa vào  
các tác phẩm cuối đời. Phê bình Nguyễn  
Đình Chiểu bị chia làm nhiều khuynh  
hướng, bên cạnh những cách giải thích  
thiên lệch, phiến diện cũng tồn tại những  
cách giải thích phù hợp.  
3. NGUYỄN ĐÌNH CHI U TỪ ĐI M NHÌN  
VĂN HỌC SỬ TỪ 1975 ĐẾN NAY  
Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX  
của nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc in lần đầu  
năm 1971, tái bản năm 1976, 1992, và đến  
năm 1999 gộp lại thành Văn học Việt Nam  
nửa cuối thế kỉ XVIII - hết thế kỉ XIX) vẫn  
chia sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình  
Chiểu làm hai giai đoạn: trước và sau ngày  
Pháp đánh Nam bộ và tương ứng với nó là  
Lục Vân Tiên và thơ văn yêu nước. Với tác  
phẩm Lục Vân Tiên, tác giả cho rằng nó đề  
cao nhân nghĩa và truyện này viết ra là để  
1945) (1974) của Lê Văn Siêu có lẽ là một  
trong những công trình cuối cùng của miền  
Nam trước khi giang sơn thu về một mối.  
Nguyễn Đình Chiểu thuộc về thời kì đầu  
của sách: Thời kì xâm lăng thuộc xu hướng  
41  
kể hơn là ngâm. Đồng thời, truyện kế thừa  
truyền thống nói vè của dân gian, ảnh  
hưởng mạnh của truyện Nôm bình dân hơn  
là truyện Nôm bác học. “Trong thơ văn yêu  
nước của Nguyễn Đình Chiểu, lần đầu tiên  
người nông dân đi vào văn học một cách cụ  
thể với tư cách người anh hùng chống xâm  
lược” [13,tr.653]. Nguyễn Lộc cũng cho  
rằng thơ văn yêu nước đã trải qua một  
chặng đường phát triển từ tin tưởng hi  
vọng sang bi quan thất vọng. Tư tưởng bi  
quan, thiếu tin tưởng của ông không những  
thể hiện trong hình tượng, mà cả trong  
nhận thức duy lí [13,tr.658-660]. Nhận  
định tổng quát của công trình này là  
Nguyễn Đình Chiểu là “người mở đầu cho  
văn học nửa cuối thế kỉ XIX, là nhà thơ  
tiêu biểu nhất cho dòng văn học yêu nước  
chống Pháp” [13,tr.634]. Trong một chừng  
mực nhất định, công trình này đã trình bày  
về quá trình tiếp nhận Nguyễn Đình Chiểu,  
dù là bước đầu và cũng chỉ là tiếp nhận  
trên bình diện nghiên cứu nhưng đây là  
điểm mới so với các công trình văn học sử  
khác không chỉ trong giai đoạn này. Phần  
viết về Nguyễn Đình Chiểu được xem như  
là sự tổng kết thành tựu của quá trình  
nghiên cứu trước đó và mở ra một hướng  
đi mới. Một điều cần nói về công trình này  
là giáo trình dành cho sinh viên khoa Ngữ  
văn các trường Tổng hợp nên cách trình  
bày cũng có khác với sách của Sư phạm.  
Mục đích là đào tạo cán bộ nghiên cứu nên  
giáo trình này đề cập đến những vấn đề còn  
tranh cãi như thời điểm sáng tác các tác  
phẩm cụ thể, nguồn gốc truyện Tây Minh,  
sự vận động của tư tưởng Nguyễn Đình  
Chiểu từ Lục Vân Tiên đến Ngư Tiều y  
thuật vấn đáp cũng như trình bày cả một  
bình diện của lịch sử tiếp nhận Nguyễn  
Đình Chiểu. Trong khi đó, giáo trình của  
sư phạm chỉ trình bày những gì đã thống  
nhất và đồng thuận về di sản của cụ Đồ.  
Sau này, tại hội thảo về Nguyễn Đình  
sắc của Nguyễn Đình Chiểu trong lịch sử  
văn học dân tộc. Bài viết tiếp tục khẳng  
định lại những gì đã viết trước đây trong  
Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX như  
toàn bộ sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu  
đều bằng chữ Nôm, Nguyễn Đình Chiểu  
không chỉ là tác giả tiêu biểu cho văn học  
Nam Bộ mà còn tiêu biểu cho một giai  
đoạn phát triển của lịch sử văn học dân tộc;  
người nông dân trong thơ văn yêu nước  
chống Pháp được thể hiện như những anh  
hùng dân tộc; Lục Vân Tiên là để kể chứ  
không phải để ngâm như Kiều, ở Nam bộ  
gọi là nói Lục Vân Tiên. Nguyễn Đình  
Chiểu là người đề cao đạo Nho nhưng lại là  
ngọn cờ đầu chống Pháp vì ông nhấn mạnh  
nhân nghĩa và sáng tác nó có nội dung đạo  
đức nhân dân rõ nét. Cái mới của bài viết là  
ở luận điểm ảnh hưởng của nhà văn với  
thời đại và các thế hệ tiếp theo là không chỉ  
ở tác phẩm mà còn là cuộc đời, nhân cách  
và Nguyễn Đình Chiểu chính là người  
trong số ít đó.  
Ngoài ra, chúng tôi đặc biệt lưu ý đến  
công trình Nguyễn Đình Chiểu ngôi sao  
càng nhìn càng sáng (1982, tái bản 2002).  
Có thể xem đây là sự tổng kết thành quả  
nghiên cứu về Nguyễn Đình Chiểu của nhà  
nghiên cứu Lê Trí Viễn. Trước đó, năm  
1962, cùng với Phan Côn, ông đã chấp bút  
chương về Nguyễn Đình Chiểu trong Lịch  
sử văn học Việt Nam, Tập 4a, 1858 - đầu  
thế kỉ XX, khảo sát qua thân thế và sự  
nghiệp, nội dung và tư tưởng thơ văn  
Nguyễn Đình Chiểu, nêu bật lên tư tưởng  
nhân nghĩa và lòng yêu dân thiết tha. Các  
tác giả này chứng minh Nguyễn Đình  
Chiểu đã có một cái nhìn mới mẻ về người  
nông dân, hết sức ca ngợi các lãnh tụ nghĩa  
quân và triệt để chống bọn tay sai chia cắt  
đất nước. Sau khi chỉ ra những đóng góp  
của cụ Đồ, các tác giả kết luận về vị trí của  
Nguyễn Đình Chiểu trong văn học: “…  
chiếm vị trí hàng đầu trong văn học dân tộc  
ở giai đoạn lịch sử này” [6,tr.218]. Theo  
chúng tôi, cái mới nhất của công trình này  
Chiểu năm 1982, Nguyễn Lộc đã trở lại  
vấn đề trên với bài Những cống hiến đặc  
42  
là ở đoạn sau: “Phương pháp nghiên cứu  
lâu nay mới quan tâm đến khâu cuộc sống -  
tác giả - tác phẩm, còn khâu tác phẩm cuộc  
sống chỉ mới đề cập qua. Trong vòng đời  
một áng văn, đó là một giai đoạn có lẽ  
quan trọng bậc nhất, lí do tồn tại của nó là  
ở đấy, nó đóng góp được gì cho cuộc sống  
là ở đấy” [6,tr.211]. Đây là một quan điểm  
khá mới trong góc nhìn văn học sử về  
Nguyễn Đình Chiểu.  ng yêu cầu, đề xuất  
nhìn nhận sáng tác của nhà thơ này trong  
số phận lịch sử của nó. Nó mới so với  
những người cùng thời đã đành mà còn là  
một nỗ lực với chính những gì đã viết về  
Nguyễn Đình Chiểu trước đó trong Lịch sử  
văn học Việt Nam, Tập 4a, in lần đầu năm  
1962, sau năm 1975 vẫn được tái bản và sử  
dụng trong các trường Sư phạm. Bên cạnh  
một giọng văn mượt mà đầy cảm xúc và  
cảm thụ khá tinh tế về văn chương Nguyễn  
Đình Chiểu thì ở điểm vừa trình bày còn  
cho thấy nhà nghiên cứu ông - qua công  
trình này khá nhạy bén với lối tiếp cận tác  
phẩm từ phía người đọc, hay nói cách khác  
là phải có cả lịch sử những cách đọc và số  
phận tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu qua  
những cách đọc đó.  
Nhìn Nguyễn Đình Chiểu theo hướng  
văn học sử còn có thể kể đến ý kiến của  
Trịnh Thu Tiết trong việc khẳng định Vị trí  
Nguyễn Đình Chiểu trong văn học cận đại  
Nam Bộ, qua các bình diện được khảo sát  
là ngôn ngữ, tính hiện thực, nhân vật và  
tính cách nhân vật và sự ảnh hưởng của nó,  
nhất là hình tượng người nông dân trong  
Văn tế nghĩa dân chết trận Cần Giuộc: “…  
là một bước phát triển đột xuất, một thành  
tựu vượt bậc, không chỉ riêng thơ văn  
Nguyễn Đình Chiểu, của riêng văn học  
Nam bộ mà của cả văn học dân tộc nói  
chung” (Trịnh Thu Tiết, 1982, trang 219).  
Các ý kiến này đã được tái khẳng định  
trong mục từ Nguyễn Đình Chiểu trong Từ  
điển tác giả tác phẩm văn học Việt Nam  
d ng cho nhà trường 2004.  
Cùng một hướng tiếp cận nhưng Lê  
Ngọc Trà chỉ ra sự đóng góp của Nguyễn  
Đình Chiểu trong sự vận động của văn  
chương Việt Nam cận đại; lập trường của  
Nguyễn Đình Chiểu từ thiên về đạo đức  
chuyển hẳn sang chính trị yêu nước, gắn  
yêu nước với thương dân, từ quan niệm về  
dân chung chung đến quan niệm cụ thể là  
nhân dân lao động, từ người anh hùng quân  
tử đến người anh hùng nông dân, từ phi  
thường chuyển sang bình thường: “Ý thức  
nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu đã phát  
triển một bước quan trọng” (Lê Ngọc  
Trà,1982, trang 368). Đề cập đến tính cụ  
thể của ngôn ngữ nghệ thuật trong các tác  
phẩm Nguyễn Đình Chiểu, bài viết cho  
rằng đây là sự gặp gỡ của hai xu hướng  
dòng văn hoá dân gian đang vươn lên tiếp  
cận với văn chương chuyên nghiệp và dòng  
văn chương chuyên nghiệp đang trở về gắn  
bó với dân gian, với đời sống; Nguyễn  
Đình Chiểu là một kiểu nhà thơ - chiến sĩ  
và sáng tác của ông mang tính chất của một  
hiện tượng chuyển tiếp.  
Như vậy có thể nhận thấy là từ sau  
ngày thống nhất đất nước, với sự sụp đổ  
của thể chế Việt Nam cộng hòa thì hệ  
thống học thuật ở đây cũng cùng chung số  
phận. Việc các bộ giáo trình lịch sử văn  
học Việt Nam của miền Bắc trước đây  
được tái bản, bổ sung và phổ biến trên  
phạm vi cả nước đã cho thấy sự thống nhất  
về phương pháp xã hội học mácxít trong  
quá trình nghiên cứu lịch sử văn học. Các  
công trình này đã góp phần tạo nên và quy  
định một tầm đón nhận mới cho công  
chúng vào thời điểm những năm 1975-  
1986. Một đặc điểm khác cũng góp phần  
quy định tầm đón nhận này là các nhà văn  
học sử ở Việt Nam phần lớn là nhà giáo  
nên các công trình do họ biên soạn bị quy  
định bởi mục đích và đối tượng giảng dạy -  
mà tiêu biểu và đầu tiên là Dương Quảng  
Hàm với Việt Nam văn học sử yếu. Nhưng  
cũng chính ở điểm này, sức lan tỏa của các  
luận điểm và ý tưởng khoa học lại có cơ  
43  
hội phổ biến hơn so với các bộ văn học sử  
thiên về hàn lâm phục vụ một số ít các nhà  
nghiên cứu.  
Chiểu trong cái nhìn so sánh và hệ thống  
của văn học chống chủ nghĩa thực dân,  
chống chủ nghĩa đế quốc thì ông sẽ được  
ghi nhận như một tên tuổi có nhiều cống  
hiến. Tiểu luận cũng thẳng thắn chỉ ra về lí  
tưởng thẩm mỹ qua thái độ của Nguyễn  
Đình Chiểu với văn chương là không có gì  
mới lạ so với những nhà nho cùng thời và  
trước ông. Trần Ngọc Vương cũng cho  
rằng Dương Từ -  ậu là tác phẩm xếp  
vào hàng yếu kém, ít có giá trị về mọi mặt  
(trang 288). Bài viết này được viết ra nhân  
dịp 100 năm ngày mất cụ Đồ (1988) nhưng  
đến năm 1992 mới công bố rút gọn trên  
Tạp chí Văn học và in toàn văn trong Văn  
học Việt Nam d ng riêng giữa nguồn  
chung (1997). Cũng như Trần Đình Hượu,  
bài viết của Trần Ngọc Vương đã thể hiện  
tầm mức chiến lược trong tư tưởng, trong  
cách nhìn và đặt vấn đề như Trần Nho Thìn  
(2001) đã có lần nhận xét.  
Bài viết Những đặc điểm mang tính  
quy luật của sự phát triển văn học nhìn  
nhận qua sáng tác của một tác giả của nhà  
nghiên cứu Trần Ngọc Vương sau khi  
trình bày khái quát về những hạn chế của  
quá trình nghiên cứu Nguyễn Đình Chiểu  
thời gian qua, cho rằng đã đến lúc phải đặt  
ông trong tiến trình phát triển văn học dân  
tộc, xác định mối quan hệ giữa cuộc đời và  
tác phẩm với những gì xảy ra trước và sau  
đó, phải sử dụng những tiêu chí đặc trưng  
của văn học để phân tích lí giải, xét đoán  
về ông với tư cách tác giả văn học, chứ  
không phải như một chiến sĩ ái quốc lấy  
ngòi bút làm vũ khí, lấy văn học làm trận  
địa (Trần Ngọc Vương, 1999, trang 285).  
Tác giả nêu lên những đóng góp quan trọng  
của Nguyễn Đình Chiểu về hệ thống chủ  
đề đề tài, hình tượng văn học cơ bản, thể  
loại trong quá trình phát triển văn học Nam  
Bộ và văn học dân tộc. Theo Trần Ngọc  
Vương thì chủ đề quán xuyến toàn bộ sáng  
tác Nguyễn Đình Chiểu là chủ đề bảo vệ và  
thực hành Nho giáo. Nguyễn Đình Chiểu  
chú ý đến những con người bình thường và  
đó là bước đột biến trong sự phát triển của  
văn học dân tộc: “  ng trở thành người mở  
đầu cho trào lưu văn học chống ngoại  
xâm, giành độc lập dân tộc, nhân danh toàn  
bộ dân tộc chứ không nhân danh một bộ  
phận, một thiểu số nào” [20.tr.292]. Hình  
tượng văn học cơ bản của Nguyễn Đình  
Chiểu là mẫu người trung nghĩa kết hợp  
với mẫu người anh hung. Với việc sáng tác  
ra hình tượng người anh hùng vô danh đại  
diện cho dân tộc, ông lại là người mở đầu  
và đứng ở vị trí tiên phong của trào lưu văn  
học chống ngoại xâm. Hệ thống thể loại mà  
Nguyễn Đình Chiểu có đóng góp là truyện  
Nôm và văn tế. Đây là bài viết có nhiều  
luận điểm và ý tưởng mới, sử dụng triệt để  
và nhất quán phương pháp loại hình và hệ  
thống như khi giả thuyết đặt Nguyễn Đình  
Gần đây, Nguyễn.Q.Thắng trở lại với  
Nguyễn Đình Chiểu qua bộ Văn học Việt  
Nam nơi miền đất mới (4 tập, 2007-2008).  
Nhà nghiên cứu xếp các tác giả theo tiêu  
chí biên niên, không theo chủ đề hoặc  
khuynh hướng sáng tác. Sách mở đầu với  
tác giả Dương Văn An ở Tập 1 và kết thúc  
với Từ Kế Tường Tập 4. Bộ sách xếp  
Nguyễn Đình Chiểu vào Tập 1, chương IV.  
Các danh gia thời tao loạn, với tiêu đề  
Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ thất minh Nam  
. Công trình đề cập về Nguyễn Đình  
Chiểu hết sức sơ lược, giới thiệu về con  
người và cuộc đời qua một tiểu truyện và  
trích dẫn bài thơ Chạy giặc (Tây) và 2 bài  
Văn tế nghĩa dân chết trận Cần Giuộc, Tế  
lục tỉnh sĩ dân trận vong văn. Công trình  
này là sự mở rộng và bổ sung Tiến trình  
văn nghệ miền Nam (1990-1998) của chính  
tác giả trước đó. Theo những tiêu chí  
nghiêm ngặt thì công trình này chưa thể gọi  
là một bộ văn học sử mà chỉ là một số tư  
liệu về văn học sử miền Nam mà thôi.  
Cùng một hướng này còn có Lược khảo  
44  
lịch sử văn học Việt Nam từ khởi thủy đến  
cuối thế kỉ 20 (2005) của Bùi Đức Tịnh.  
Một số công trình văn học sử về văn  
học Việt Nam cuối thế kỉ XIX hay toàn bộ  
tiến trình văn học Việt Nam xuất bản trong  
giai đoạn này của các tác giả Nguyễn  
Phong Nam (1998), Nguyễn Phạm Hùng  
(1999) đều đánh giá về văn nghiệp và cuộc  
đời Nguyễn Đình Chiểu tương đối thống  
nhất và đồng thuận. Những chủ thể này đã  
bộc lộ thiên hướng và tài năng cá nhân với  
những sắc thái khác biệt. Nếu Nguyễn  
Phong Nam nhìn thiên về thi pháp thì  
Nguyễn Phạm Hùng lại nhìn từ thể loại.  
Chính sự đa dạng về cách tiếp cận này lại  
làm phong phú thêm lịch sử tiếp nhận  
Nguyễn Đình Chiểu nhất là từ góc nhìn  
lịch sử văn học.  
Nhà Việt Nam học người Nga  
N.I.Nikulin trong hai công trình Văn học  
Việt Nam (sơ thảo) (1970) và Văn học Việt  
Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX (1976) đã  
đề cập đến Nguyễn Đình Chiểu như một  
tác giả tiêu biểu của văn học yêu nước nửa  
cuối thế kỉ XIX. Hai công trình này mãi  
đến 2007 mới được dịch và công bố rộng  
rãi tại Việt Nam. Đối với các nhà nghiên  
cứu nước ngoài như trường hợp này thì  
nghiên cứu Nguyễn Đình Chiểu là để tiếp  
cận vào nền văn hoá văn học Việt Nam,  
hiểu về sức mạnh của dân tộc Việt Nam.  
Riêng Văn học miền Nam lục tỉnh của  
Nguyễn Văn Hầu cho đến 2012 in được 3  
cuốn và vẫn còn tiếp tục. Nguyễn Đình  
Chiểu thuộc phạm vi khảo sát của tập ba  
Văn học Hán Nôm thời kháng Pháp và  
thuộc Pháp, được nghiên cứu các mục: tiểu  
sử, tác phẩm, văn chương, nhận xét và trích  
tuyển thơ văn. Bộ sách này đánh giá khá  
cao con người và văn chương cụ Đồ.  ng  
cho rằng: “Nhận xét văn chương Nguyễn  
Đình Chiểu nếu chỉ dựa vào Lục Vân Tiên,  
Dương Từ -  ậu, Ngư Tiều y thuật vấn  
đáp thì quả là một thiếu sót lớn nếu không  
nói là đắc tội: tội nhìn ông phiến diện. Văn  
chương ông tuôn trào mãnh liệt qua những  
nhiệt hứng ùn ục trong lòng, phải nói rằng  
nó nằm trong những bài văn tế và trong  
những bài thơ luật sái lụy anh h ng của  
ông” [16,tr.95-96]. Nhà nghiên cứu này  
khẳng định bộ phận thơ văn yêu nước mà  
ông gọi là văn chương đối kháng “đã biểu  
lộ một tài năng xuất sắc với hết cả hai mặt  
là bố cục lẫn tu từ” [16,tr.97]. Về sắc thái  
địa phương trong văn chương cũng như sự  
yêu thích của độc giả mọi tầng lớp nhân  
dân dành cho cụ Đồ, nhà nghiên cứu nhận  
xét như sau: “Tác giả là người Nam kì, tất  
nhiên bản chất văn chương được xây dựng  
trên căn gốc đó. Từ cảnh vật, cảm tình, lời  
lẽ, tác giả đều mượn, nghĩ và nói trên cung  
cách miền Nam” [16,tr.100]. Nguyễn Văn  
Hầu nhận xét về tính chất địa phương đặc  
trưng trong văn chương cụ Đồ và đến lượt  
mình, cách dùng từ và giọng văn nghiên  
cứu của ông vẫn bị quy định bởi sắc thái  
này. Mức độ cập nhật tư liệu dùng làm cơ  
sở nghiên cứu trong bộ sách này nói chung  
và phần tư liệu về Nguyễn Đình Chiểu  
trong Tập ba nói riêng đều dừng lại ở trước  
1975, nhưng những tư liệu đưa ra là chính  
xác và khách quan nên có sức thuyết phục.  
Bên cạnh đó, về quan niệm biên soạn,  
phương pháp trình bày, quan niệm về văn  
học và văn học sử là có chung cái nhìn với  
các nhà văn học sử miền Nam trước đây  
như Thanh Lãng, Phạm Thế Ngũ. Đó là  
công trình bao quát từ văn học dân gian  
đến hiện đại nhưng do cá nhân thực hiện và  
chịu ảnh hưởng của các phương pháp  
nghiên cứu phương Tây như chú trọng đến  
văn bản, sử dụng phương pháp thực chứng.  
Biên soạn và đánh giá về tác giả và tác  
phẩm Nguyễn Đình Chiểu nói riêng và các  
tác giả khác của Nguyễn Văn Hầu trong  
Văn học Nam kì lục tỉnh là có nét khác biệt  
so với các bộ văn học sử do miền Bắc tiến  
hành trước đây và cả gần đây. Điểm khác  
là mở rộng phạm vi khảo sát- đánh giá  
sang các tác giả mà trước đây vẫn còn bị  
nghi kị và dè dặt như Tôn Thọ Tường,  
Phan Thanh Giản.  
45  
Quá trình tiếp nhận Nguyễn Đình  
Chiểu sau năm 1975 còn do sự thuận lợi  
của việc tiếp cận tư liệu về nhà thơ cũng  
như sự trưởng thành và không ngừng lớn  
mạnh của đội ngũ các nhà khoa học thuộc  
lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn,  
trong đó phương pháp liên ngành được áp  
dụng và mang lại những thành công nhất  
định đã tạo nên một mặt bằng mới cho các  
phương hướng tiếp cận di sản Nguyễn  
Đình Chiểu. Thành tựu từ các khoa học lân  
cận như khoa học lịch sử đã làm sáng tỏ  
một vài phương diện liên quan đến cuộc  
đời nhà thơ như Nguyễn Đình Chiểu ra  
Huế thi Hương hay thi Hội, Nguyễn Thị  
Chân Quỳnh đã có câu trả lời chính xác là  
thi Hội (xem thêm Lối xưa xe ngựa, 1995)  
hay những nghiên cứu về lịch sử tư tưởng  
của Cao Tự Thanh qua công trình Nho giáo  
ở Gia Định (1988, 1996, 2010) qua cứ liệu  
tác phẩm Lục Vân Tiên đã phát hiện ra một  
kiểu nhà nho thương nghiệp qua hình  
tượng ông Quán; hay về nhân vật lịch sử  
Trương Định đã được minh xác qua sách  
Khởi nghĩa Trương Định của hai tác giả  
Nguyễn Phan Quang và Lê Hữu Phước  
2001… đã và sẽ làm những tư liệu khả tín  
cho những công trình văn học sử về văn  
học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỉ  
XIX đang và sẽ tiến hành trong một tương  
lai gần. Cần nói rõ hơn là bối cảnh xã hội  
học thuật có nhiều thay đổi cũng đã tác  
động nhiều đến tầm đón nhận của người  
đọc giai đoạn này. Nếu như trước kia, hệ  
thống nhân vật phản diện trong Lục Vân  
Tiên mà một trong những nhân vật tiêu  
biểu là Võ Thể Loan được Ái Lan chiêu  
tuyết gặp phải phản ứng thì giờ đây, cũng  
trên tinh thần ấy, Bùi Văn Tiếng đã có cái  
nhìn mới, cảm thông sâu sắc hơn về nhân  
vật Bùi Kiệm nhưng lại không gặp phản  
ứng gì thái quá từ phía những người đọc  
khác về cách đọc này.  
Có thể sơ bộ nhận xét rằng trong lịch  
trình nghiên cứu về Nguyễn Đình Chiểu thì  
giai đoạn sau 1975 là có nhiều thành tựu  
nhất từ tư liệu cho đến đội ngũ các nhà  
nghiên cứu và liền kề là sự phong phú của  
các phương pháp tiếp cận. Từ sau ngày  
thống nhất đất nước, việc nghiên cứu, phê  
bình tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu có  
những thay đổi lớn do những thuận lợi  
trong việc tiếp cận, sưu tầm tác phẩm và  
tập hợp tư liệu. Sau năm 1986, thành tựu  
của khoa học văn học được du nhập và vận  
dụng phổ biến đem lại những cái nhìn mới  
và góp thêm những tiếng nói phong phú, đa  
dạng về những di sản mà cụ Đồ để lại.  
Nhìn Nguyễn Đình Chiểu từ góc nhìn văn  
học sử cho thấy quá trình phát triển của bộ  
môn này và vị trí của nó trong tiến trình ấy,  
mà tiêu biểu là công trình của Nguyễn Lộc  
đã bước đầu nhìn Nguyễn Đình Chiểu từ  
góc nhìn của lịch sử tiếp nhận dù chỉ là  
bước đầu. Từ những thành tựu đã đạt được  
cho phép nghĩ rằng trong tương lai gần khi  
có một bộ văn học sử mới về văn học Việt  
Nam thì bên cạnh lịch sử tác giả, tác phẩm  
sẽ có lịch sử người đọc. Đồng thời, hướng  
nghiên cứu này đã thể hiện bản lĩnh của  
các chủ thể nghiên cứu, đã góp phần tạo ra  
một góc nhìn mới, làm phong phú thêm nội  
dung các tác phẩm của Nguyễn Đình  
Chiểu.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Bùi Đức Tịnh (2005), Lược khảo lịch sử văn học Việt Nam từ khởi thủy đến cuối thế kỉ  
20, Nxb Văn nghệ.  
2. Dương Quảng Hàm (1968), Việt Nam văn học sử yếu, Sài Gòn, Bộ Giáo dục - Trung  
tâm học liệu xuất bản.  
3. Hà Như Chi (2000), Việt Nam thi văn giảng luận, Hà Nội: Nxb Văn hoá Thông tin.  
46  
4. Huỳnh Vân (2010),  Hans Robert Jauss: Lịch sử văn học là lịch sử tiếp nhận ,  
Nghiên cứu Văn học, Hà Nội, số 3, trang 36-58.  
5. Lê Quang Tư (2009), “Một thế kỉ nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam”, Luận án tiến  
sĩ Ngữ văn, Hà Nội,Viện Văn học.  
6. Lê Trí Viễn và tác giả khác (1978), Lịch sử văn học Việt Nam, tập 4A, Hà Nội, Nxb  
Giáo dục.  
7. Lê Văn Siêu (1974), Văn học sử thời kháng Pháp, Sài Gòn, Trí Đăng.  
8. Nhiều tác giả (1973), Nguyễn Đình Chiểu tấm gương yêu nước và lao động nghệ  
thuật, Hà Nội, Nxb Khoa học xã hội.  
9. Nhiều tác giả (1982), Kỉ yếu Hội nghị khoa học về Nguyễn Đình Chiểu nhân kỉ niệm  
lần thứ 160 ngày sinh của nhà thơ (1822 – 1982), tổ chức tại Bến Tre từ ngày 29-  
30/6/1982.  
10. Nhiều tác giả (2001), Văn học sử những quan niệm mới những tiếp cận mới, Hà Nội,  
Thông tin khoa học xã hội – chuyên đề.  
11. N.I.Nikulin (2010), Lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Văn học- Trung tâm nghiên cứu  
Quốc học, Nhiều người dịch.  
12. Nghiêm Toản (1968), Việt Nam văn học sử trích yếu, Sài Gòn, Nhà sách Khai Trí.  
13. Nguyễn Lộc (1999), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII- hết thế kỉ XIX, Hà Nội,  
Nxb Giáo dục.  
14. Nguyễn Q.Thắng (2007), Văn học Việt Nam nơi miền đất mới, tập1, Hà Nội, Nxb Văn  
học.  
15. Nguyễn Tường Phượng - Bùi Hữu Sủng (1952), Văn học sử Việt Nam hậu bán thế kỉ  
thứ XIX Hà Nội, Trường Nguyễn Khuyến phát hành.  
16. Nguyễn Văn Hầu (2012), Văn học miền Nam lục tỉnh, tập ba Văn học Hán Nôm thời  
kháng Pháp và thuộc Pháp, Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ.  
17. Phan Trần Chúc (1960), Văn chương quốc âm thế kỉ XIX, Sài Gòn, Nhà sách Khai Trí.  
18. Phạm Thế Ngũ (1996), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên. Tập II-III, Văn học  
hiện đại 1862-1945, Đồng Tháp, Nxb Đồng Tháp.  
19. Thanh Lãng (1967), Bảng lược đồ văn học Việt Nam, quyển hạ – Ba thế hệ của nền  
văn học mới (1862-1945), Sài Gòn, Nxb Trình bày.  
20. Trần Ngọc Vương (1999), Văn học Việt Nam d ng riêng giữa nguồn chung, Hà Nội,  
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.  
21. Văn Tân- Nguyễn Hồng Phong (1963), Lịch sử văn học Việt Nam (sơ giản), Hà Nội,  
Nxb Khoa học - Ủy ban Khoa học Nhà nước.  
22. Viện Văn học (1964), Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX,  
Hà Nội, Nxb Văn học.  
23. Vũ Đình Liên và tác giả khác (1957), Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam – từ thế kỉ  
XVI đến giữa thế kỉ XIX, tập II, Hà Nội, Nxb Xây dựng.  
24. Vũ Đình Liên và tác giả khác (1957), Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam – từ giữa  
thế kỉ XIX đến 1945, tập III, Hà Nội, Nxb Xây dựng.  
* Ngày nhận bài: 7/11/2013. Biên tập xong: 19/2/2014. Duyệt đăng: 24/2/2014.  
47  
pdf 15 trang Hứa Trọng Đạt 09/01/2024 540
Bạn đang xem tài liệu "Sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu từ điểm nhìn Văn học sử", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfsang_tac_cua_nguyen_dinh_chieu_tu_diem_nhin_van_hoc_su.pdf