Tư tưởng phê bình văn học Việt Nam sau 1986

TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016  
13  
TƯ TƯỞNG PHÊ BÌNH VĂN HỌC VIT NAM SAU 1986  
Lê Huy Bắc1  
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội  
Tóm tắt: Sau Đổi mới 1986, tư tưởng phê bình văn học Việt Nam có nhiều thay  
đổi. Trí thức Việt hướng ra thế giới để hc hi, tiếp thu và truyền bá các tư tưởng  
tích cực vào Việt Nam. Điển hình, có thể kể đến phê bình xã hội học, phê bình đối  
thoại, phê bình phân tâm học, phê bình hiện sinh, phê bình hậu hiện đại và gần  
đây nhất là phê bình kí hiệu hc. Mỗi hướng phê bình đều có mặt mnh mt yếu  
của nó và đã làm phong phú đời sống văn học Vit Nam.  
Từ khóa: Phê bình văn học, phê bình văn học sau Đổi mới, các khuynh hướng  
phê bình  
1. MỞ ĐẦU  
Sau Đổi mới 1986, đương nhiên tư tưởng phê bình văn học cũng đổi mới. Cùng với sự  
hi nhp kinh tế, văn hoá Việt Nam vào dòng chảy chung ca thời đại, nền phê bình – lí  
lun Việt Nam cũng chuyển đổi theo. Dnhn thấy là những tư tưởng phê bình văn học  
ln ca thế gii ktthời điểm đó đã được cp nhật không ngừng vào đời sống văn học  
Việt. Trước đó, chúng ta đã có một truyn thống phê bình xã hội hc với không ít thành  
tựu. Cơ sở của phê bình này là những quy chiếu đến các vấn đề lch sử, con người trong  
đời sống xã hội vi mt dụng ý giáo huấn rõ ràng. Cách phê bình này không có gì là sai  
lc, thậm chí nó có thể hiên ngang trong nhóm những tư tưởng phê bình – lí luận hàng đầu  
của nhân loại tcổ chí kim. Chỉ có điều là, sự vn dụng đôi lúc rơi vào cực đoan, biến nó  
thành xã hội hc dung tc, quy chiếu một cách chủ quan và áp đặt mà không dựa trên bản  
cht của văn chương là hư cấu và việc “giống” hay “khác” với thc tiễn thì đều cn phi  
xem xét cả khía cạnh thẩm mĩ hay “làm văn” của người sáng tác.  
1 Nhận bài ngày 25.03.2016; gửi phản biện và duyệt đăng ngày 28.04.2016.  
Liên hệ tác giả: Lê Huy Bắc; Email: lehuybac@gmail.com  
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016  
14  
Phê bình xã hội học văn học vì thế luôn bổ ích cho mọi thời. Nói không quá, đây chính  
là trường phái nghiên cứu văn chương lâu đời và bền vng nht trong tiến trình lí luận  
nghthut của nhân loại. Dẫu sao thì, càng phát triển, nhân loại cn phải có nhiều món ăn  
tinh thần hơn nữa. Vấn đề đặt ra là con người không chỉ yêu cầu nhà văn sáng tác theo  
nhiều cách mới để làm tăng thêm đời sng thm mcủa tâm hồn, mà còn đặt cho các nhà  
phê bình nghệ thut những khám phá từ các đối tượng sáng tác đó, chỉ ra cái hay cái đẹp để  
con người thưởng thức. Nhà phê bình, có lẽ trong những suy nghĩ cực đoan nhất ca gii  
sáng tạo ngôn từ, đó là những kẻ “ăn theo”, nhng vật kí sinh không giá trị… Có thể hạ  
thấp vai trò của phê bình bằng nhiu li lthm hại hơn thế. Tuy nhiên, cần phải xem xét  
cho thấu đáo vấn đề.  
2. NI DUNG  
Đối vi những nhà phê bình – lí luận tồi, thì đúng muôn đi hchỉ là những kẻ ăn theo  
nói leo thm hại. Còn đối vi những nhà phê bình có tầm tư tưởng lớn thì chính các nhà  
văn lại phải “ăn theo” họ. Nhà văn có thể là nhà tư tưởng, và nhà tư tưởng có thể là nhà  
văn. Đối với nhưng bộ óc trác tuyệt thì điều đó là miễn bàn, nhưng thông thường, nhà tư  
tưởng luôn là ngườidn dắt nhà văn. Vì mấy lí do sau:  
Nhà tư tưởng định hướng xã hội về các quan niệm lí tưởng, sng chết, hạnh phúc, tự  
do, khổ đau hay bất hạnh… Từ đó tạo nên một môi trường sinh thái mà nhà văn tồn ti  
trong đó với tư cách là một thành viên và lấy đó là chất liệu sáng tác. Văn chương không  
thkhi sinh tcao diệuhư vô hay một nơi chốn xa xôi nào đó nơi hiểu biết của con người  
hầu như là số không trước nó. Văn chương không khởi sinh từ đáy sâu địa ngục nơi cái xấu  
cái ác chiếm lĩnh. Văn chương phải bắt đầu tmặt đất, nơi con người đang tận hưởng mi  
hạnh phúc hay nỗi đau, nơi bất hạnh là động lực để con người vị tha hơn, để tranh đấu cho  
một môi sinh tốt đẹp hơn. Vì lẽ đó, hầu như mọi kiệt tác con người làm ra đều hướng đến  
nỗi đau. “Đau” như là một bn thcủa văn chương. Nhưng văn chương nói đau không để  
con người đau hơn mà cốt để con người hạnh phúc hơn và như thế biết đau cũng là hạnh  
phúc. Khi dửng dưng với nỗi đau, con người quay li vvi bản năng “loài” của mình.  
Nhưng để nhn thức, tái hiện và tiếp nhận được nỗi đau đó, thì đâu dễ, đặc bit trong  
cái thời lí tính đã phát triển đến mc gần như là tuyệt đỉnh ngày nay. Nhà văn Việt Nam  
trước Đổi mi, viết vnỗi đau mất nước, nỗi đau chiến trn, nỗi đau của cộng đồng…  
Nhng nỗi đau đó được thhiện rõ trên trang sách, và như thế văn chương đó trở thành vũ  
khí đánh thù. Sức mnh của văn chương đã được ghi nhận. Sang đến cái thời không còn  
súng đạn, nhà văn cần phải “nói” khác đi trong cách tái hiện đời sng của mình. Có hai  
mảng sáng tác sõ rệt: một hướng là vẫn kế tha li viết chiến trận hào hùng để khêu gợi  
lòng tự hào dân tộc, hướng khác là quay về vi nhng chuyện đời thường, nhng cuộc đấu  
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016  
15  
tranh sinh tn của dân tộc trong những khúc quanh của nhng miền giá trị kim tin. Mng  
sáng tác thứ hai này là hướng chủ đạo ca nhiều cây bút thành công sau Đổi mới như  
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Lê Đạt, Nguyn Quang Thiu, Bảo Ninh, Lưu  
Quang Vũ, Trần ThuMai, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Hà, Tạ Duy Anh, Thun,  
Nguyn Ngọc Tư… Vấn đề đặt ra trong sáng tác của những nhà văn này đa phần là những  
trăn trở hay những cú sốc của đời sống con người trước không khí hội nhập, trước ngưỡng  
ca kinh tế thị trường, những gì được và chưa được của cư dân nông nghiệp lâu đời đang  
vươn lên chiếm lĩnh nền công nghiệp hoá...  
Trên nền ca những sáng tác này, dễ nhn thấy các tư tưởng phê bình đa diện đã được  
gii hc thut sdụng để khai thác cái đẹp văn chương. Đầu tiên có thể kể đến tư tưởng  
phê bình “đối thoại” của Bakhtin mà khi giới thiệu vào Việt Nam đã trở thành khuynh  
hướng Thi pháp học. Tư tưởng “đối thoại” này, từ Nga là do “nhóm Bakhtin” (gồm  
Mikhail Bakhtin, Valentin Voloshinov Pavel Medvedev) đề xuất, còn từ Mỹ là do ông  
tcủa kí hiệu hc Charles SandersPeirce đề xuất. Tư tưởng này xem ngôn ngữ luôn có tính  
đi thoi ni tại để tn ti. Nhờ đó mà ngôn ngữ văn chương luôn được tạo sinh và là tiếng  
nói đa âm, đa diện về con người… Tiểu thuyết, nếu tôn trọng tính đối thoại này thì sẽ trở  
thành “tiểu thuyết đa thanh”… Có thể nói, nhờ “Thi pháp học” mà phê bình văn học Vit  
đã thoát được khi mt sluận điểm máy móc, thiếu căn cứ của phê bình xã hội học (được  
vn dụng không đúng) trước đó.  
Nhưng Thi pháp học (sau này là Tự shọc) không phải là hệ tư tưởng độc tôn trong  
phê bình văn học Vit. Thi mcửa, như đã nói là thời người Vit trải lòng ra với vô vàn  
cái hay cái đẹp của nhân loại. Đây là thời mà giới phê bình văn học Vit nhn thức sâu sắc  
rằng, phê bình là một công cụ không thể thiếu của đời sống văn học, không có phê bình  
định hướng thì những khả năng “hiểu” tác phẩm văn học là vô cùng hạn chế. Đây là vấn đề  
có tính toàn cầu. Chng hạn như chuyện “Kịch phi lí”. Loại kịch này ra đời vào thập kỉ  
1950 tại Pháp. Người ta định danh là “phi lí” vì nó hầu như chẳng giống gì kịch truyn  
thống, nơi người xem có thể nhập thân, cùng vui và lo âu hay nổi giận vì những hành động  
đang diễn ra trc tiếp trên sân khấu, mà nhờ đó tâm hồn htrở nên tốt đẹp hơn. Vậy nên,  
đã nảy sinh tâm lí phản ng tc thời là người xem cc lc chỉ trích loại kch này, thậm chí  
họ còn cho rằng tác giả đã lừa họ và không ít người đòi trả li tiền vé… Có chuyện này  
đơn giản là vì người xem chưa hiểu cách kịch này chuyển tải thông điệp, chưa biết cách  
thc nghthuật nhà soạn kch vn dụng để mã hoá cuộc sống và kèm theo đó là gửi gm  
giáo huấn ngm ẩn ra sao. Tình thế đó buộc cánh phê bình phải nhảy vào, sau những phân  
tích, diễn giải định hướng, người xem kịch lúc đó mới vnhrằng đó là loại kịch trác tuyệt  
và con người cần thay đổi cách xem hay đọc kch ttn ti trước đây.  
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016  
16  
Đưa ví dụ này ra để nói rằng mt trong những thành tựu ln nht ca nghthuật ngôn  
tcủa nhân loại cả ở thế kXX lẫn XXI chính là phê bình – lí luận. Trong lúc văn chương  
khước từ tính lí tính theo cách đẩy cao hơn nữa tính lí tính trong sáng tạo thì buộc phê bình  
phải phát triển như một sự định hướng đọc thẩm mĩ tích cực. Vì lẽ này, các trường phái  
phê bình – lí luận văn học thế giới đều gn vi mt hệ tư tưởng triết hc nhất định. Trong  
đó, Triết học Marx, như giới nghiên cứu phương Tây đánh giá là một trong nhng triết hc  
có ảnh hưởng ln nhất đến tư tưởng phương Tây trong suốt thế kXX.Carl Marx ni tiếng  
ở tư tưởng duy vt bin chứng, cái mà hầu hết các hệ tư tưởng nào cũng phải tha nhn.  
Chng hạn, phê bình hậu hiện đại công nhận là được phát triển từ tư tưởng này của Marx ở  
khía cạnh mi svt hiện tượng đều vận động không ngừng theo hướng tích cực. Kí hiệu  
học cũng ghi nhận sự ảnh hưởng này, rằng mi quy chiếu của kí hiệu đều hướng ra “thế  
giới bên ngoài” và thế giới đó là cái có trước ý nim của con người về nó…  
Phê bình hiện sinh cũng là hướng có ảnh hưởng lớn trên văn đàn Việt. Cần lưu ý là tất  
cả các khuynh hướng phê bình hiện đại được gii thiệu và vận dng Việt Nam đều góp  
phần không nhỏ trong vic chuyn dịch bút pháp, tư tưởng của người sáng tác. Phê bình  
hiện sinh đề cao cái tôi tự chcủa con người. Và giá trị của nó có lẽ là, khá nghịch lí, ở  
chnhững điều phi lí nó đưa ra lại chng thể nào giải quyết được, bởi “cái tôi - cá nhân”  
của con người lại luôn tồn ti trong xu hướng dung hoà với “cái tôi - cộng đồng” và cả vi  
lch scủa cái tôi đó… Chẳng hạn như nguồn gc ni khổ và cách thức để vượt qua nó  
trong thân phận người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa ca Nguyn Minh  
Châu rất điển hình cho sự quy chiếu hiện sinh này.  
Một khuynh hướng tư tưởng, không phải là triết học, nhưng hùng cứ dai dng ở  
phương Tây là Phân tâm học cũng được phbiến Vit Nam. Hệ tư tưởng này độc đáo ở  
chỗ đã xác lập được nhng phm vi din gii của riêng nó về nhng hiện tượng văn  
chương nếu không sử dụng công cụ “phân tâm” thì rất khó để ththu hiểu (trường hp Hồ  
Xuân Hương chẳng hạn). Giá trị của Phân tâm học còn là việc giúp con người thc nhnvề  
bản thân, vì cội ngun ca tri thức đều là những đột biến tbản năng trong những điều  
kiện văn hoá nhất định nào đó.  
Sau Đổi mới, có thể xem phê bình - lí luận văn học Việt Nam đã nỗ lc tim cn gn  
hơn với các hệ hình tư tưởng phê bình văn học thế gii. Scp nhật trong nghiên cứu văn  
chương Việt được thhin struyền bá tư tưởng phê bình hậu hiện đại vào Việt Nam.  
Có thể nói, tất cả các trường phái nghiên cứu văn học trước đó khi vào Việt Nam, đều có  
độ lùi so với khởi điểm của nó là vào khoảng 50 năm nếu không nói là xa hơn, thì phê bình  
hu hiện đại chỉ lùi độ 10 năm và gần như bắt kp những gì đang diễn ra của trường phái  
này trên thế giới. Công bằng mà nói, sáng tác của các cây bút đương đại Việt có tên tuổi  
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016  
17  
trên văn đàn hiện nay ít nhiều đều có bóng dáng của tư tưởng hu hiện đại. Đây là hệ tư  
tưởng giải phóng tối đa năng lực tri nhận và hư cấu ca nghệ sĩ, giúp nghệ sĩ có được cái  
nhìn đa chiều và đa diện về con người. Người viết có thể đề xuất và giải quyết nhiu vn  
đề tnhiều điểm nhìn khác nhau mà các hệ hình tư tưởng khác khó có thể thc hin.  
Hin tại, khuynh hướng phê bình Kí hiệu học đang được nhiều nhà nghiên cứu Vit  
quan tâm, khởi ngun của nó gắn vi chủ nghĩa cấu trúc, một hướng nghiên cứu thiên về  
hình thức và cấu trúc nội ti của văn bản. Chủ nghĩa cấu trúc cũng được gii thiu Vit  
Nam vào những năm cuối ca thế kỉ XX nhưng không nhận được sự quan tâm nhiều. Hin  
tại, kí hiệu học được giới nghiên cứu Vit xử lí theo hướng “văn hoá” và “hậu hiện đại”,  
tức là chấp nhn vic mrng gii hn của nó ra các phạm vi liên quan như các nền tng  
lch sử xã hội, tiu sử và cả “cổ mẫu” của nó.  
Điểm qua các hướng nghiên cứu này, có thể nói tư tưởng phê bình văn học Vit Nam  
rất phong phú và đa dạng. Mỗi hướng nghiên cứu đều có mặt mạnh và mặt yếu của nó.  
Đành rằng nhng gii thiệu và vận dụng nghiên cứu các trường phái phê bình này đã có  
mt số thành tựu đáng kể nhưng nhìn chung là vẫn chưa có tính hệ thống, chưa thực sự  
chuyên sâu, tuỳ vào năng lực của nhà nghiên cứu cthể mà các hệ hình tư tưởng đó được  
phát huy thế mnh của mình.  
3. KT LUN  
Thiết nghĩ, để hc tập và tiến ti thiết lập được một trường phái phê bình văn học  
mang danh hiu Việt Nam, chúng ta cần có sự đầu tư nghiêm túc về con người và cơ sở vt  
cht một cách hữu hiệu cho tương lai, có như thế thì những tư tưởng tiến bộ và nhân văn  
của nhân loại mới có thể phát huy được sc mạnh, và con người Vit stự tin hơn khi nói  
tiếng nói của riêng mình ra thế gii.  
TÀI LIU THAM KHO  
1. Phương Lựu (2001), Lý luận phê bình văn học phương Tây thế kXX, Nxb Văn học,  
Hà Nội.  
2. Trần Đình Sử (2013), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Giáo dục Vit Nam, Hà Nội.  
3. Viện Thông tin Khoa học xã hội (2002), 100 nhà lý luận phê bình văn học thế kXX,  
Hà Nội.  
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016  
18  
THOUGHT OF LITERARY CRITICS IN VIETNAM AFTER 1986  
Abstracst: AfterInnovation of 1986, the thoughtof literary critics in Vietnam has changed.  
Vietnamese intellectuals have reached outthe world to learn, absorb and spread the  
positive thoughts in Vietnam. Typically, it is possible to mention some main trends, such  
as sociological critique, critique of dialogue, critique psychoanalytic, existential  
criticism, postmodern critique and recently it is critiqueof semiotics. Each trend of  
critiqueshasboth positive and negative points, and has enriched the literary life of  
Vietnam.  
Key words: literary critique, literary critique after Innovation, critique trends  
pdf 6 trang baolam 12/05/2022 5780
Bạn đang xem tài liệu "Tư tưởng phê bình văn học Việt Nam sau 1986", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdftu_tuong_phe_binh_van_hoc_viet_nam_sau_1986.pdf