Tiểu thuyết phong tục – Thành tựu quan trọng của văn hóa và văn học thời khai sáng ở phương Tây thế kỉ XVIII
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN
Soá 25 - Thaùng 12/2014
TIỂU THUYẾT PHONG TỤC – THÀNH TỰU QUAN TRỌNG
CỦA VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC THỜI KHAI SÁNG
Ở PHƯƠNG TÂY THẾ KỈ XVIII
NGUYỄN HỮU HIẾU(*)
TÓM TẮT
Về mặt xã hội, các tiểu thuyết phong tục đã nói lên được một thực tế quan trọng của
thời đại, rằng đây là thời đại “con người ý thức được sự có mặt của mình trên thế giới với
tư cách là một tộc loại cá thể” hết sức sâu sắc. Và về mặt văn học, tiểu thuyết phong tục,
cũng có thể hiểu rộng ra là tiểu thuyết hiện thực thời Khai sáng, đã “mở ra khả năng
nghiên cứu không chỉ sự phức tạp của thế giới bên ngoài mà cả những phức tạp của cá
nhân, sự phong phú của nó, những xung đột, năng lực của nó” [Souchkov, Số phận lịch sử
của chủ nghĩa hiện thực, Nxb Tác phẩm mới, tr.43]. Tiểu thuyết phong tục đã góp phần
vào việc định hình một tư duy tiểu thuyết mới: thế sự hóa đối tượng thẩm mĩ và cách thức
biểu hiện. Ý nghĩa tiền đề trực tiếp cho tiểu thuyết hiện thực cổ điển thế kỉ XIX của tiểu
thuyết phong tục thế kỉ XVIII một phần quan trọng chính là ở điểm đó.
Từ khóa: tiểu thuyết phong tục, thời Khai sáng, đối tượng thẩm mĩ, tiểu thuyết hiện
thực cổ điển
ABSTRACT
In social terms, custom novels depict one important fact of the era. This is the era
when "people are profoundly aware of their presence in the world as an individual nation.
And in terms of literature, custom novels which can be interpreted broadly realistic fictions
in the Enlightenment “has opened up the possibility to study not only the complexity of the
outside world, but also the complexity of individual, its variety, conflicts and power”
[Souchkov, The historical fate of realism, New Work Publishing House, p.43]. Custom
novels have contributed to the shaping of a new novel thinking: realizing the aesthetic
object and expression manner. The direct premise meaning for classic realistic fiction in
the nineteenth century is significantly the custom novels of the eighteenth century.
Keywords: custom novel, the Enlightenment, aesthetic objects, classic realistic novel
(*)Thời đại Khai sáng chưa phải là thời đỉnh
cao của tiểu thuyết phong tục, mà thời kì
đỉnh cao của tiểu thuyết này sẽ chờ đợi sang
thế kỉ sau, gắn liền với tên tuổi những tác giả
như Balzac, Stendhal, Charles Dickens,
Thackeray, William Dean Howells... của thế
kỉ XIX. Lí do dễ hiểu là: trong khuôn khổ
văn hóa của thời đại tranh đấu về chính trị và
triết học của thế kỉ XVIII, hầu hết các nhà
văn bị cuốn vào không khí chung của thời
đại, và họ muốn bằng những quan niệm phần
nhiều mang tính trực tiếp, có tính thời sự, dễ
dàng tác động tới nhận thức của đại đa số
người đọc thuộc giới tư sản và các tầng lớp
trung lưu và bình dân. Hơn nữa, thế kỉ XVIII
tuy đã có phong trào Bách khoa toàn thư (ở
Pháp) với việc biên soạn và phổ biến nhiều
(*)PGS.TS, Trường Đại học KHXH&NV – ĐHQG
TP.HCM
6
tri thức khoa học cả tự nhiên và xã hội theo
tinh thần có lợi cho tầng lớp tư sản và trào
lưu tư sản hóa nhưng cũng chưa có được
những thành tựu như trong thế kỉ XIX – thế
kỉ người phương Tây đứng trước ngưỡng
cửa thời đại khoa học, với những nghiên cứu
sâu sắc về đời sống, về sự tranh đấu giữa
những tầng lớp khác nhau về quyền lợi, cũng
như về vai trò của hoàn cảnh đối với con
người (các học thuyết của Lamark, Saint
Hilàire, Michelet, Darwin…), những vấn đề
có thể gợi ý niệm về bức tranh toàn cảnh và
mối quan hệ giữa tâm lí, tính cách của con
người trong khung cảnh nó sống và hoạt
động. Tuy vậy, dù không nhiều, nhưng trong
thế kỉ XVIII cũng đã xuất hiện một số nhà
văn có những tiểu thuyết mà ở đó thấp
thoáng dáng dấp của hình thức tiểu thuyết sẽ
phát triển mạnh mẽ trong nửa đầu thế kỉ
XIX.
Một điều rất đặc biệt là trong thế kỉ
XVIII loại tiểu thuyết này hầu như vắng
bóng ở Pháp, Đức, Mỹ, nói đúng hơn,ở
những nền văn học ấy tính chất của tiểu
thuyết phong tục hết sức mờ nhạt với vài
biểu hiện nhỏ (như tiểu thuyết “Nữ tu sĩ”
của Denis Diderot khi nói về đời sống
trong chốn tu viện, hay tiểu thuyết “Manon
Lescaut” của A. Prévost ít nhiều đề cập đời
sống giới giàu có mặt kì triều đại Louis
XIV), mà chủ yếu chỉ xuất hiện ở nước
Anh, với một số tác giả tiêu biểu như
Richardson, Smollett, đặc biệt là Henry
Fielding. Vì sao lại có hiện tượng đó?
Trong thế kỉ XVIII, xét về cơ sở hiện thực,
mặc dù nước Anh vẫn nằm trong trào lưu
tư sản hóa của châu Âu nhưng rõ ràng có
những khác biệt rất lớn so với Pháp, Mỹ
hay nước Đức. Khác biệt cơ bản ở đây là:
trong khi người Đức, người Mỹ, và đặc
biệt người Pháp bận tâm tập trung vào hoạt
động tranh đấu để chống sự trì trệ lạc hậu
và phân tán về chính trị (như nước Đức), làm
cách mạng giải phóng dân tộc (như Mỹ), làm
cách mạng nhân quyền và dân quyền (như
Pháp), thì người Anh do chính thể quân chủ
lập hiến đã có những cải cách về thể chế
(dưới vua có Quốc hội, có nội các, có Thủ
tướng cùng Hội đồng bộ trưởng điều hành
đất nước) nên chủ yếu họ ra sức cho cách
mạng về kinh tế. Kể từ sau “cách mạng vẻ
vang” 1688, dù trong xã hội vẫn có những sự
mẫu thuẫn, tranh giành quyền lợi giữa các
phe phái (giữa đảng Whig và Tory), các
dòng tộc hay những tranh luận giữa những
người có quan điểm khác nhau về tôn giáo…
nhưng nước Anh không có những cơn lốc
chính trị dữ dội mà chủ yếu người ta tập
trung cho những sự phát triển về kĩ thuật
hiện đại (nhất là sự cơ khí hóa ngành dệt may
truyền thống), về nông nghiệp, mở mang và
duy trì thế lực ở các thuộc địa rộng lớn ở Bắc
Mỹ và Ấn Độ… Về kinh tế và chính trị xã
hội là vậy, còn về đời sống văn hóa tinh thần
trong thế kỉ XVIII ở Anh cũng có sự khác
biệt. Ví dụ: trong khi tiếp cận những học
thuyết của những nhà tư tưởng lớn của thời
đại (như F.Bacon, Descartes, John Locke,
Montesquieu…) người Pháp thường có xu
hướng khai thác những khía cạnh có tính
chất đối lập quyết liệt với chủ nghĩa giáo
điều và sự ngưng trệ phong kiến để tạo nên
những cuộc tranh luận về triết học, khoa học,
tôn giáo khá gay gắt và có tính chất “đập
phá” thì ở Anh ngược lại, người ta ra sức phổ
biến những quan điểm mới ấy theo hướng
làm sao có lợi cho việc điều chỉnh nhận thức
của con người với mục đích hướng đến sự
hợp lí, khách quan và một sự bình ổn về xã
hội và đạo đức. Những quan điểm mới về
con đường truy tầm chân lí của Francis
Bacon (1561 – 1626), một triết gia, một
nhà văn và chính khách trong thế kỉ XVI –
XVII, “ông tổ thực sự của chủ nghĩa duy
7
vật Anh và tất cả những khoa học thự
nghiệm hiện đại” (thuyết của Bacon đã
sớm nêu nguyên tắc thực nghiệm theo ba
bước quan sát, nêu giả thuyết và kiểm
chứng bằng thực tiễn, hoàn toàn không xa
với nguyên tắc của khoa học hiện đại), hay
tư tưởng đề cao con ngưởi tự nhiên và
thuyết duy cảm của John Locke, David
Hume trở thành kinh nghiệm quí báu và có
những tác động quan trọng đối với việc
kiến tạo đời sống tinh thần Anh trong thế
kỉ XVIII, mà văn học là một phần quan
trọng trong đó. Những đặc điểm có tính
lịch sử trên nhiều phương diện của nước
Anh ấy có thể được xem là cơ sở quan
trọng dẫn đến sự xuất hiện sớm ở nền văn
học này thể loại tiểu thuyết phong tục, một
hình thức tiểu thuyết ít hoặc không trực
tiếp đề cập đến những vấn đề chính trị xã
hội rộng lớn, mà có xu hướng quan tâm
những điều bình dị trong đời sống thường
nhật, đời sống riêng tư và phong tục đạo
đức, cũng như chú trọng việc khai thác và
thể hiện tâm lí, tính cách của các nhân vật.
Samuel Richardson (1689 – 1761) là
một người sớm bộc lộ thiên hướng quan sát
và viết về những hoàn cảnh éo le, những
“trạng huống mang tính xã hội phức tạp rõ
rệt”, đặc biệt ông hay đề cập tới những vấn
đề liên quan tới đạo đức xã hội thông
thường, như đạo đức trong tình yêu và hôn
nhân. S. Richardson viết không nhiều, tên
tuổi ông chủ yếu gắn với ba bộ tiểu thuyết:
“Pamela hay đức hạnh được đền bù”
(Pamela or Virtue rewarded) gồm 4 tập được
xuất bản trong bảy năm, từ 1740 đến 1747;
“Clarissa Harlowe hay câu chuyện về một
người phụ nữ trẻ” (Clarissa Harlowe or The
history of a young lady) xuất bản năm 1748,
và “Charles Grandison” (1754). Trong số
những tác phẩm ấy, tiểu thuyết “Pamela hay
đức hạnh được đền bù” có thể được xem là
một trong những tiểu thuyết phong tục tiêu
biểu trong văn học Anh thế kỉ XVIII.
Pamela là nhân vật chính. Đó là một cô
gái xuất thân gia đình nghèo và trở thành
con nuôi trong một gia đình quí phái. Dù
được ở trong một gia đình giàu có nhưng
thân phận cô gái cũng không khác gì kiếp
tôi đòi. Con trai của bà chủ, anh chàng
Belfort, vốn là một chàng thanh niên lêu
lổng, phóng đãng, đã tìm mọi cách, lúc thì
dụ dỗ, lúc dùng tiền bạc, lúc lại cậy thế ông
chủ để đe dọa, cưỡng ép hòng chiếm đoạt
tình cảm của cô. Tuy vậy, với đức tính hồn
nhiên và sự hiền dịu bẩm sinh không bao
giờ biết đến thù hằn, cô dần cảm hóa được
bá tước Belford, làm cho anh ta từ bỏ tính
kiêu ngạo tự phụ của giới thượng lưu và
thiên kiến đẳng cấp để cuối cùng hai người
có một kết thúc có hậu với một hạnh phúc
viên mãn.
Thực ra, với tiểu thuyết này, ta cũng có
thể có những định danh khác nhau: tiểu
thuyết tâm lí, tiểu thuyết thư tín, tiểu thuyết
thuyết giáo đạo lí… Mỗi cách định danh
như thế đều có cơ sở từ chính đặc tính nội
dung và hình thức tiểu thuyết, hoặc từ
thông điệp mà Richardson muốn gửi gắm
tới người đọc cùng thời. Tuy nhiên, nếu xét
trên nhiều khía cạnh, việc định danh tiểu
thuyết phong tục cho tác phẩm này có lẽ
phù hợp hơn.
Tác phẩm là một tập hợp nhiều lá thư
kể chuyện về cô gái nghèo Pamela. Cốt
truyện tuy không có gì phức tạp, rối rắm,
nhưng tác phẩm nói lên nhiều điều liên
quan đến sự tiến hóa của thể loại văn học
cũng như sự tiến hóa của văn học Anh.
Điều quan trọng ở đây là, đằng sau hình
thức thư từ ấy là môi trường xã hội, là số
phận của một con người bé nhỏ bị lép vế
và bị coi thường trong cái nhìn của giới
nhà giàu. Những định kiến về vị trí sang
8
hèn, giàu nghèo, mà ở đây là thái độ coi
thường của Belford đối với nguồn gốc xuất
thân của Pamela đã làm cho tác phẩm trở
thành một câu chuyện kể về vấn đề có tính
hiện thực và xã hội sâu sắc. Tuy thông điệp
đạo đức của tiểu thuyết cũng khá rõ khi
nhà văn muốn nhấn mạnh những phẩm
chất “trung thực, lòng trung thành, sự siêng
năng (phải) là các đức tính trụ cột của xã
hội”, nhưng cái thông điệp đạo đức ấy
cùng với kết thúc có hậu của tiểu thuyết
vẫn không làm mờ đi ý nghĩa quan trọng
của tác phẩm: đó là một câu chuyện về đời
sống của người bình dân, những người vốn
chỉ được đóng vai phụ trên sân khấu đời
sống, với tất cả tâm tư và cảm xúc đời
thường của họ.
Tiểu thuyết phong tục không chỉ là vấn
đề miêu tả số phận hay tái hiện hoàn cảnh
sinh hoạt có tính chất thường nhật của các
nhân vật, mà đi liền với những điều ấy nhà
văn còn đi sâu khai thác tâm lí của họ trong
mối tương quan với hoàn cảnh mà họ là
nạn nhân hoặc là sản phẩm của nó. Tâm lí
đó là thứ tâm lí có tính chất riêng tư, đời
thường, không cường điệu. Chính thứ tâm
lí rất “cận nhân tình” của Pamela đã làm
cho hình tượng thêm tính thuyết phục. Mối
quan hệ giữa cô và Belford trước khi đi
tới kết thúc có hậu là một thứ tâm lí đầy
phức tạp, ở đó cô phải vừa dịu dàng, thậm
chí có vẻ là phục tùng trong quan hệ giữa
người ở và ông chủ, nhưng cũng vừa phải
cương quyết để bảo vệ danh dự của mình.
Hơn thế nữa, một mặt Pamela biết Belford
là người đưa lại cho cô rất nhiều đau khổ
và tủi nhục và bắt cô phải chịu đựng,
nhưng mặt khác trái tim non trẻ của cô lại
không chống lại được những rung động
trước anh ta. Tính chân thật, chiều sâu của
những uẩn khúc tâm lí và bóng dáng môi
trường xã hội gắn liền với số phận nhân vật
đã khiến tác phẩm được xem là “tiểu thuyết
tiếng Anh hiện đại đầu tiên”, và tác giả của
nó – Samuel Richardson là người “đã có
công đóng góp vào việc tạo ra thể loại tiểu
thuyết hiện đại Anh” [Hữu Ngọc chủ biên,
Từ điển tác gia văn học và sân khấu nước
ngoài, Nxb Văn hóa, 1983, tr. 379].
Henry Fielding (1707 – 1754) được
coi là người đưa tiểu thuyết phong tục thế
kỉ XVIII đạt tới đỉnh cao nhất của nó, đồng
thời là “tiểu thuyết gia vĩ đại nhất” trong
thời đại Khai sáng. Thậm chí Walter Scott,
một nhà văn bậc thầy của thể loại tiểu
thuyết lịch sử Anh đầu thế kỉ XIX không
chỉ rất ngưỡng mộ Henry Fielding mà còn
coi ông là “cha đẻ của tiểu thuyết Anh”.
H. Fielding viết khá nhiều, cả kịch trào
phúng chính trị (trên 20 vở) và tiểu thuyết,
nhưng thường thì người ta ít khi nhắc đến
ông với tư cách nhà viết kịch mà chủ yếu
nhắc đến ông với tư cách tiểu thuyết gia
quan trọng trong lịch sử tiểu thuyết Anh và
lịch sử tiểu thuyết châu Âu nói chung.
Ông là tác giả của nhiều tiểu thuyết, như
“Joseph Andrews” (1742) “Cuộc đời của
ông Jonathan Wild vĩ đại” (Life of Mr.
Jonathan Wild The Great, 1743), “Hành
trình tới Lisbon” (Voyage to Lisbon, 1751)
“Amilia” (1752)… trong đó mỗi tiểu
thuyết được viết theo một lối riêng, cho
thấy bút pháp đa dạng và quan niệm tiểu
thuyết khá rõ ràng ở nhà văn này.
Tiểu thuyết đỉnh cao và gắn liền với
tên tuổi Henry Fielding là “Câu chuyện về
Tom Jones, đứa trẻ bị bỏ rơi” (The history
of Tom Jones, a foundling, 1749). Đó là
câu chuyện kể về cuộc đời và số phận của
một đứa trẻ vô thừa nhận sống trong gia
đình một điền chủ giàu có và tốt bụng, ông
Allworthy. Những tưởng cuộc sống sẽ
bằng phẳng và tràn đầy hạnh phúc, nhưng
khi lớn lên Tom Jones lại luôn phải đối
9
diện với sự toan tính, hiềm tị của Blifil, một
người cháu ruột của điền chủ. Với những
rắc rối, phức tạp chung quanh quan hệ tình
cảm của hai chàng trai với cô gái trẻ đẹp
Sophie và chuyện dành quyền thừa kế trong
gia đình của Blifil, anh ta đã dùng những lời
nói xấu và dèm pha đầy ác ý, buộc ông
Allworthy phải đuổi Tom Jones ra khỏi nhà.
Tuy nhiên, sau những tháng ngày gian truân
vất vả, bí mật về cuộc đời của anh cũng
được hé lộ: Tom chính là con hoang của
người em gái của ông Allworthy, và là anh
cùng mẹ khác cha với Blifil. Khi bí mật
được sáng tỏ, những tươi sáng của cuộc đời
đã đến với Tom Jones, anh trở thành người
thừa kế và có lại tình yêu với cô gái trẻ tốt
bụng Sophie.
Charles Dickens (1812 – 1870) với tiểu
thuyết “Oliver Twist” và “David
Corpperfield”, hay Charlotte Brontee
(1816 – 1855) với tiểu thuyết “Jane
Eyre”… Nếu xét trong khung thẩm mĩ
hiện thực chủ nghĩa thế kỉ XVIII, khi mà
hoàn cảnh chưa trở thành một khách thể
mĩ học và các nhà văn chưa có kinh
nghiệm “tái hiện nghệ thuật đối với môi
trường” cũng như “chưa truyền được cảm
hứng cho thế giới chung quanh con người”
[Souchkov, Số phận lịch sử của chủ nghĩa
hiện thực, tr.81] thì những gì Henry
Fielding đã làm được trong tiểu thuyết này
đã là một ngoại lệ, vượt ra ngoài thói quen
phổ biến (chủ yếu kể lại người, sự việc, sự
vật) của tiểu thuyết thế kỉ XVIII.
Xét về khía cạnh thể loại, cuốn tiểu
thuyết hứa hẹn có nhiều điều rất mới mẻ,
không xa với tiểu thuyết hiện thực, và
tất nhiên là đã có những điểm vượt ra khỏi
những đặc điểm thường thấy ở tiểu thuyết
nói riêng và văn xuôi nói chung của thời
đại Khai sáng.
Cùng được xem là những tiểu thuyết
phong tục, nhưng nếu so với tiểu thuyết
“Pamela hay đức hạnh được đền bù” của
Samuel Richardson thì tiểu thuyết “Câu
chuyện về Tom Jones, đứa trẻ bị bỏ rơi”
của Henry Fielding cũng có nhiều thay đổi.
Sự khác biệt ở đây không chỉ dừng ở hình
thức trần thuật, một bên là hình thức thư
tín (số phận, tâm trạng thể hiện qua những
bức thư) và một bên là kể và tả (tức là dùng
lời văn trần thuật), mà điều quan trọng ở
chỗ sự lựa chọn những hình thức khác
nhau đó có liên quan tới dụng ý của nhà
văn, một bên chú trọng phương diện tình
cảm (cũng có ý kiến xếp tác phẩm của
Richardson vào thể loại tiểu thuyết tình
cảm), còn một bên muốn thể hiện một thứ
hoàn cảnh “không thêm bớt” và hình ảnh
“con người tự nhiên” theo một cách tự
nhiên nhất. Chính ngôn ngữ văn xuôi dạng
kể tả của tác phẩm đã góp phần làm tăng
chất đời thường của nội dung trần thuật
một cách đáng kể.
So với các hình thức tiểu thuyết khác
cùng thời (tiểu thuyết phiêu lưu, tiểu thuyết
tình cảm, tiểu thuyết triết học…), tiểu
thuyết “Câu chuyện về Tom Jones, đứa trẻ
bị bỏ rơi” là một tác phẩm khá dày đặc về
tình tiết, sự kiện. Tuy cốt truyện không quá
rối rắm phức tạp, nhưng sự diễn biến của
cốt truyện cùng với những tình tiết và sự
kiện đi liền với nó luôn gợi ở người đọc
những hình dung về đời sống mà ở đó có
những cảnh đời, những phong tục tập quán,
những bức tranh khung cảnh xã hội, cũng
như bức tranh sinh hoạt trong những gia
đình nông thôn nước Anh thế kỉ XVIII. Cái
cách nhà văn miêu tả khung cảnh gia đình
Allworthy cũng như số phận các nhân vật
trong đó rất gần với cách miêu tả của các
nhà văn hiện thực Anh đầu thế kỉ XIX, như
Văn học thế kỉ XVIII nhìn chung bị
điều kiện hóa bởi nhu cầu cổ võ cho tinh
10
thần mới (tinh thần tư sản) và gắn với mục
đích xây dựng tâm hồn và trí tuệ con
người, chấn chỉnh đạo đức cá nhân và xã
hội.... Trong điều kiện như thế, dù muốn
hay không thì tiểu thuyết của Fielding cũng
không hoàn toàn thoát ra khỏi bầu khí
quyển văn hóa chung của thời đại mình.
Dấu vết của tính chất bị điều kiện hóa ấy
chúng ta có thể tìm thấy trong thái độ thiện
cảm của tác giả đối với những nhân vật
mang vẻ đẹp tinh thần và thể chất như
Allworthy, Tom Jones, Sophie Western…,
tất cả họ là những con người đáng mến, có
tấm lòng trong sáng, thánh thiện (kể cả ông
Allworthy, dù ông đã đuổi Tom Jones ra
khỏi nhà). Giống với tiểu thuyết của
Richardson, để khẳng định giá trị đạo đức,
H. Fielding cũng vận dụng khung truyện
kể có kết thúc có hậu (happy ending) và
motif quen thuộc lưu lạc – đoàn viên của
nhân vật trung tâm… Tuy vậy, so với tiểu
thuyết “Pamela”, vấn đề đức hạnh và lí
tưởng về con người đức hạnh ở “Truyện về
Tom Jones, đứa trẻ bị bỏ rơi”đã được “cất
dấu” rất khéo sau những miêu tả đậm chất
văn xuôi về một hiện thực đời sống đa diện
và một đời sống tâm lí nhiều chiều của các
nhân vật. Tác giả không bị sa đà vào mục
đích giáo huấn đạo đức cũng như lí tưởng
hóa nhân vật tốt bụng một cách lộ liễu.
Ông tỏ ra có thiện cảm với những con
người tốt bụng, nhưng mặt khác, trong khi
nói về những đức tính tốt thì đồng thời ông
cũng đề cập đến những tính xấu như thói
tham lam, ích kỉ, toan tính của người đời.
Cách thể hiện như thế của H. Fielding rõ
ràng có cơ sở từ sâu xa quan niệm về “con
người tự nhiên” của nhà văn, ở đó “đức
hạnh là do bản tính tự nhiên – chúng tạo
thành bản chất nội tại của nó (nhân vật),
chúng không được đưa từ bên ngoài vào
tâm hồn… (mà) chẳng qua nó biểu hiện
những đặc tính của bản tính con người, bản
tính như thế nào thì biểu hiện như vậy”
[B.Souchkov, Số phận lịch sử của chủ
nghĩa hiện thực, Nxb Tác phẩm mới, tr. 80].
Nhìn lại quá trình tiến hóa của văn học
hiện thực, nói chính xác ra là văn học mang
tính hiện thực (hay có xu hướng hiện thực)
trong lịch sử văn học phương Tây từ thời
đại Phục hưng cho đến thế kỉ XVIII và thời
đại Khai sáng, sự xuất hiện của tiểu thuyết
phong tục dù xét về qui mô vẫn còn mang
tính cục bộ (chủ yếu là văn học Anh) và
cũng chưa có nhiều nhà văn đi theo thể loại
này, nhưng không thể không khẳng định
rằng đó là một bước phát triển đáng kể của
tiểu thuyết và tư duy tiểu thuyết. Vì vậy, để
đánh giá một cách thỏa đáng vị trí của thể
loại tiểu thuyết phong tục thiết nghĩ không
thể không đặt nó trong tiến trình lịch sử
văn học phương Tây nói chung, lịch sử văn
xuôi nói riêng.
Ngay trước thời đại Phục hưng, từ thế
kỉ thứ V, cụ thể từ năm 476 (năm đánh dấu
sự sụp đổ của đế quốc Tây La Mã) đến
năm 1453 (năm đánh dấu sự sụp đổ của đế
quốc Đông La Mã, cũng là trên toàn cõi
châu Âu) được gọi là thời đại trung đại.
Trong suốt mười thế kỉ ấy, trong những thế
kỉ trung đại sơ kì, các dân tộc phương Tây
phải dồn sức lực của mình vào quá trình
lập quốc (phân chia ranh giới, xác định
cương vực, lãnh thổ), củng cố ý thức cộng
đồng, sau đó là nâng cao ý thức dân tộc để
hướng đến khẳng định vị thế riêng của mỗi
dân tộc trong mối tương quan với các dân
tộc khác trên lãnh thổ châu Âu. Tiếp theo
những thế kỉ lập quốc đó là thời kì người
phương Tây củng cố uy thế của Nhà thờ.
Giáo hoàng La Mã trực tiếp phát động
những cuộc thánh chiến, tiến hành những
cuộc viễn chinh chinh phục những người
bị xem là tà đạo và giải phóng vùng đất
11
Thánh Palestine trong suốt một thời gian
dài gần hai thế kỉ (từ 1098 đến năm 1270)
với nhiều cuộc viễn chinh lớn nhỏ. Trong
những thế kỉ trung đại này, nhà thờ và tu
viện trở thành những trung tâm, không
những là trung tâm tôn giáo mà còn là
trung tâm văn hóa và giáo dục. Văn hóa
tôn giáo và văn hóa La – tinh thống trị đã
dẫn đến thực tế là chủ thể văn hóa của thời
trung đại bị thu hẹp, chủ yếu là những
người có học vấn cao, thông thạo ngôn ngữ
La – tinh, đó là những vị linh mục, giới
tăng lữ, ngoài ra còn có giới hiệp sĩ quí tộc.
Tôn giáo ngày càng chi phối mạnh mẽ hệ
thống tri thức và cách nhìn thế giới, cũng
như chi phối cách nhìn cuộc đời của người
phương Tây trung đại. Về tri thức, đó là sự
chi phối của học thức và những quan niệm
có tính chất kinh viện (scholasticisme),
không khuyến khích những sáng tạo mới
mà chủ yếu củng cố và làm rõ những tín
điều và nhận thức đã có; về cách nhìn đời
sống, tôn giáo hướng con người phải liên
tục đặt mình trong tâm điểm của sự lựa
chọn giữa thiện và ác, giữa tội lỗi và đức
hạnh, vinh quang và ô nhục (nhất là từ năm
1215, khi Giáo hoàng La Mã ra sắc lệnh
yêu cầu các nhà thần học không chỉ chăm
sóc các tín đồ tôn giáo mà còn phải quan
tâm đời sống của người thế tục và quy định
những người đến tuổi thành niên mỗi năm
phải xưng tội một lần)… Tính chất tôn
giáo của văn hóa nói chung cũng chính là
đặc điểm quan trọng của văn học trung đại
phương Tây. Vì vậy, không phải ngẫu
nhiên mà trong thời kì đầu của văn học,
thậm chí là những sáng tác đầu tiên phần
nhiều rất đậm tính chất tôn giáo, thậm chí
có thể xem đó là những tác phẩm gắn với
chức năng truyền giáo, như bài thơ “Giấc
mơ Thánh giá” (The Dream of Rood), hay
những câu chuyện về cuộc đời của các
Thánh, như “Cuộc đời Thánh Alexis” (Vie
de Saint Alexis), Cuộc đời Thánh Léger
(Vie de Saint Léger), “Tụng ca Nữ thánh
Eulalie” (Cantilène de Sainte Eulalie),
“Sách về tội lỗi” (Le manuel des péchés)…
của các nhà thơ khuyết danh, hay đó là
các truyện thơ của Rutebeuf – một nhà
thơ chuyên nghiệp, như “Đồng tiền của
Chúa”, “Đường Thiên đường”…. “Văn
hóa thời trung cổ cốt yếu mang tính chất
tôn giáo. Được lưu truyền bởi các học giả,
tất cả đều là các tăng lữ, nền văn hóa này,
trước hết, là cỗ xe chuyên chở lòng tin”
[Xavier Darcos, Lịch sử văn học Pháp,
tr. 26 – 27].
Tất nhiên, văn hóa và văn học thời
trung đại đậm tính chất tôn giáo nhưng
không phải thuần tôn giáo. Trong thời kì
đầu nhà thờ, tu viện phát triển rất nhanh, vì
ngoài việc truyền bá tôn giáo thì các tổ
chức trung gian ấy còn có vai trò rất quan
trọng trong việc tập hợp và liên kết con
người khi mà các dân tộc mới hình thành
chưa lâu, nhưng dần dần càng ngày càng
rõ, bên cạnh mạch văn hóa tôn giáo - tinh
thần còn có một mạch văn hóa khác mang
tính thế tục (gọi là văn hóa thế tục). Văn
hóa thế tục này, trong đó có văn học mang
tính thế tục, vừa xen lẫn với văn hóa tôn
giáo – văn hóa tinh thần để tạo nên đặc tính
bất phân của văn học và văn hóa, vừa như
một thực thể văn hóa và văn học đối trọng
với văn hóa tôn giáo và văn hóa La - tinh
ấy. Mạch văn hóa và văn học thế tục này
càng về hậu kì trung đại càng có vai trò lớn
hơn và dần đe dọa thế chỗ cho văn học của
văn hóa tôn giáo và La – tinh. Các tác
phẩm “Những truyện kể ở Canterbury”
(The Canterbury tales) của nhà văn Anh
Geoffrey Chaucer (1342 – 1400), hay
“Chuyện chàng Cáo” (Roman de Renart)
và hệ thống các câu chuyện mang tính khôi
12
hài như truyện cười và truyện tiếu lâm
trong văn học Pháp… là hết sức tiêu biểu
cho văn hóa và văn học thế tục, hoặc có
liên quan đến mạch ngầm văn hóa thế tục
hậu kì trung đại.
mang nặng tính hoài nghi của Montaigne
hay những học thuyết cổ xúy cho cá nhân
và niềm vui với cái tự nhiên hài hòa của
Erasme hay của Mirandola… thực sự đã là
bệ đỡ về mặt tinh thần cho những sáng tạo
văn học của thời đại này. Qui luật phát triển
của văn học đã xác nhận rằng, tiến trình lịch
sử văn học không chỉ có đột biến mà còn có
sự tiệm tiến, vừa có sự đứt gãy vừa mang
tính liên tục. Trong những điều kiện mới với
những tinh thần mới của thời đại Phục
hưng, dòng văn học thế tục vốn có vị thế lép
vế trong văn hóa trung đại trở thành có ý
nghĩa như một sự chuẩn bị cho sự bùng nổ
của một thời đại văn học mới.
Đã có một chủ nghĩa hiện thực thời đại
Phục hưng, hay nói cách khác có vẻ chặt chẽ
hơn, rằng văn học từ thời đại Phục hưng đã
bắt đầu có những biểu hiện theo khuynh
hướng hiện thực chủ nghĩa, và đó là một
trong những bước chuẩn bị quan trọng, có
tính chất nội tại, cho một chủ nghĩa hiện thực
ở trình độ cổ điển thăng hoa vào thế kỉ XIX
ở hầu hết các nền văn học châu Âu. Tuy vậy,
khuynh hướng hiện thực trong thời đại Phục
hưng vẫn chủ yếu là sự khẳng định một tinh
thần mới của văn học, đó là sự vinh danh
một mĩ học mới – mĩ học hướng về những
giá trị có thực của đời sống, chứ chưa phải
khuynh hướng hiện thực theo nghĩa chú
trọng vào việc thể hiện những bức tranh đời
sống, phản ánh những tình thế hiện thực theo
tinh thần khách quan về lịch sử, hay sự phân
tích sâu sắc những quan hệ xã hội đang tồn
tại…. Về phương diện thể loại, các thể loại
văn học phát triển mạnh và phổ biến chủ yếu
vẫn là kịch (Shakespeare…), thơ (Pétrarque,
Ronsard…), truyện mang màu sắc phiêu lưu
và truyện trào phúng (Thomas More,
Boccaccio, Marguerite de Navarre…), các
bài luận của những nhà nhân văn chủ nghĩa
(như Montaigne, Erasme, Bruno…). Tác
Điểm lại một ít về văn học thời đại tiền
Phục hưng như vậy ta thấy khá rõ rằng,
mặc dù trong thời đại trung đại bên cạnh
văn học tôn giáo đã có những tác phẩm văn
học mang tính thế tục, nhưng nếu xét trong
tương quan thì dòng văn học này vẫn đang
còn lép vế so với mạch văn học mang tính
chính thống kia. Trong một thời đại mà văn
hóa chính thống là văn hóa tôn giáo thắng
thế, bên cạnh đó là sự chi phối của quyền
lực và thể chế phong kiến, con người chưa
ý thức nhiều về quyền cá nhân, quyền phải
sống cho mình thì những câu chuyện liên
quan đến vấn đề thân phận, quyền lợi riêng
tư chưa thể có đất sống để trên cơ sở đó
tiểu thuyết nói chung và tiểu thuyết phong
tục nói riêng nảy sinh và dành được chỗ
đứng. Thêm vào đó, thẩm mĩ văn học trung
đại luôn đề cao yêu cầu về tính chất sang
trọng, cao nhã (courtoisie), nhất là những
tác phẩm văn học là con đẻ của văn hóa
hiệp sĩ quí tộc trung kì trung đại, cho nên
một thể loại như tiểu thuyết thế tục rõ ràng
còn rất lâu mới có thể được chấp nhận.
Sang thời đại Phục hưng, có vô số
những thay đổi cả về lịch sử xã hội và văn
hóa, ở đó một trong những điều cơ bản và
phổ quát nhất, đó là phong trào văn hóa này
đã góp phần tạo ra một thực tế mới: thế giới
thế tục càng ngày càng thể hiện rõ xu hướng
thoát ra khỏi sự lệ thuộc thế giới thánh thần.
Những sự hoài nghi đối với tôn giáo và chủ
nghĩa kinh viện trong tri thức thúc đẩy
mạnh mẽ và khuyến khích con người thời
đại Phục hưng càng ngày càng tin hơn vào
cuộc sống trần gian, vào những hoạt động
thực tiễn và những giá trị vật chất. Tư tưởng
13
phẩm được nhắc đến nhiều và là thành
tựu của thể loại tiểu thuyết trong thời kì
này là tiểu thuyết nhại mang màu sắc phiêu
lưu “Don Quijoté” của nhà văn Tây Ban Nha
Cervantès, hay tiểu thuyết trào phúng
“Gargantua và Pantagruel” của nhà văn Pháp
F. Rabelais. Cho tới tận thế kỉ XVII cũng
vậy, thể loại tiểu thuyết hầu như vắng bóng
trên văn đàn Anh và Đức, chỉ một vài tiểu
thuyết gia ở Pháp được biết đến như phu
nhân de Lafayette (1634 - 1693) với tiểu
thuyết mang màu sắc một tiểu thuyết lịch sử
“Công chúa de Clèves”, hay Fénelon (1651 –
1675) với tiểu thuyết mang màu sắc chính trị
“Những cuộc phiêu lưu của Télémaque” và
một số sáng tác của các nhà văn thuộc dòng
văn học cầu kì như Scudéry và D’Urfé... Với
văn học Pháp thế kỉ XVII, đó là một thế kỉ
của sân khầu cổ điển và các hình thức văn
học thiên về chức năng giáo hóa đạo đức,
với những đỉnh cao như Pierre Corneille và
Jean Racine với bi kịch, Molière với hài kịch
và La Fontaine với thơ ngụ ngôn… Đặt tiểu
thuyết phong tục trong lịch sử vận động của
thể loại tiểu thuyết như vậy ta mới thấy một
cách rõ ràng và thực chất hơn thành tựu văn
xuôi của thời đại Khai sáng và vị trí của thể
loại tiểu thuyết này.
Sự ra đời của thể loại tiểu thuyết
phong tục đã làm thay đổi đời sống văn học
rất nhiều mặt, trong đó đặc biệt là sự
thay đổi tư duy tiểu thuyết. Trước thế kỉ
XVIII, nhất là thời Phục hưng, như đã
khẳng định, tiểu thuyết đã bắt đầu có những
biểu hiện của khuynh hướng hiện thực qua
một số sáng tác của các nhà văn đỉnh cao và
tiên phong như Cervantès hay Rabelais…
Điều đó là không phủ nhận, nhưng khuynh
hướng hiện thực trong sáng tác của những
nhà văn này, xét đến cùng, chủ yếu vẫn đặt
trọng tâm vào thái độ từ khước thế giới
siêu nhiên và những ảo tưởng siêu nhiên,
thay vào đó là lí tưởng về đời sống hồn
nhiên và hài hòa (Rabelais), hay khước từ
ảo tưởng của lí tưởng hiệp sĩ trung đại, để
hướng về những giá trị có thực của đời
sống. Việc Rabelais đề cập tới nhiều khía
cạnh khác nhau trong “Gargantua và
Pantagruel” như sự trì trệ lạc hậu của tri
thức và nền giáo dục kinh viện, sự phù
phiếm của giới quí tộc, hay cảm quan về sự
biến đổi liên tục của thế giới… là những
vấn đề của đời sống trần gian, nhưng
Rabelais chưa bao giờ thể hiện trong tác
phẩm của mình sự miêu tả những vấn đề ấy
với ý thức xem chúng là đối tượng thẩm mĩ
trực tiếp. Khẳng định lí tưởng nhân văn
thông qua việc ca ngợi sự sống hồn nhiên,
tự nhiên và hài hòa vẫn là giá trị căn bản
của tiểu thuyết của nhà văn vĩ đại này. Việc
Rabelais vận dụng lối kể chuyện ở bàn ăn
(cũng có thể gọi một cách tu từ đó là “thi
pháp kể chuyện bàn ăn”, một sáng tạo hết
sức độc đáo mà ông với tư cách là nhà
thông thái đã rút tỉa bài học từ nhiều nguồn
nguyên mẫu, từ “Bữa tiệc rượu” của Platon,
“Ca ngợi sự điên rồ” của Erasme… để ta ra)
để kể về nguồn gốc và vận số của những
người khổng lồ Gargantua và Pantagruel, để
tạo nên, qua lối kể này, một thế giới lí tưởng
mà ở đó không có sự cấm cản và đời sống
cứ tự nó tuôn ra, hay việc ông cường điệu
quá mức (thậm chí cả tục tĩu nữa) khi nói về
các nhân vật của mình và những việc làm
của các nhân vật, việc sử dụng yếu tố kì
ảo…, tất cả đều xoay quanh việc mục đích
khẳng định lí tưởng về sự hài hòa, tự nhiên
và về một thế giới mới mang đầy sức sống.
Tiểu thuyết “Don Quijoté” của Cervantès
cũng tương tự như vậy, ở đó có nhiều điểm
khiến người đọc nghĩ về khía cạnh giá trị
hiện thực. Điều đó cũng dễ hiểu, bởi vì so
với “Gargantua và Pantagruel” của Rabelais,
rõ ràng Cervantès đã loại bỏ ra khỏi tiểu
14
thuyết của mình những sự kiện và tình tiết có
tính phi thực, kì ảo, tuy rằng sự cường điệu
trong việc xây dựng hình tượng hiệp sĩ Don
Quijoté vẫn còn. Mặt khác, trong tiểu thuyết
này, bên cạnh Don Quijoté đắm đuối với ảo
tưởng cứu vớt nhân loại và biến câu chuyện
sách vở thành câu chuyện cuộc đời là nhân
vật giám mã Sancho Pansa vô cùng thực tế
với những toan tính và mơ ước rất đời
thường. Tuy vậy, xét về động cơ và mục đích
sáng tạo, Cervantès cũng như Rabelais, điều
chủ yếu mà nhà văn này muốn nói với người
đọc của mình là hãy từ bỏ những ảo tưởng
viển vông, và rằng sức mạnh thực sự của con
người nằm ở chính cuộc sống thực tiễn này.
Việc nhân vật chính của tiểu thuyết cuối
cùng phải chuốc lấy thất bại thì đó cũng
không phải Cervantès muốn nêu lên vấn đề
thân phận con người như trong các tiểu
thuyết sau này, mà đó là sự thất bại của một
ảo tưởng. Còn một ý nghĩa trực tiếp hơn, tác
phẩm khiến cho người đọc có thể nhận ra
rằng: thời thế đã thay đổi, một cấu trúc văn
hóa khác đã ra đời và có nhiều hứa hẹn, cho
nên văn hóa hiệp sĩ và con đẻ của nó là
dòng văn học thanh nhã hiệp sĩ thời trung
đại với những tác phẩm như “Tristan và
Yseut” hay những câu chuyện chung quanh
vị vua Arthur huyền thoại… dù sao cũng đã
đến lúc phải nhường chỗ cho một kiểu văn
học mới và một nền văn hóa mới, đó là một
thời đại mà những sản phẩm sáng tạo có ý
nghĩa như là sự thực hành một nền văn hóa
tạo ra niềm vui, sự thú vị và đầy tinh thần
thực tiễn. Xác định những đặc điểm đó của
tiểu thuyết thời đại Phục hưng không có
nghĩa là hạ thấp giá trị các sáng tác của
Rabelais hay Cervantès mà trái lại, ta càng
thấy rõ hơn vị trí ngọn cờ của họ trong trào
lưu nhân văn chủ nghĩa thời đại tiền Khai
sáng. Thực tế thì chính tiểu thuyết “Don
Quijoté” của Cervantès được xem là một
trong những mẫu mực của hình thức văn học
nhại (parody) trong lịch sử văn học phương
Tây, một hình thức văn học mà ở đó nhà văn
dựa trên nguyên mẫu (có thể từ văn học, có
thể từ đời sống), rồi nhào nặn, sửa đổi và
sáng tạo lại bằng một hình thức thẩm mĩ
khác. Các nhà văn của chủ nghĩa hiện đại và
hậu hiện đại rồi sẽ học được rất nhiều từ
những tác phẩm như của nhà văn vĩ đại
người Tây Ban Nha này. Còn trong thời đại
tiền Khai sáng, vào thế kỉ XVII, những giá
trị lớn lao của văn học Phục hưng, trong đó
có tiểu thuyết, sẽ được kết tinh trong tinh
thần quay về với cái có thực, cái vốn có, tức
là cái tự nhiên trong đời sống tâm hồn và
tâm lí con người của chủ nghĩa cổ điển
thông qua cuốn “Nghệ thuật thơ” của
Boileau: hãy tôn trọng tự nhiên, “tự nhiên là
đối tượng duy nhất của các bạn”, và “không
được xa rời tự nhiên nửa bước”. Tự nhiên
tức là không phải cái siêu nhiên, đó là một
trong những nguyên tắc nghệ thuật của thế
kỉ cổ điển, chính tư tưởng đó đã làm cho văn
học từ thời đại Phục hưng đến thế kỉ XVIII
trở nên có một sợi dây liền lạc với nhau.
Trở lại với tiểu thuyết phong tục thế kỉ
XVIII và ý nghĩa của nó đối với sự tiến hóa
của dòng tiểu thuyết hiện thực phương Tây.
Chủ nghĩa hiện thực (réalisme) hay
hiện thực phê phán (theo cách gọi của
Maxim Gorky) đạt tới trình độ cổ điển vào
thế kỉ XIX và trở thành một hiện tượng
văn học mang tính thế giới, có ảnh hưởng
tới nhiều nền văn học, với những nhà văn
bậc thầy như Honoré de Balzac, Stendhal,
Gustave Flaubert… (của Pháp), Charles
Dickens, Thackeray, Bronte… (của Anh),
Wilhelm Raabe, Theodor Fontane… (của
Đức), William Dean Howells, Mark
Twain… (Mỹ)… Những nhà văn này, bằng
sáng tác của mình, đã tạo ra một mô hình
văn học có những đặc điểm riêng biệt, đó
15
là sự ưu tiên cho quan sát đời sống, là khả
năng đồng hóa nội dung đời sống thành nội
dung nghệ thuật thông qua những cách
thức và phương tiện nghệ thuật riêng, gắn
liền với cách nhìn và quan niệm đời sống
và con người của cá nhân nhà văn, là khả
năng phân tích đời sống theo quan điểm
duy lí, đồng thời có thiên hướng mạnh mẽ
trong thái độ phê phán đối với những mặt
trái của đời sống... Tuy nhiên, như đã nói,
không có một hiện tượng văn học nào, kể
cả những hiện tượng văn học được cho là
có ý nghĩa cách mạng nhất về phương diện
tư duy nghệ thuật, mà lại không thông qua
một quá trình chuẩn bị lâu dài trước khi nó
có thể thăng hoa rực rỡ. Với quan điểm
ấy, thể loại tiểu thuyết phong tục thế kỉ
XVIII có thể được xem như một bước
chuẩn bị quan trọng, có tính chất tiền đề
trực tiếp và là một kinh nghiệm quí đối với
chủ nghĩa hiện thực cổ điển thế kỉ XIX. Tất
nhiên trong các tiểu thuyết phong tục tiêu
biểu mà ta đã đề cập như “Pamela hay đức
hạnh được đền bù” của Richardson, hay
“Chuyện về Tom Jones, đứa trẻ bị bỏ rơi”
của Henry Fielding, sự đề cập đến nếp
sống trong các gia đình tư sản hay trong
những gia đình nông thôn Anh và phần
nào là tập tục xã hội vẫn thường đi liền với
câu chuyện về đạo đức (và điều này với
văn học thế kỉ XVIII là phổ biến: khai sáng
cũng mang ý nghĩa xây dựng đời sống tâm
hồn, đạo đức xã hội). Hơn nữa, dù đã
chạm đến vấn đề phong tục, tập quán hay
hoàn cảnh hiện thực của nhân vật nhưng
các tác giả cũng chưa coi trọng vai trò của
môi trường sống như các nhà văn hiện thực
phong tục thế kỉ XIX (như Balzac,
Stendhal, Dickens, Thackeray…) để rồi
biến nó thành một khách thể thẩm mĩ. Tuy
nhiên những đặc điểm đó không phải là
khiếm khuyết của các nhà văn mà điều đó
phản ánh xu hướng phổ quát của văn xuôi
thời đại Khai sáng, một thời đại mà văn
học đã lựa chọn trọng tâm cho mình là góp
phần thức tỉnh lương tri và xây dựng đạo
đức mới cho con người. Thể loại tiểu
thuyết phong tục bởi vậy, dù thành tựu
chưa trở thành phổ biến, nhưng đó là một
hình thức văn học quan trọng trong quá
trình vận động của dòng văn học theo
khuynh hướng hiện thực. Về mặt xã hội,
các tiểu thuyết phong tục đã nói lên được
một thực tế quan trọng của thời đại, rằng
đây là thời đại “con người ý thức được sự
có mặt của mình trên thế giới với tư cách là
một tộc loại cá thể” hết sức sâu sắc. Và về
mặt văn học, tiểu thuyết phong tục, cũng
có thể hiểu rộng ra là tiểu thuyết hiện thực
thời Khai sáng, đã “mở ra khả năng nghiên
cứu không chỉ sự phức tạp của thế giới bên
ngoài mà cả những phức tạp của cá nhân,
sự phong phú của nó, những xung đột,
năng lực của nó” [Souchkov, Số phận lịch
sử của chủ nghĩa hiện thực, Nxb Tác phẩm
mới, tr.43]. Tiểu thuyết phong tục đã góp
phần vào việc định hình một tư duy tiểu
thuyết mới: thế sự hóa đối tượng thẩm mĩ
và cách thức biểu hiện. Ý nghĩa tiền đề trực
tiếp cho tiểu thuyết hiện thực cổ điển thế kỉ
XIX của tiểu thuyết phong tục thế kỉ XVIII
một phần quan trọng chính là ở điểm đó.
16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
Alexander, M. (2006), Lịch sử văn học Anh quốc, Cao Hùng Lynh dịch, Nxb
Văn hóa -Thông tin.
Benoit, A., Fontaine, G.… (1994), Histoire de la littérature européenne, Hachette,
Paris.
Carpusina, X. & Carpusin, V (2004), Mai Lý Quảng dịch, Lịch sử văn hóa thế giới,
Nxb Thế giới.
Darcos, X. (1997), Lịch sử văn học Pháp, Phan Quang Định dịch, Nxb Văn hóa-
Thông tin.
5.
6.
Lanson, G. (1951), Histoire de la littérature franc, aise, Librairie Hachette
Pospelov, G.N. (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Trần Đình Sử dịch, Nxb
Giáo dục.
7.
8.
Phùng Văn Tửu (2006), Văn học Âu – Mỹ, Nxb ĐHSP Hà Nội.
Xuskov, B. (1977), Số phận lịch sử của chủ nghĩa hiện thực, Hoàng Ngọc Hiến dịch,
Nxb Tác phẩm mới.
* Ngày nhận bài: 26/8/2014. Biên tập xong: 1/12/2014. Duyệt đăng: 6/12/2014
17
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu thuyết phong tục – Thành tựu quan trọng của văn hóa và văn học thời khai sáng ở phương Tây thế kỉ XVIII", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- tieu_thuyet_phong_tuc_thanh_tuu_quan_trong_cua_van_hoa_va_va.pdf