Khát vọng canh tân đất nước của Nguyễn Bá Trác trong Hạn mạn Du kí

TP CHÍ KHOA HC  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HCHÍ MINH  
HO CHI MINH CITY UNIVERSITY OF EDUCATION  
JOURNAL OF SCIENCE  
Tp 17, S4 (2020): 598-610  
Vol. 17, No. 4 (2020): 598-610  
ISSN:  
1859-3100  
Bài báo nghiên cứu*  
KHÁT VỌNG CANH TÂN ĐẤT NƯỚC CA NGUYN BÁ TRÁC  
TRONG HN MN DU KÍ  
Võ ThThanh Tùng*, Đặng Phan Qunh Dao  
Trường Đại hc ThDu Mt, Vit Nam  
*Tác giliên h: Võ ThThanh Tùng – Email: thanhtung2212@yahoo.com  
Ngày nhn bài: 02-12-2019; ngày nhn bài sa: 11-02-2020, ngày chp nhận đăng: 18-4 -2020  
TÓM TT  
Trong những năm đầu thế kXX, nhm góp phn thc hin smệnh duy tân đất nước,  
Nguyễn Bá Trác đã lên đường sang các nước châu Á cu hc. Hành trình ca Nguyn Bá Trác kéo  
dài và gp nhiều khó khăn. Tuy giấc mơ cứu nước không thành nhưng ông đã sống hết mình vi  
khát vng và hoài bão ca tui trẻ. Điều đó được ông gi gm vào thiên du kí sinh động Hn mn  
du kí. Tác phẩm đã giúp người đọc cm nhận được phn nào tấm lòng yêu nước ca Nguyn Bá  
Trác ở giai đoạn còn là “khúc sông trong” trong cuộc đời nhiều khúc đoạn ca ông. Bài viết tìm  
hiu hai khía cnh trong khát vọng canh tân đất nước của ông, đó là mong mỏi có mt thchế  
chính trtiến bộ và đi liền với đó là một xã hi phát trin phn vinh.  
Tkhóa: canh tân; cu hc; Hn mn du kí; Nguyn Bá Trác  
1.  
Gii thiu  
Nguyễn Bá Trác sinh năm 1881 tại làng Bảo An (nay là xã Điện Quang), huyện Điện  
Bàn, tỉnh Quảng Nam. Thuở nhỏ học ở Quảng Nam, năm 1906, ông thi đỗ cử nhân Huế,  
hai năm sau ông ra Hà Nội học tiếng Pháp nhằm hưởng ứng lời kêu gọi của các nhà ái  
quốc trong phong trào Đông Du, tiếp đó ông sang Nhật du học. Khi chính phủ Nhật giải  
tán phong trào Đông Du, Nguyễn Bá Trác sang Trung Quốc. Năm 1914, ông trở về Hà  
Nội. Trong khoảng hai năm sau khi về nước, ông làm ở phòng báo chí phủ Toàn quyền  
Đông Dương và chủ bút phần bài chữ Hán của tờ Cộng Thị.  
Năm 1917, khi Phạm Quỳnh sáng lập Nam Phong tạp chí, ông đảm nhiệm phần Hán  
văn của tờ báo này. Năm 1919, sau khi thôi làm ở báo Nam Phong, ông vào Huế làm Tá lí  
Bộ Học và lần lượt trải qua các chức vụ: Tuần vũ Quảng Ngãi, Thị lang Bộ Binh, Tổng  
đốc Thanh Hóa, Tổng đốc Bình Định. Ông mất năm 1945 tại Quy Nhơn (Bình Định).  
Nguyễn Bá Trác để li nhiu tác phm có giá trị như: Hoàng Vit Giáp Tý niên biu  
(1925), Bàn vhc thuật nước Tàu (1918), Bàn vHán hc (1920), Hương giang mộng  
Cite this article as: Vo Thi Thanh Tung, & Dang Phan Quynh Dao (2020). Nguyen Ba Trac’s desire to renew  
the country in “Han man du ki”. Ho Chi Minh City University of Education Journal of Science, 17(4),  
598-610.  
598  
 
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM  
Võ Thị Thanh Tùng và tgk  
(1920), Ngã An Nam dân tc Nam tiến chi lch s(1921), My li chung cáo ca các nhà  
nho (1921), Du Thanh hòa kí (1921)… Ông sáng tác bng cchHán ln chQuc ng,  
trong đó có những tác phm ông viết bng chữ Hán, sau đó, tự dch sang chQuc ng,  
Hn mn du kí là mt tác phẩm như thế. Tác phm du kí ni tiếng này lúc đầu được ông  
sáng tác bng chữ Hán, đăng trên tạp chí Nam Phong tsố 22 đến số 35 năm 1919, 1920;  
sau đó tự dch sang chQuc ngvà tiếp tục đăng trên Nam Phong tsố 38 đến 43 năm  
1920, 1921.  
Hn mn du kí gồm 14 chương, ghi lại hành trình gian khổ kéo dài 6 năm qua các  
nước Thái Lan, Trung Hoa, Nht Bn, Hồng Kông, trong đó thời gian lưu trú tại Nht Bn  
đã để li cho tác ginhiu ấn tượng sâu đậm. Tác phẩm khi được dch ra chQuc ngvà  
đăng trên báo Nam Phong đã được độc giả đón nhận nng nhit. Bàn vtác phm này,  
Phm Thế Ngũ từng viết:  
Câu Việt văn khá mạch lc suông sẻ, đôi chỗ đăng đối du dương. Những tình tiết li kì ca  
cuộc phiêu lưu nơi đất lạ đã đem lại cho câu chuyn nhiu vhp dn. Nhất là đối vi các  
Nho gia ta khi y tng ôm cái mộng Đông du; nếu không thì trí não cũng đầy kniệm văn  
chương về danh nhân, danh thắng Trung Hoa, đọc Hn mn du kí ca Nguyn Bá Trác tht  
là thú v. Cngiới cũng hoan nghênh lắm. Bà Tương Phố tng khay gi Nam Phong ở  
đầu giường để đọc du kí ca ông Qunh (Phm Qunh), ông Trác mà mộng du đất Pháp, đất  
Tàu. Ông Dương Quảng Hàm khi làm sách Quốc văn trích diễm (1925) dành hn cho thiên  
du kí ca Nguyễn Bá Trác hai bài trích, đó là Đường đi Hương Cảng và Điếu Kim Lăng, đủ  
thấy độc giả đương thời đã thích thưởng thức dường nào. (Pham, 1965, p.326-327).  
Có ththấy đây là tác phẩm du kí không chcó giá trvmặt tư liệu mà còn rt giàu  
tính văn chương, nhưng đóng góp dễ nhn thy nht là vmt cách tân chviết, cách hành  
văn, cách phản ánh nhng vấn đề thẩm mĩ do thời đại đặt ra… góp phn vào quá trình hin  
đại hóa nền văn học dân tộc giai đoạn nửa đầu thế kXX.  
Đánh giá về cuộc đời ca Nguyn Bá Trác, Quách Tn tng viết: “Nguyn Bá Trác  
lúc theo cSào Nam hi ngoi và Nguyn Bá Trác ra làm quan cùng thc dân Pháp là  
hai khúc sông trong đục khác hn nhau” (Tran, 2012). Hn mn du kí được sáng tác khi  
Nguyn Bá Trác còn là “khúc sông trong”. Tác phm là “ni lòng” ca mt thanh niên trí  
thức yêu nước “khi chưa ngậm mùi danh li”. Khi bàn vHồ trường, một bài thơ nằm  
trong tp Hn mn du kí, Quách Tn gii thích thêm:  
Bi lòng có thdối được vi nhân thế mà không thdối được với văn chương. Vì sao vậy, vì  
văn chương phản chiếu tâm s. Trphi tấm gương phản phúc tức văn chương không thành  
văn chương, thì tâm smi blch lc. Mà bài Hồ trường văn chương chân thực, không có  
chút gitạo, nên đáng tin rằng lòng ca Nguyn Bá Trác lúc còn Hi ngoại chưa bị bùn  
danh li làm vẩn nhơ. Ít ra lúc làm bài Hồ trường, lòng Nguyn Bá Trác lng hết bùn danh  
li xuống dưới đáy sâu, nên văn chương mới được thanh tao thế ấy. Đó là mảnh gương phản  
chiếu khúc sông trong của quãng đời tha phương của Nguyn Bá Trác. (Tran, 2012).  
599  
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM  
Tập 17, Số 4 (2020): 598-610  
Quả như Quách Tấn nhận xét, sau khi đọc xong tác phm, ta cm nhận được tm  
lòng “chân thc, không có chút gito” ca Nguyn Bá Trác. Trong bài viết này, chúng tôi  
tnhn thy bản thân chưa đủ trình độ để phán xét mt nhân vt lch svn còn nhiu  
điểm chưa thống nht về cách đánh giá, nên chỉ đi vào tìm hiểu mt khía cnh trong con  
người ông khi còn là “khúc sông trong”, đó là khát vọng canh tân đất nước được ông giãi  
bày trong Hn mn du kí, mong đóng góp thêm một cái nhìn đa chiều vnhân vt lch sử  
này trong phong trào Đông Du.  
2.  
Ni dung nghiên cu  
Tình hình chính trị ở Vit Nam nhng năm đầu thế kXX hết sc ri ren. Hu hết  
các phong trào đấu tranh chng thực dân xâm lược bchính quyền đô hộ đàn áp dã man.  
Công cuc cứu nước Việt Nam rơi vào khủng hoảng. Trước tình hình y, do ảnh hưởng  
của phong trào tân thư từ Nht Bn, Trung Quốc, các sĩ phu có tư tưởng cp tiến đã cổ  
đng phong trào Duy Tân kêu gi các tng lớp thanh niên tìm đường mà “cu hc cho rng  
kiến thc”. Trong số các nước trong khu vực Đông Á cần hc hi thì Nht Bản là đích đến  
đầu tiên, vì những năm đầu thế kXX, nhhc hỏi phương Tây mà Nhật Bản đã trở thành  
quc gia giàu mnh. Theo ghi nhn ca Nguyn Bá Trác, lúc by giNht Bản đã là nước  
“Tây hóa” mt cách triệt để:  
Như Nhật Bn lúc mới duy tân, lòng người nô nc vÂu hóa. Vic chính trca chính phủ  
như: vic ngoi giao, việc quân đội, nht thiết là bắt chước Âu Mĩ đã đành, còn hình trạng  
trong xã hội, cũng vị lòng người hí tân yếm cu mà muốn thay đổi đi hồ hết. (Nguyen, 2007,  
p.116).  
Phong trào Đông Du ra đời nhm tha mãn khát vng xây dng mt quc gia tlc  
tự cường ca mt bphận thanh niên có lí tưởng. Hưởng ng phong trào này, Nguyn Bá  
Trác cũng háo hức lên đường để thc hin smnh ca một thanh niên yêu nước. Nim  
đam mê học hi, ý chí tiến thca tác gibao trùm toàn btác phm: “Cái nhiệt độ về  
lòng tiến thca tôi bây giờ đà lên đến cực điểm, lúc ra khỏi nước nhà muốn tìm được nơi  
hc hành cho thêm trí thc, biết Bangkok không phải là nơi cầu hc, lin tbạn đáp tàu mà  
đi Hồng Kông” (Nguyen, 2007, p.97), sau đó tìm đường đến Nht Bn, dù biết rng hành  
trình đến với đất nước mt tri mc này không hddàng trong bi cảnh Đông Á đang  
trong cơn “dầu sôi la bng”.  
Là sn phm ca mt thanh niên nhiều trăn trở vi vn mnh của đất nước, Hn mn  
du kí không chlà “Li kí ca một người đi chơi phiếm” (Nguyen, 2007, p.84) mà còn  
chứa đựng nhng khát vng ln lao, những ước mơ cháy bỏng vmt quc gia hùng  
cường làm tiền đề thoát khi sự đô hộ ca thc dân, phong kiến. Nói như Nguyễn Tuân thì  
nhng tác phẩm như thế này sgóp phn “thc tnh hồn nước và đổi mới hơn lên cái lòng  
yêu nước cũ” (Nguyen, 1986, p.216). Bài viết này chỉ đi vào hai khía cạnh ca khát vng  
ấy, đó là mong muốn đất nước có mt thchế chính trtiến bộ, đi cùng với thchế ấy là  
mt xã hi phát trin thịnh vượng, văn minh của Nguyn Bá Trác.  
600  
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM  
Võ Thị Thanh Tùng và tgk  
2.1. Khát vng vmt thchế chính trtiến bộ  
Ra đi với tâm thế của một nhà chính trị, do đó, sự quan tâm của Nguyễn Bá Trác  
không tập trung nhiều vào các khía cạnh như địa dư, lịch sử, phong tục tập quán, cảnh sắc  
thiên nhiên hay tôn giáo… Trong toàn bộ du kí của mình, Nguyễn Bá Trác chủ yếu tập  
trung vào những vấn đề liên quan đến cuộc sống, ý thức chính trị của người dân các nước  
mà ông đã đi qua, trong đó ông đặc biệt quan tâm đến đời sống chính trị của Nhật Bản,  
thông qua đó giãi bày những trăn trở của một người trí thức đeo nặng nỗi ưu tư trước tình  
trạng lạc hậu, yếu đuối, mất tự dotại quê nhà. Do đó, không khí chung khi đọc du kí này  
là một nỗi buồn man mác của một người con tha phương đang đau đáu về nơi cố quốc.  
Cuối thế kỉ XIX, hầu hết các nước châu Á đều trở thành miếng mồi ngon và đứng  
trước nguy cơ bị biến thành thuộc địa của thực dân phương Tây. Nhật Bản là nước duy  
nhất thoát khỏi ách đô hộ và trở thành một cường quốc. Có được thành tựu ấy là nhờ Nhật  
Bản có một thể chế chính trị tiến bộ. Thể chế ấy được xây dựng nên nhờ những người lãnh  
đạo tài năng, xuất chúng. Bằng tài trí của mình, họ đã lèo lái con thuyền đất nước vượt qua  
sóng gió để đi đến bến bờ bình yên và phát triển thịnh vượng. Chng kiến sphn thnh  
ca Nht Bn, một nước đồng văn trong khu vực Đông Á, không ít lần Nguyn Bá Trác  
bày tskhâm phục, đặc biệt là đối vi nhng nhà lãnh đạo tài ba:  
Đức Xuyên Khánh Hthc là mt nhà ái quc, một người nghĩa hiệp. Đang lúc ngoại hon  
nguy cp mà hết lòng vị nước, không kể đến quyn lợi mình là gì; đem chính quyền trong  
tay trli cho triều đình, yên được lòng người, vững được gốc nước, chuyn nguy ra yên,  
chuyn lon ra tr, thực đã có công lớn vi Nht Bn. (Nguyen, 2007, p.110).  
Trong khi các quốc gia phương Đông khác đang u mê trong chế độ độc tài quân chủ  
phong kiến thì Nht Bản đã sáng suốt thay đổi theo hướng dân ch, biết tiếp thu ý kiến ca  
những nhà canh tân để ban hành nhng chính sách ci cách kp thi nhm đưa Nhật Bn  
thoát khi tình trng lc hu, vươn lên thành một quc gia phát triển hàng đầu châu Á. Có  
được nhng thành tu ngon mc y, công lớn đầu tiên thuc vMinh TrThiên Hoàng.  
Nhắc đến ông, tác giHn mn du kí không tiếc li tán tng: “Được như thế, cũng là vì có  
Minh TrThiên Hoàng biết người khéo dùng và thần dân trong nước đều hết lòng vì nước.  
Đương lúc Mạc Phchuyên quyn, triều đình đối vi ngoi quc chdng mt cái chính  
sách ta cng” (Nguyen, 2007, p.115).  
Nguyn Bá Trác hiu rng vai trò của người lãnh đạo cc kì quan trng nếu không  
mun nói là mang tính quyết định đối vi stn vong ca mt quốc gia. Người lãnh đạo  
tài năng sẽ to nên mt thchế tiến bộ, đó là cơ sở cho sphát triển. Hơn bao giờ hết, đây  
là lúc Vit Nam cn có những người người lãnh đạo như thế để dn dắt đất nước thoát khi  
không gian ao tù cht chội châu Á đi đến bin lớn văn minh phương Tây. Đó không chỉ là  
mong mun ca riêng Nguyn Bá Trác mà còn là nguyn vng chung ca toàn dân tc lúc  
by gi.  
601  
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM  
Tập 17, Số 4 (2020): 598-610  
Đối vi thành phn quan li Nht Bn, Nguyn Bá Trác nhn thy dù khi còn ti vị  
hay lúc đã về hưu thì ngưi làm quan vn luôn mang trong mình trọng trách đối vi xã hi:  
“Ôi! Người ta còn mt ngày trong xã hi, còn phải có nghĩa vụ mt ngày. Lúc tquan mà  
vchng qua tcái chức trách đối vi chính phủ, còn cái nghĩa vụ đối vi xã hội đã thoát  
được đâu” (Nguyen, 2007, p.141). Đặt trong thế đối sánh vi tng lp quan li Vit Nam,  
ông nhn thy có skhác biệt đáng kể trong cách hành x:  
Hưu quan nước ta, trnhững người thích nhàn tản, hay là lão đại đồi đường thì không k,  
còn thì phn nhiều mượn thú cúc tùng làm mưu bảo thủ. Lúc còn làm quan, đà lo tậu my  
mu rung, sa sang cái bit thự, để lúc vãng niên vmà làm rung. By gigác xe treo án  
trời đất riêng tbc ca trvào, vic thế gii không còn hỏi gì đến nữa. Cũng có người vui  
thú nông tang, song đối vi xã hi thc không có ti hao bích gì c. (Nguyen, 2007, p.141).  
Qua so sánh, Nguyễn Bá Trác đã phần nào chỉ ra được cái tâm lí chung của người  
Vit là thích yên n, sng bàng quan, chỉ chăm chăm cho lợi ích cá nhân mà ít khi quan  
tâm đến li ích chung ca tp th. Trong cách hành xca tng lp quan li, Nguyn Bá  
Trác nhn thy phn ln chly việc mưu cầu cho địa vvà danh li làm lsng chít khi  
quan tâm đến nghĩa vụ đối vi xã hội. Điều này hoàn toàn trái ngược vi cách hành xca  
người làm quan Nht Bn.  
Nguyễn Bá Trác cũng không giấu giếm sự ngưỡng mộ đối vi mt xã hội đề cao tự  
do, dân chủ như xã hội Nht Bn. Qua tri nghim thc tế, ông nhn thấy người làm quan  
ở đây lấy sự bình đẳng, thanh liêm làm tiêu chun trong cách hành xvới dân: “Quan đối  
vi dân vốn là bình đẳng lúc làm quan cũng như lúc ở nhà, mỗi ngày đem lại thuc ra làm  
vic công. Dân có ti thì chiu theo lut mà trti. Không có ti thì quan cvic quan, dân  
cvic dân. Quan không lấy điều vô lí mà nt dân” (Nguyen, 2007, p.143). Ngược li, dân  
cũng biết tôn trng pháp lut, sng ngay thng, thun hu, không lun cúi, khiếp nhược  
trước quan: “Dân không chu khut mà nịnh quan. Trong đường trong xe gp nhau quan  
dân nht th” (Nguyen, 2007, p.143). Ly lcông bng, sự thanh liêm làm thước đo cho xã  
hội, nên: “Trong nước Nht Bn, không ai trông thấy hay là nói đến chuyn tham tang hi  
l. Nhân thế mà dân được yên phận làm ăn; biết gipháp lut thì cả đời không đến ca  
quan. Quan với dân không có điu gì là ác cm” (Nguyen, 2007, p.143).  
Sau khi chng kiến mi quan hquan – dân ca người Nht, tác gikhông khi  
chạnh lòng khi nghĩ về mi quan hbất bình đẳng gia quan và dân ti quê nhà:  
Ôi! Kẻ làm dân đã biết gipháp lut, biết trọng nhân cách, thì quan cũng nên đãi lấy bình  
đẳng. Nếu dân còn ngu, chbiết soai, không biết giữ phép, cũng phải lp uy cho dân biết  
phục tòng. Song cũng là bởi lòng yêu người tn chc mà ra. Nếu chcậy cường quyn ln  
hiếp khèn yếu thì nhân phm li hèn lm. (Nguyen, 2007, p.143).  
Nguyn Bá Trác nhn ra một điều quan trng rng xã hi Nht Bn phát trin và trở  
nên thịnh vượng là nhtinh thần thượng tôn pháp lut. Từ vua đến quan, từ quan đến dân  
không mt ai có quyền đứng trên pháp lut: “Khi Nht Bản đã ban bố hiến pháp ri, trên từ  
Thiên Hoàng dưới cho đến thứ dân đều cùng lòng cùng sức mưu cho việc nước được tiến  
602  
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM  
Võ Thị Thanh Tùng và tgk  
bộ. Lòng người đã bền, tài lực đã đủ, lại mong khoáng trương ra bên ngoài” (Nguyen,  
2007, p.114). Còn vcách thc tchc xã hi ca Nht Bn, Nguyn Bá Trác nhn thy:  
Phép tchc xã hi có “châu thc hi xã” “hợp tư hội xã”, đại để những nhà có tư bản bỏ  
tin ra lập cái thương điếm hay là cái công xưởng, để dùng cho người trong nước đến mà  
làm công. Lp ra nhà ngân hàng, hi trữ súc, để cha stin nhmn ca quc dân hp li  
thành ra slớn. Nhân dân trong nước đà có chỗ làm công, lại có nơi trữ súc, không mt thì  
gi, không phí tin ca, cho nên sinh kế ngày càng dư dụ. (Nguyen, 2007, p.140).  
Vi cách tchc xã hi tiến b, khoa hc, biết đặt li ích ca tp thlên trên li  
ích cá nhân nên xã hi Nht Bản đạt được sự ổn định lâu dài, còn kinh tế thì ngày càng  
phát trin.  
Không ít ln Nguyn Bá Trác bày tskhâm phục đối vi tinh thần yêu nước ca  
người Nht, từ Thiên Hoàng cho đến thần dân ai ai cũng một lòng hướng về đất nước. Biu  
hin rõ nht cho tinh thn ái quc y là thái độ làm vic hăng say, không mảy may tư lợi.  
Đi đâu, Nguyễn Bá Trác cũng cảm nhn rt rõ cái không khí sc sôi cng hiến ca  
người Nht:  
Lúc Thiên Hoàng đã cầm quyn chính, bao nhiêu tân nhân vật đều có thvị nước lp công  
để tạo phúc cho đồng bào. Còn nhân dân trong nước, dù đảng phái khác nhau, nghlun khác  
nhau, mà đều lấy nước làm mục đích. Kẻ xướng chủ nghĩa này, người gichủ nghĩa khác,  
cũng đều một lòng yêu nước. Kcó quyn lc không ly lc vlàm tự tư; kẻ không có quyn  
lực cũng không nhân ghen ghét mà vọng động; cho nên trên dưới một lòng, nước nhà cường  
thnh, thực là đáng lắm. (Nguyen, 2007, p.115).  
Lúc by givì quyết tâm đưa Nhật Bn “thoát Á”, “theo kịp phương Tây”, chính phủ  
Minh Trị Duy tân đã có những chính sách đúng đắn như mcửa đất nước, hc hỏi văn  
minh phương Tây…, đặc bit là chính sách thâu dng nhân tài và to mọi điều kiện để gii  
tinh hoa có cơ hội được cng hiến đã giúp Nhật Bản nhanh chóng đạt được mc tiêu “phú  
quốc cường binh” trong mt thi gian ngn.  
Đến bt cứ nơi đâu trên đất nước Nht Bn, Nguyễn Bá Trác cũng nhìn thấy nhng  
điều hay, nhng cách ng xử văn minh đáng học hi. Từ đó ông suy ngẫm vtình trng trì  
tr, lc hu, hèn yếu, mt tdo của đất nước mình và nhn ra mt thc tế nhc nhi rng:  
“Ô! Nhân dân ở đời chuyên chế phi chu bó buộc đến như thế. Không những tư tưởng  
ngôn luận mà thôi, cho đến cách ăn ở cũng phải cc súc khn nạn là dường nào” (Nguyen,  
2007, p.240). Sở dĩ người dân trong nước khsở, tăm tối là bi do cái thchế chính tr“bó  
buc” đã kìm hãm tdo, dân ch. Theo ông, mun cho cuc sng của người dân thay đổi,  
cn dp bnhững tư tưởng hp hòi, cchp, phiến din ca hthng chính trdo vua quan  
nhà Nguyễn đứng đu.  
Vi li kchuyn dung dị nhưng ẩn chứa trong đó là cả mt bu nhit huyết ca  
chàng thanh niên trtuổi đang trên đường tìm kiếm nhng lung sáng mới. Đó là tư tưởng  
mun thoát khi su mê lc hu, mun ci cách, bc phá khi nhng rào cn ca sbo  
thủ đã và đang ngự trtrong xã hi Vit Nam. Muốn đất nước phát trin, Nguyn Bá Trác  
603  
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM  
Tập 17, Số 4 (2020): 598-610  
và thế hthanh niên tiến bcùng thi vi ông hiu rng cn phi loi bli hc hành cử  
nghip, lo phát trin khoa học, kĩ thuật, tiếp thu những xu hướng nhân văn, xây dựng mt  
đường li chính trsáng sut, tôn trng bn thể con người…  
Đối vi Nguyễn Bá Trác, đi là cơ hội để khám phá nhng chân tri xa l, là giúp cho  
tầm nhìn được rng m, tha mãn khát khao hiu biết. Đi cũng là cách thúc giục mọi người  
hãy mnh dn thoát ra khi cái không gian cht chi, tù túng của lũy tre làng nhhp để  
khám phá nhng chân tri tri thc mi. Khi tm mắt được mrộng con người snhn thc  
được nhiều điều hay. Đó cũng là cơ hội để mọi người tnhìn li chính mình, xác nhn vị  
thế ca mình trong tương quan với người khác, từ đó thức nhận được vthế của nước mình  
trong tương quan với các nước khác, nhc nhlòng ttôn dân tộc, khơi gợi tinh thn yêu  
nước, cng cý chí xây dng nước nhà thành mt quc gia hùng mnh. Hành trình ca  
Nguyễn Bá Trác cũng không nằm ngoài mc tiêu cao cả ấy.  
Con đường mà Nguyễn Bá Trác và các đồng chí của ông đã đi là con đường mang  
tính thnghim, dù thành công, dù tht bại thì nó cũng cho chúng ta thấy một điều rng  
ông và những người như ông rất dũng cảm. Nói như Nguyễn Đăng Na thì chỉ có “nhng  
người tiên tiến, có khát vọng vươn lên” (Nguyen, 2001, p.62) mới dám thc hin nhng  
cuộc hành trình gian nguy như thế để hin thc hóa giấc mơ về mt quc gia thịnh vượng,  
văn minh.  
2.2. Khát vng vmt quc gia thnh vượng, văn minh  
Trong quá khứ, Việt Nam đã từng thực hiện chính sách “bế quan tỏa cảng”, chấp  
nhận sống biệt lập với thế giới bên ngoài. Như một điều tất yếu, chúng ta không theo kịp  
sự chuyển biến mau lẹ của thời cuộc, hệ quả là nền kinh tế phát triển què quặc, đời sống  
nhân dân vô cùng thảm hại. Ngược lại, Nhật Bản đã thực hiện chính sách mở cửa cùng với  
tinh thần cởi mở, ham học hỏi, biết dẹp bỏ những suy nghĩ hẹp hòi bảo thủ để tiếp thu cái  
mới, lấy văn hóa phương Tây làm mục tiêu phấn đấu nên đã vươn lên thành một cường  
quốc ở Đông Á, từ đó thu hẹp dần khoảng cách Đông – Tây. Trước tình cảnh ấy, các nhà  
nho cấp tiến như Nguyễn Bá Trác không thể quay lưng làm ngơ. Thông qua những chuyến  
đi, họ muốn góp một phần công sức nhỏ bé của mình để thay đổi nhận thức, thúc giục  
hành động.  
Nước Nhật đã làm được mt việc mà các nước khác trong khu vực Đông Á nói riêng  
và châu Á nói chung không làm được, đó là tránh đưc họa xâm lăng và xây dựng quc gia  
hùng mạnh, văn minh, xác lập vthế bình đẳng ca mình vi các liệt cường phương Tây.  
Theo Nguyn Bá Trác, Nht Bản có được thành tựu đó là nhờ biết hc hi cái hay, cái tt  
của phương Tây: “Nước Nht Bn ngày nay tht là một nước Âu hóa; chính tr, pháp lut,  
giáo dục, đều in như Âu Mĩ. Nếu không hc ngoi quốc sao được như thế” (Nguyen, 2007,  
p.120). Để tiếp thu được nền văn minh phương Tây thì không có phương cách nào hữu  
hiệu hơn là học tiếng ca họ. Người Nht ý thức được tm quan trng ca ngoi ngtrong  
vic truyn bá tri thức, nâng cao trình độ, phát trin kinh tế... Nguyn Bá Trác nhn thy:  
604  
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM  
Võ Thị Thanh Tùng và tgk  
“Sau bao nhiêu nghnghiệp nông, công, thương cổ cùng các nghề khác, cũng là nhờ sự  
hc tiếng ngoi quc” (Nguyen, 2007, p.119). Đa số người Nht lúc by giý thức được  
rng nếu “không có Anh văn thì không đủ tri thc và thc hc. Tôi muốn đem tri thc và  
thc hc truyền bá cho người trong nước tôi thì tôi phải mượn chAnh làm gii thiu”  
(Nguyen, 2007, p.120). Nguyễn Bá Trác cũng nhận thc rõ bn cht ca vic hc tiếng là  
phương tiện để khám phá tri thức, do đó ông viết: “Văn tự chlà cái khu xác bên ngoài,  
nếu không học cho đến tinh thần, dù có văn tự cũng là vô ích”. Ôi! Lời học sĩ nói thực là  
biết các phương pháp học chngoi quc vy” (Nguyen, 2007, p.120).  
Phát triển theo con đường của các nước tư bản phương Tây, những năm đầu thế kỉ  
XX, Nht Bản đã xây dựng được mt nn kinh tế hàng hóa phát trin mnh mẽ. Đi kèm đó  
là các đô thị vi các hi cảng, các ngân hàng, các công ty độc quyền, các công trường thủ  
công… xut hin ngày càng nhiu. Theo ghi nhn ca Nguyn Bá Trác, loại đô thị này to  
nên mt din mo mi cho đất nước Nht Bn:  
Nhà xếp liền như vây cá, xe điện chng chịt như bàn cờ. Mi ngày sáng sm by, tám gi,  
chiu tối năm, sáu giờ người đi đầy đường, đều là những người ở các công xưởng, các ngân  
hàng, các học sinh và các người lao động, đông đúc dị thường, thực là nhân sơn nhân hải.  
Chiều đến vàng mt tri, sao hôm sp mọc, đèn điện đã sáng rực, toàn thành chói di, khách  
mới vào thành, tưởng là mình trong mt cái rp hát ln. Kcác chn phồn hoa bên Á Đông  
nên lấy đấy là đnht. (Nguyen, 2007, p.130).  
Các đô thị ca Nht Bn trở thành trung tâm văn hóa, kinh tế sm ut không thua  
kém vi bt cứ đô thị nào ở phương Tây. Ca ngợi cái sung túc, phn thnh của nước người  
cũng là cách Nguyễn Bá Trác kích động lòng yêu nước cho các thế hthanh niên Vit Nam  
lúc by gi, thúc gic họ lên đường hc hi nhằm đổi thay vn mnh dân tc.  
Ấn tượng sâu sc mà Nguyn Bá Trác không thể nào quên khi đến Nht Bản đó là  
đất nước này không chphát trin kinh tế, quân s, khoa hc kĩ thut... mà còn hoàn thin  
văn hóa ứng x, to nên mt th“quyn lc mm” khiến thế giới ngưỡng m. Cách giao tế  
của người Nht thhin rõ nét nht thquyn lc y:  
Tuy nhiên, chỗ đô hội phn tạp như thế, mà snhân dân giao tế thc là ung dung, chỗ đông  
người cũng không nghe tiếng tào tp. Kẻ làm thuê làm mướn, cũng biết cách thiếp hip vi  
mọi người. Xe chthuê trong các ph, cứ đậu một nơi, phu xe ngồi trong xe mà đợi khách;  
cxem nht báo hay xem tiu thuyết. Khách đến lựa xe mà đi; phu xe không xô nhau, không  
tranh nhau như ở Trung Quc hay Hà Ni. Giá xe ly rt công bình, không ckhách quen  
khách lạ. Xe điện chmt hng, không phân nhất nhì. Người lên xe biết nhường nhau, con  
trẻ đàn bà ngồi trước, đàn ông người ln ngi sau. (Nguyen, 2007, p.130).  
Qua đó có thể thấy người Nht không chchú trng ti vic phát trin kinh tế mà họ  
còn quan tâm đến vic xây dng mt xã hi vi nhng giá trtốt đẹp. Còn đây là một đoạn  
ghi chép vphong tc xã hi của người Nht:  
Vic giao tiếp bởi lòng công đức, điều khen chê không chuộng hư văn. Cho đến vic ltc  
quan hôn, táng tế, cùng vãng lai thù tạc, đều dùng mt cách giản ước, tnh phí vô ích. Các  
605  
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM  
Tập 17, Số 4 (2020): 598-610  
công đoàn xã hội đều đồng lòng hp sc mà kinh doanh công này nghip khác. Từ trên đến  
dưới cả nước mt lòng, tmt ngoài mà trông, thực có cái khí tượng “đại đồng bình tr”.  
(Nguyen, 2007, p.146).  
Từ đó, tác giả Hn mn du kí so sánh vi lthói ca xmình và nhn thy xmình  
sci cách vphong tc vn “còn chm trlắm”, do đó, đa phần nhân dân lao động vn  
phi chịu đựng nhng phong tc vô lí, gây không ít phiền hà và đó cũng là một trong  
nhng nguyên nhân kéo lùi sphát trin: Lquan hôn chchuộng hư danh, lễ tang tế chỉ  
mộ ăn uống. Ôi! Phong tục chưa tốt, dân đức chưa hay, cho nên lòng người tán hoán, sinh  
kế cùng quẫn cũng vì đó. Quốc dân ta! Xin đem phong tục nước người mà sinh lòng so  
sánh. (Nguyen, 2007, p.147).  
Trong khi đề cao cách ng xcủa người Nht, Nguyễn Bá Trác cũng đồng thi liên  
tưởng đến đời sng quê nhà và chra mt thc tế rng cách ng xcủa người Vit ta vn  
còn sơ khai lắm. Nguyên nhân chính là do bị ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Hoa nên trong  
phương thức tư duy, người Việt cũng dần hình thành tính ttôn tự đại, bo th, hp hòi, ít  
ci mở để có thtiếp thu cái mi, cái tiến bộ. Đây là rào cản ln khiến dân tc Vit Nam  
trì tr.  
Nước Nht trnên giàu mnh là nhcách làm việc đầy tinh thn trách nhim ca  
mi công dân. Chng kiến cách hlàm vic, Nguyn Bá Trác không khi ngc nhiên pha  
ln khâm phc:  
Tôi xem mt việc đưa thư, càng phục quc dân Nht Bản có công đức. Những cái thư có đề  
tên hquán chỉ phân minh đã đành, còn có cái thư để lẩm, cũng phải điều tra cho đến nơi  
đến chốn. Thường thy có mt mnh danh thiếp, mà phát đệ đến bảy, tám nơi ở, tra hỏi đến  
mười my cái giấy. Cho nên thư tín không có khi nào lầm lc, vic giao thông nhân thế mà  
thịnh hơn. (Nguyen, 2007, p.133).  
Vi tinh thn làm việc hăng say, tỉ mỉ và đầy sáng tạo, người Nhật đã tạo nên mt  
thứ văn hóa đẹp đẽ. Chính văn hóa ấy đã giúp đất nước Nht Bn không chthành công  
trên con đường “đuổi kịp người Tây phương” mà còn “vượt qua người Tây phương".  
Trong du kí ca mình, Nguyn Bá Trác không ít lần so sánh, đây là cách giúp chúng  
ta nhn thức được cái ưu của bạn cũng như cái nhược của mình để đổi thay. Chỉ có đi, giao  
lưu, tiếp xúc mới giúp nhà văn có cái nhìn khai phóng như vậy. Nhìn cách làm vic ca  
người Nht, ông không khỏi liên tưởng, so sánh vi cách làm vic của người Vit và nhn  
thy có skhác bit khá ln:  
Hồi tưởng xmình, nhng chỗ hương thôn, thư tín còn chưa được tin lắm; cũng vì kẻ đưa  
thư có ít lòng công đức. Giây thép, thư tín, nhật báo, tp chí, nhân chuyển đệ gian nan, hay  
để lại làm cho người ta lvic. Ôi! Những người có nghĩa vụ vvic chuyển đệ thư tín ở xứ  
ta, cũng nên giản minh cái công đức y. (Nguyen, 2007, p.133).  
Ly vic phng sự cho đất nước làm vinh d, nên mi thành viên trong xã hi Nht  
Bn luôn cm thy hạnh phúc khi được cng hiến. Đây là một đoạn ghi chép tm, sinh  
đng vcách làm vic ca cnh binh Nht Bn:  
606  
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM  
Võ Thị Thanh Tùng và tgk  
Đến đất Nht Bản ai cũng phải phc chế độ tun cnh tht là hoàn bị. Vì có trường hc dy  
vic cnh sát, cho nên kra làm cảnh binh đều làm hết nghĩa vụ. Nghĩa vụ cnh binh là gì? –  
Là giúp vic giáo dc, gigìn vsinh, ng hpháp lut, duy trì công an, cu chính phong  
hóa. Mỗi quãng đường hay nơi hiểm yếu có người cảnh binh đeo gươm đứng bên đường,  
ngày đêm thay phiên hộ ứng liên lc, dù nắng dù mưa, cũng không sai một chút. Có người  
ngoi quốc đến đó không quen đường, không hiu tiếng, cũng phải chiếu có hv, hoc dn  
đường, hoc tìm nhà trọ, khó đến đâu cũng không từ… “Khách đi đường có bỏ rơi vật gì  
cũng giữ gìn chờ đợi cho khách li mà lấy; khách không đến mới đưa vào sở cảnh sát, để  
đăng báo mà chiêu đề. T11 giờ đêm, nhà nào cũng phải yên lng cho xóm ging ngh. Nếu  
nhà nào còn có tiếng người tào tp, phi bo chnhà tắt đèn ngủ ngay. Hc trò nhỏ đi đường  
hút thuc hoc làm sgì trái phép, cnh sát phải khuyên ngăn và can thiệp. Cnh binh không  
được ttin vào nhà ai nhng khi không có mnh lệnh quan trưởng. Trong thành ph, có  
người mi dọn nhà đi hay có người mới đến , phải đến nhà tra hi tên h, niên canh, quc  
tch, chỗ ở và làm nghnghip gì. Từ đó nửa tháng hoc mt tháng, lại điều tra mt lần, để  
vào skhi tìm hi cho dễ. Cách điều tra như thế là bo hộ cho cư dân không phải là quy  
nhiu. (Nguyen, 2007, p.134)  
Sau khi chng kiến cách làm vic của người Nht, Nguyn Bá Trác phi tht lên:  
“Ôi! Làm cnh sát mà khiến cho khách trọ coi như bạn tt, thì biết cái lòng công đức ca  
hhoàn toàn là thế nào?” (Nguyen, 2007, p.135). Với người Nht, làm vic ngoài vic  
mưu sinh thì còn có ý nghĩa là cống hiến cho dân tc nên hlàm vi tâm thế tnguyn và  
tinh thn tự hào cao độ. Cách làm việc như vậy đủ hiu vì sao nước Nht trnên  
hùng mnh.  
Nguyễn Bá Trác nhận thấy sự phát triển của Nhật Bản cũng bắt nguồn từ việc lấy  
giáo dục làm nền tảng. Chính việc cải cách giáo dục một cách toàn diện và sâu sắc đã giúp  
Nhật Bản phát triển bền vững: Dù đến bực hạ lưu như con ở nhà hàng cơm, vú sữa các  
nhà thường, cũng là có giáo dục, có thể làm hết bổn phận mà mưu sinh. Ôi! Cả nước không  
có một người hư sinh, cho nên phú cường là tại đó(Nguyen, 2007, p.139). Cuối cùng ông  
đúc kết:  
Nói tóm lại, trong nước Nhật Bản, không có một người nào là không học vấn; không có một  
chỗ nào là không có nhà trường. Trong ba cái cù lao nho nhỏ mà có đến hai vạn nhà trường.  
Những người đã vào trường đại học, chuyên môn, thực nghiệp, cao đẳng, đã có tư cách hoàn  
toàn, cũng là nhờ giáo dục từ trường tiểu học. Cho nên nước Nhật Bản được phú cường,  
người ta không quy công cho tướng sĩ trong những buổi tranh chiến Nhật – Trung”, và  
Nhật – Nga”, mà quy công cho các giáo sư ở trường tiểu học. (Nguyen, 2007, p.129).  
Trong khi các nước khác ở châu Á còn ngụp lặn trong những cuộc đấu tranh chống  
ngoại xâm thì Nhật Bản đã tạo nên những kì tích. Một trong những thành tích lớn lao của  
Nhật Bản lúc bấy giờ là phổ cập giáo dục. Chính hành động tiến bộ này đã kích thích sự  
ham học hỏi của mỗi người dân, đó là cơ sở cho sự phát triển thần kì mang tên Nhật Bản.  
Từ việc so sánh với nước Nhật, tác giả đặt ra câu hỏi nhức nhối về thực trạng cùng  
quẫn của nước ta: Tôi chép đến đây lại nghĩ đến tình cảnh sinh hoạt của người mình. Nào  
607  
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM  
Tập 17, Số 4 (2020): 598-610  
phải thổ địa không bằng người, nào phải sinh vật không bằng người; thế mà sinh kế cùng  
quẫn là tại vì đâu?”. (Nguyen, 2007, p.139). Và câu trả lời của Nguyễn Bá Trác cũng thật ý  
nghĩa và chuẩn xác:  
Vì người trong xã hội không biết thông công dịch sự, quá nửa số người trong nước là những  
kẻ vô nghiệp ăn không. Thường thấy có nhà một người ra làm việc quan, hay đi buôn bán,  
mỗi tháng lương bổng hay sinh lợi từ 10 đồng bạc trở lên cho đến 100 đồng trở xuống, thì cả  
nhà không còn ai chịu chân lấm tay bùn, cứ ngồi không mà ăn trắng mặc trơn gọi là thực  
thiên lộc. (Nguyen, 2007, p.139).  
Ý thức phản biện đã giúp Nguyễn Bá Trác nhìn thấy rõ những tệ nạnđang tồn  
đọng trong một quốc gia có đầy đủ những điều kiện để phát triển nhưng không thể phát  
triển được. Điều nghịch lí ấy làm cho những trí thức yêu nước như ông không khỏi trăn  
trở, băn khoăn. Là một công dân không thờ ơ trước những vấn đề cấp bách của dân tộc,  
trong du kí của mình, Nguyễn Bá Trác luôn mạnh dạn bày tỏ quan điểm, đề xuất ý kiến,  
đưa ra giải phápnhằm góp phần làm thay đổi thực trạng đất nước.  
Đi là phương thức giúp Nguyễn Bá Trác trang bị cho mình một thế giới quan mới  
mẻ, giúp nhìn rõ thực trạng của Việt Nam trong mối tương quan với Nhật Bản. Bằng nỗ  
lực của mình, ông muốn góp phần nhỏ bé vào công cuộc “cải tạo phương thức tư duy”,  
giúp người Việt Nam có cái nhìn thoáng mở, nhận thức được những ưu việt của văn hóa  
phương Tây và học hỏi họ để phát triển như Nhật Bản đã từng làm. Đánh giá về đóng góp  
của Nguyễn Bá Trác trong phong trào Đông Du, Phạm Hoàng Quân từng viết:  
Nếu xem học vấn là một nhu cầu mang tính nền tảng trong việc khai mở dân trí, những  
người nối dài phong trào Đông Du ít khi được nhắc đến nói trên đã để lại cho chúng ta rất  
nhiều, ngoài những giá trị trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến sự canh tân đất nước sau  
này còn ẩn chứa những bài học về nghị lực cầu tìm tri thức và tinh thần học thuật không biên  
giới, có thể nói còn hơn cả người nay ở giá trị gợi mở, đem đến cho môi trường học thuật  
luồng gió mới. Nhưng tất cả chỉ mới bắt đầu. (Pham, 2014)  
Tuy có lúc Nguyễn Bá Trác hơi cực đoan, nhưng ta hiểu đằng sau sự cực đoan ấy là  
một tấm lòng luôn hướng về quê hương đất nước. Với những trang ghi chép tỉ mỉ về cuộc  
sống, sinh hoạt nơi xứ người, Nguyễn Bá Trác góp phần làm cho bức chân dung tự họa của  
ông và thế hệ trí thức giàu lòng yêu nước như ông càng thêm rõ nét. Rong rủi khắp nơi để  
thu lượm kiến thức làm hành trang nhằm góp một phần bé nhỏ vào công cuộc “khai dân  
trí” để “chấn dân khí” và “hậu dân sinh”. Tiếp nối hành trình dấn thân hành đạo của các  
nhà Nho đi trước như Nguyễn Trường Tộ, Đặng Huy Trứ, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Lộ  
Trạch... Nguyễn Bá Trác và thế hệ trí thức tân tiến như ông tiếp tục công cuộc phá vỡ  
thành trì của những lề thói phong kiến lạc hậu, lỗi thời, đang là lực cản lớn cho sự tiến bộ  
xã hội, từ đó làm tiền đề cho dân tộc Việt Nam từng bước thoát khỏi sự đô hộ của  
phương Tây.  
Ở phương diện sử liệu, Hạn mạn du kí là minh chứng sống động cho một thời kì lịch  
sử nhiều biến động của xã hội Việt Nam nói riêng và Đông Á nói chung những năm đầu  
608  
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM  
Võ Thị Thanh Tùng và tgk  
thế kỉ XX. Tác phẩm ghi chép tỉ mỉ từng chi tiết hoàn cảnh, sự kiện chính trị trên mỗi  
chặng đường mà tác giả đi qua. Hơn hết là số phận mong manh đầy bi thương của những  
thân phận con người trong hoàn cảnh chiến tranh de dọa thường xuyên. Tác phẩm cũng để  
lại cho người đọc nhiều trăn trở về sự lựa chọn đầy khó khăn của thế hệ thanh niên đương  
thời. Có người chọn theo con đường xuất dương để thực hiện lí tưởng cứu quốc, nhưng  
cũng có người chấp nhận làm tay sai cho giặc… quả thật là một thời kì đầy “bấn loạn”, con  
người bị quay cuồng trong cơn lốc chiến tranh.  
Về phương diện văn học, tác phẩm có nhiều đóng góp vào quá trình hiện đại hóa nền  
văn học nước nhà. Trước hết, đó là một thiên kí sự hấp dẫn giúp người đọc mở rộng tầm  
nhìn. Sau nữa là góp phần giúp cho một thể loại văn học vốn được xem là “chiếu dưới”,  
“cận văn học” xác lập chỗ đứng trong dòng chảy của nền văn học hiện đại, làm cho đời  
sống văn học trở nên phong phú, hấp dẫn hơn. Du kí viết về thế giới nói chung và Hạn  
mạn du kí nói riêng còn mang “sứ mệnh” của quá trình giao lưu văn hóa, trong đó nổi bật  
là hành trình đi tìm những tư tưởng mới gắn liền với công cuộc duy tân đất nước.  
3.  
Kết luận  
Với những hải trình hàng vạn dặm, Hạn mạn du kí đã chiếm lĩnh một không gian  
nghệ thuật rộng lớn, đặt ra những vấn đề quan trọng đối với công cuộc duy tân ở Việt  
Nam. Tuy nhiên, cái làm nên sức nặng cho du kí này chính là những trang ghi chép nặng  
trĩu tâm tư của Nguyễn Bá Trác: “Thế giới như ngày nay, phong trào cạnh tranh càng ngày  
càng kịch. Đại trượng phu sinh ở thời, cũng nên đi cho cùng bốn bể, học cho khắp năm  
châu, thu lấy mây Mĩ mưa Âu mà tẩm nhuận cho thiên hạ” (Nguyen, 2007, p.181). Nó là  
minh chứng cho khát vọng vươn lên để tự khẳng định mình của một dân tộc phương Đông  
vốn nhỏ bé đang chịu sự thống trị của ngoại bang. Đi và chứng kiến một thế giới khác lạ  
rộng lớn hơn để mở rộng tầm mắt, để nhìn lại chính mình và thấy cần thiết phải thay đổi.  
Hạn mạn du kí nói riêng và du kí Quốc ngữ viết về thế giới nói chung “đòi hỏi người viết  
cả vốn tri thức, yêu cầu công việc, ý chí của người ham hoạt động, ham xê dịch và điều  
kiện, khả năng kinh phí. Đặt trong bối cảnh văn hóa – xã hội đương thời thì các du kí này  
quả đã mở ra những chân trời nhận thức mới, đưa lại niềm phấn khích bởi những trang ghi  
chép, miêu tả sống động của người trong cuộc, người trải nghiệm, chứng nghiệm”  
(Nguyen, 2011, p.633).  
Tuyên bvquyn li: Cá c tá c gixá c nhận hoàn toàn không có xung đột vquyn li.  
609  
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM  
Tập 17, Số 4 (2020): 598-610  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
Nguyen, D. N. (2001). Vietnamese narrative prose of the medieval period [Van xuoi tu su Viet Nam  
thoi trung dai]. Episode II. Hanoi: Education Publishing House.  
Pham, T. N. (1965). New and simplified compilation of Vietnamese historical literature [Viet Nam  
van hoc su gian uoc tan bien]. Episode 3. Saigon: Quoc hoc tung thu Publishing House.  
Pham, H. Q. (2014). Dong Du – a point of view [Dong Du – mot goc nhin]. Tuoi Tre online,  
January 30, 2014. Retrieved September 20, 2019 from: https://tuoitre.vn/dong-du---mot-goc-  
Tran, T. S. (2012). Ho Truong memorabilia [Ki vat Ho Truong]. Retrieved September 20, 2019  
from:  
date: March 13, 2012.  
Nguyen, H. S. (Selection, introduction) (2007). Viet Nam travel writing, Nam Phong magazine  
1917 – 1934 [Du ki Viet Nam, Tap chi Nam Phong 1917-1934]. Episode I. Hochiminh City:  
Tre Publishing House.  
Nguyen, H. S. (2011). Travel writing of Vietnamese writing about other countries and their  
contributions to the modernization of Vietnamese prose in the nineteenth and early twentieth  
centuries [Du ki cua nguoi Viet Nam viet ve cac nuoc va nhung dong gop vao qua trinh hien  
dai hoa van xuoi tieng Viet giai doan the ki XIX - dau the ki XX. In Modern East Asian  
literature from a comparative perspective [trong sach Van hoc can dai Dong A tu goc nhin  
so sanh] (Đoan Le Giang editor). Hochiminh City: Tre Publishing House. p.632-645.  
Nguyen, T. (1986). Profession stories [Chuyen nghe]. Hanoi: Tac pham moi Publishing House.  
NGUYEN BA TRAC’S DESIRE TO RENEW THE COUNTRY IN “HAN MAN DU KI”  
Vo Thi Thanh Tung*, Dang Phan Quynh Dao  
Thu Dau Mot University, Vietnam  
*Corresponding author: Vo Thi Thanh Tung – Email: thanhtung2212@yahoo.com  
Received: December 02, 2019; Revised: February 11, 2020; Accepted: April 18, 2020  
ABSTRACT  
In the early years of the twentieth century, in order to contribute to the realization of the  
country's renovation mission, Nguyen Ba Trac went to other Asian countries to learn how. Nguyen  
Ba Trac's journey was long and difficult. Although his dream of liberating the country was not  
fulfilled, he lived his life with the aspirations and ambitions of youth. These were reflected in his  
vivid travel writing “Han man du ki”. The work has helped readers feel partly the patriotism of  
Nguyen Ba Trac at the stage of so-called "a clear river" in his multi-stage life. The article explores  
two aspects of his desire to reform the country: to have a modern political ideology accompanied  
by a prosperous developed society.  
Keywords: renew; to learn; Han man du ki; Nguyen Ba Trac  
610  
pdf 13 trang Hứa Trọng Đạt 09/01/2024 340
Bạn đang xem tài liệu "Khát vọng canh tân đất nước của Nguyễn Bá Trác trong Hạn mạn Du kí", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfkhat_vong_canh_tan_dat_nuoc_cua_nguyen_ba_trac_trong_han_man.pdf