Vấn đề dịch thơ Maiakovski ở Việt Nam
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN
Soá 9 - Thaùng 4/2012
VẤN ĐỀ DỊCH THƠ MAIAKOVSKI Ở VIỆT NAM
HOÀNG KIM THANH(*)
TÓM TẮT
Thông qua việc so sánh các bản dịch thơ Maiakovski của một số dịch giả Việt Nam,
bài viết góp phần khẳng định một mệnh đề của lí thuyết Tiếp nhận văn học: Người dịch là
một kiểu độc giả đặc biệt, bản dịch là một cách đọc, có vai trò định hướng và định giá
nguyên tác.
Từ khoá: bản dịch, dịch giả, cách đọc, nguyên tác, Maiakovski, thơ
ABSTRACT
Through the comparison of the translations of Maiakovski’s poems by some
Vietnamese translators, the article affirms the statement of the theory of literary reception:
a translator is a special type of readers whose translated text shows how he has read the
original text, and role is to orient and evaluate it.
Key words: translation(s), translator, how to read, original text, Maiakovski, poem
Dịch là một cách đọc – nhận định này Chúng tôi xin nêu trường hợp các bản dịch
không mới, thậm chí đã thành cách ngôn. thơ V. Maiakovski (1893-1930) của Trần
Đối với Lí thuyết Tiếp nhận văn học, nó là Dần (1926-1997), Hoàng Ngọc Hiến
một mệnh đề quen thuộc khi đề cập đến (1930-2011) và Thế Phong (1932) để thấy
người biên dịch trong vai trò người đọc lí những cách hình dung không hoàn toàn
tưởng.
Sau khi được công bố, tác phẩm văn
giống nhau về nhà thơ Nga vĩ đại.
Ở Việt Nam, tên tuổi Maiakovski được
học bắt đầu bước vào hành trình đi tìm số biết đến như một trong những lá cờ đầu của
phận của mình trong công chúng độc giả. văn học xã hội chủ nghĩa, được trân trọng
Tuy nhiên, đối với tác phẩm nước ngoài, đưa vào giáo trình đại học. Tuy nhiên,
còn cần thêm một khâu trung gian nữa – đó những người dịch thơ ông khá thưa thớt, so
là dịch thuật. Và dịch giả, trong trường hợp với đội ngũ đông đảo dịch thơ A. Pushkin,
này, là người đọc đầu tiên, có vai trò quan S. Esenin, A. Blok,… Có thể lí giải điều
trọng trong việc định hướng, định giá này như sau: Thơ Maiakovski không quen
nguyên tác.
thuộc lắm với “gu” thẩm thơ của công
Trong bài viết nhỏ này, chúng tôi chúng Việt Nam; cú pháp thơ ông khá trúc
muốn bàn về chính cái tính cách định trắc, thường xuyên xuất hiện từ vựng mới
hướng và định giá này của người đọc - dịch (do nhà thơ sáng tạo), cách ngắt nhịp điệu
giả. Khi tiếp cận tác phẩm văn chương không theo thông lệ... Nghĩa là, xông vào
thông qua bản dịch, thường xuyên xảy ra địa hạt dịch thuật thơ ông phải là những
trường hợp cùng là một nguyên tác nhưng người có bản lĩnh nghệ thuật và tất nhiên
có những cách dịch, cách đọc khác nhau.
phải hiểu, yêu thơ ông.
Dịch giả của Maiakovski ở Việt Nam
(*) ThS, Học viện Kĩ thuật Quân sự
29
không nhiều, nhưng khá thú vị khi bàn về
Người thứ ba chúng tôi muốn nói đến
cách dịch của họ như những cách đọc khác trong tư cách dịch giả của Maiakovski là
nhau, trong đó không hiếm khi bị chi phối nhà văn Thế Phong. Sự nghiệp văn chương
bởi ý thức hệ.
Dịch giả Việt Nam nổi tiếng nhất của Thơ, truyện, phê bình văn học, khảo luận
Maiakovski là Hoàng Ngọc Hiến. Ông
được mệnh danh là “nhà Maiakovski học”. Phong không phải là dịch thơ Maiakovski,
Danh hiệu này của ông, cho đến nay vẫn là
duy nhất ở nước ta. Ông viết: “Tôi đã viết hồi kí văn chương Poète Russe của Elsa
của ông được tính bằng nhiều thể loại:
và dịch thuật. Thực ra, mục đích của Thế
ông chỉ thực hiện việc này khi dịch cuốn
nhiều tiểu luận, đã dịch hàng ngàn trang
thơ và kịch Maiakovski. Đối với tôi,
Maiakovski là một sự ám ảnh, một ám ảnh
lớn”1. Về tiêu chí tín và đạt, có thể trông
đợi ở những trang dịch của Hoàng Ngọc
Hiến. Luận án tiến sĩ của ông là viết về
Triolet (mà ông đặt là Maiakovski và mối
tình câm), trong đó có nhiều đoạn dài các
thi phẩm của nhà thơ Nga. Trong tổng số
113 trang dịch của cuốn Poète Russe, ước
tính có khoảng 50 trang là thơ.
Về nguồn dịch, ta thấy chỉ có Hoàng
Maiakovski. Những người hướng dẫn ông Ngọc Hiến dịch từ nguyên tác tiếng Nga,
tiếp cận nghệ thuật nhà thơ Nga vĩ đại là
những chuyên viên có hạng, trong đó có cả
hai người còn lại dịch thông qua bản tiếng
Pháp (nghĩa là văn bản bị dịch hai lần), có
Lili Brick – người phụ nữ nổi tiếng của lúc họ cùng dùng chung bản của Elsa
Maiakovski.
Nếu Hoàng Ngọc Hiến là người am cơ hội tiếp xúc với các bản dịch của hai
tường tiếng Nga, có khả năng dịch
Maiakovski từ nguyên tác một cách thoải Trần Dần chuyển ngữ từ bản của họ, đối
mái và khá nhuần nhuyễn, thì Trần Dần
không có được lợi thế này. Bù lại, ông là tôi thấy nguyên tắc tín và đạt hoàn toàn
một nhà thơ, say mê một nhà thơ, một thời
coi Maiakovski là thần tượng thi ca của Triolet là nhà thơ Pháp gốc Nga, có quan
mình, thậm chí chịu ảnh hưởng rõ rệt xu
hướng nghệ thuật đó. Hoàng Ngọc Hiến năng bà không hiểu ngôn từ thi ca
ghi nhận: “Đến nay, tôi đã dịch xong hầu
hết những tác phẩm chính của Maiakovski. chuyển tải nổi ý tưởng hàm ẩn của ông
Triolet và Luis Aragon. Chúng tôi chưa có
nhà thơ Pháp này, nhưng thông qua cách
chiếu lại với nguyên tác tiếng Nga, chúng
được đảm bảo. Cũng cần nói thêm, Elsa
hệ mật thiết với Maiakovski, khó có khả
Maiakovski, và khó có khả năng bà không
Còn lại một tác phẩm quan trọng chưa dịch
được, đó là bản trường ca Cây sáo - cột
sống. Đây không phải là một tác phẩm khó
sang tiếng Pháp.
Để xem cách các dịch giả đọc, tiếp
nhận Maiakovski, chúng ta thử đối chiếu
dịch. Nhưng trước mắt tôi có bản dịch của họ dịch như thế nào cùng một văn bản.
Trần Dần là một bản dịch tuyệt vời. Tôi đã
dịch đi dịch lại nhiều lần bản trường ca này ca tiêu biểu của thi sĩ Nga là Đám mây mặc
Chúng tôi chọn vài đoạn trong bốn trường
nhưng cho đến nay chưa có bản nào sánh
quần, Cây sáo - cột sống, Vladimir Ilitch
Lénine và Lớn tiếng.
được với bản dịch của Trần Dần”2.
30
Đoạn đối chiếu 1: Облако в штанах
Nguyên tác tiếng Nga Bản dịch của Hoàng Ngọc Hiến
Bản dịch của Thế Phong
Я,
воспевающий Tôi ca ngợi nước Anh và máy móc Tôi tụng ca nhà máy ở Anh
rất có thể, tôi chẳng là gì hết, chỉ quốc
машину и Англию,
может
просто,
быть, là vị thánh đồ thứ mười ba trong có lẽ chỉ có mình tôi
cuốn Phúc Âm thông thường nhất trong số những kẻ thờ ơ với
Chúa
в
самом Và trong lúc
tôi bô bô bậy bạ –
обыкновенном
Евангелии
тринадцатый
апостол.
И когда мой голос
похабно ухает -
от часа к часу,
целые сутки,
может быть, Иисус
Христос
là con chiên thứ mười ba Và
trong tiếng nói của tôi vang
lên như tiếng chim kêu đêm
ô uế giờ này đến giờ khác
này là đêm đã về
có lẽ Jésus Christ
hít hương thơm mysotis từ
tâm hồn ta.
biết đâu, ngày đêm
hết giờ này giờ nọ
Chúa Kitô cứ ngửi mãi không thôi
những đoá lưu li của tâm hồn tôi
(Đám mây mặc quần, 1915)
(Mây quần hội, 1915)
нюхает
моей души незабудки.
Đoạn đối chiếu 2: Флейта-позвоночник
Nguyên tác tiếng Nga Bản dịch của Trần Dần
Bản dịch của Thế Phong
Будешь за море отдана, Dù em đã thề nguyền bên kia Mà
спрячешься у ночи в норе - mây nước
я в тебя вцелую сквозь dù em ẩn mình trong ổ kín
anh hứa hẹn
ở bên kia bờ,
tôi sẽ hôn anh
туманы
Лондона ban đêm
anh sẽ hôn em qua sương
đục Luân Đôn
В зное пустыни вытянешь cặp môi lửa đèn lồng héo hắt
караваны,
огненные губы фонарей.
ở bên kia
bờ sương mù
Luân Đôn
Đôi môi lửa
dưới
ánh đèn đêm.
Dù trong bãi bình sa cát
начеку,-
где
львы
тебе
под
chảy
пылью,
ветром em đi, dằng dặc đoàn người trong sa mạc
dù ở nơi đây sư tử đứng nóng cháy
da thịt
người
như
căng nứt
và sư tử
рваной,
положу Сахарой горящую canh
щеку.
anh vẫn áp lên em
nóng bỏng
má Sahara anh
gió quật bụi lầm
31
(Ống sáo đốt xương sống,
1916)
thay
người gìn giữ –
và tôi
thử
giả dụ
là anh
đã nằm
dưới bụi, xương
tan tành
vì gió
má tôi
cháy bỏng
Sahara.
(Tiếng sáo của người, 1916)
Đoạn đối chiếu 3: Владимир Ильич Ленин
Nguyên tác tiếng Nga Bản dịch của Hoàng Ngọc Hiến
Время. Thời gian
Tôi bắt đầu
kể chuyện Lênin
Bản dịch của Thế Phong
Vào thời kỳ này
tôi bắt đầu
Начинаю
про Ленина
viết
рассказ.
Nhưng phải đâu
lịch
Но не потому,
что горя
đã nguôi
sử đời Lénine
nhưng không phải vậy
mà người ta
niềm đau xót,
нету более - Vì chưng
время
nỗi nhớ thương
потому,
da diết
không thấm cảm
что резкая đã sáng lòng tôi,
ý thức rọi tâm tình
стала ясною
тоска
nỗi đớn đau
bây giờ
осознанною
là lúc niềm đớn đau
chia lìa,
trở thành
болью.
[…]
[...]
Tôi
tắm mình
dưới ánh sáng Lênin
sự xấu xa lương tâm
trong
Я
себя
để rẽ sóng
sáng
под Лениным
bơi xa
trên
[…]
чищу,
дальше,
dòng
Tôi, tôi tự lau chùi
sự sáng chói
Lénine
чтобы плыть
cách mạng
в
революцию (Vlađimir Ilits Lênin, 1925)
để đào sâu hơn nữa
32
cuộc
cách
mạng
(Vladimir Ilitch Lénine,
1925)
Đoạn đối chiếu 4: Во весь голос
Nguyên tác tiếng Nga
И все
Bản dịch của Hoàng Ngọc Hiến Bản dịch của Thế Phong
Và mọi quân đoàn
vũ trang đầy đủ nhất,
hai mươi năm nay trong chiến giới tới cằm
thắng
mà hai mươi năm
trong thành công rải
Và tất cả
поверх зубов
вооруженные войска,
что двадцать лет в
победах
đoàn quân trang bị khí
пролетали,
до самого
tung hoành
xin hiến dâng người, vô sản của rác
hành tinh,
hiến dâng toàn bộ,
последнего листка
я отдаю тебе,
планеты пролетарий.
Рабочего
tôi sẽ tặng cho họ
đến trang cuối
cho mi,
vô sản địa cầu
Tất cả vô địch
của giới thợ thuyền
luôn luôn là
thù địch tôi thề hận
Chúng nó bảo ta
đi phục vụ
dưới màu cờ đỏ
năm khốn khó
những ngày không có
ăn
tận trang cùng, dòng cuối
kẻ thù của công nhân,
giai cấp đông ức triệu
là thù của tôi
vốn rõ mặt tỏng tong.
громады
класса враг -
он враг и мой,
отъявленный и Những năm lam lũ
давний.
Велели нам
và những ngày ăn đói
thôi thúc chúng tôi đi
dưới ngọn cờ hồng
идти
под
красный флаг
года труда
и дни недоеданий.
[…]
[…]
Đến trước
[…]
Trước
Trung ương
Đảng
những năm sáng sủa,
Явившись
đám C.C.C.
những năm trong
в
Це Ка Ка
идущих đạp lên đầu
lũ nhà thơ
sáng
ở trên
bịp bợm, giỏi là bọn can đảm
và bọn ăn
светлых
над
лет,
бандой
xoay
tôi giơ cao lên
cắp thi ca,
поэтических
tấm thẻ Đảng tôi tôi đứng dậy
рвачей
и
выжиг я đây,
như con bài của
подыму, trăm tập
Đảng
как
sách thơ tôi,
toàn tập
33
большевистский
партбилет,
sách Đảng.
(Lớn tiếng, 1930) Bolchéviks…
(Giọng nói lớn, 1930)
tác phẩm của tôi:
все
сто
моих
томов
партийных книжек
Nói đến dịch thuật, người ta thường buộc phải bảo đảm tiêu chí này: Nguyên
tác có nhã thì bản dịch mới cần nhã. Còn
như chuyển một nguyên tác không nhã
thành một bản dịch nhã tức là không tuân
thủ nguyên tắc tín. Điều này cần đặc biệt
lưu ý ba nguyên tắc là tín, đạt, nhã. Một
bản dịch cần vừa đảm bảo độ tin cậy, vừa
diễn đạt đủ ý, vừa phải tao nhã. Thực ra,
việc diễn đạt đủ/đạt ý cũng nằm trong tiêu
chí tín. Chữ tín/đạt này được hiểu không lưu ý khi dịch thơ của các nhà Vị lai4. Các
phải là lối chuyển dịch từ sang từ (word by tác phẩm của V. Maiakovski là trường hợp
word), mà là chuyển lại nội dung ngữ như vậy. Thơ ông là một hình thức mới
nghĩa, văn phong, thậm chí cả nhịp điệu trong việc cắt đứt mọi vần điệu, hoà trộn
của nguyên tác sang một ngôn ngữ khác. văn ngôn với khẩu ngữ, nhịp điệu biến hoá
Giữa dịch ngôn ngữ (language translation) khôn lường.
và dịch ý nghĩa (interpretative translation)
Ba dịch giả trên đây cố gắng chuyển tải
giới dịch thuật đánh giá cách dịch sau hơn nội dung và hình thức câu thơ của nhà thơ -
cách dịch trước. Đọc một số đoạn trích chiến sĩ cộng sản Nga, nhưng không phải
dịch của Thế Phong trên đây, ta dễ có ấn ai cũng thành công. Qua bản dịch của từng
tượng là dịch ở cấp độ từ và câu, trong khi người, ta nhìn thấy người nghệ sĩ trong cá
ấy dịch ý nghĩa phải là dịch ở cấp độ văn nhân họ, đồng thời nhìn thấy họ nhìn nhà
bản. Dịch thuật cũng là một công việc sáng nghệ sĩ Vị lai Maiakovski như thế nào. Ở
tạo, đòi hỏi mỗi dịch giả là một nhà nghệ bản dịch của Trần Dần, ta thấy nổi bật
sĩ; dịch phẩm hay/dở phụ thuộc rất nhiều trước hết là phẩm tính của một thi sĩ. Ngoài
vào điều này. Tuy nhiên, dù có sáng tạo ví dụ mà chúng tôi đưa ra đối chiếu trong
như thế nào, người dịch vẫn phải trung bài viết này, Trần Dần còn dịch nhiều thi
thành với nguyên tác về nội dung, văn phẩm khác của Maiakovski với một sự tinh
phong. Anh ta không có quyền áp đặt nội tế, tài hoa đặc biệt. Tuy nhiên, chất trữ tình
dung, tư tưởng hay giọng điệu khác cho lai láng trong bản dịch của ông dường như
nhà văn. Dịch giả buộc phải dạo cùng một hơi nhiều so với nguyên tác, cho nên chưa
cung đàn mà tác giả biểu diễn. Albert thật sự làm nổi bật tính nguyên sơ và sự
Karenski khuyến cáo: “Tôi xin nhắc lại thô nhám rất đặc trưng của “quặng lời”
một điều tâm niệm: Trong lao động dịch Maiakovski. Đặc điểm này được khắc phục
thuật, phải giới hạn một cách có ý thức cá trong các bản dịch của Hoàng Ngọc Hiến.
tính sáng tạo của mình theo hướng có lợi
Bên cạnh đó, Hoàng Ngọc Hiến còn khá
thành công trong việc chuyển tải hình thức
cho tác giả mình dịch”3. Còn chữ nhã, theo
kinh nghiệm của nhiều dịch giả, không nên thơ bậc thang, với cách ngắt nhịp để tạo ý
coi là nguyên tắc chung của dịch thuật, bởi và thay cho vần điệu. Ông ý thức được việc
không phải bất cứ dịch phẩm nào cũng
cần phải tạo nên những từ ngữ tương
34
đương trong tiếng Việt khi chuyển tải các độc giả lĩnh hội được một tinh thần phản
hình ảnh phóng đại có khả năng đập vào thị kháng nào đó của Maiakovski đối với
giác người đọc, các từ ngữ có hiệu lực âm chính quyền – điều mà thực ra không thấy
thanh tối đa dội vào tai người nghe – đặc ở nguyên tác của ông nói chung và trong
trưng của thơ Vị lai. Bản dịch của Thế bài thơ được Thế Phong dịch nói riêng.
Phong thiếu vắng khá nhiều điều căn bản Càng về cuối đời, Maiakovski càng thất
trên, bên cạnh đó có thể quan sát nhiều chỗ vọng vì “vấp đời phàm tục” trong lí tưởng
dịch còn sai, thậm chí trái nghĩa, cho nên phục vụ xã hội cũng như trong nhiều mối
khó chuyển tải đến người đọc chân dung quan hệ cá nhân, tinh thần phê phán của
chân thực về con người cũng như phong ông đối với những bất cập của đời sống
cách nhà thơ hàng đầu của nền thi ca xã hội càng trở nên sâu sắc, chua chát hơn, nhưng
chủ nghĩa. Maiakovski trong nguyên tác bảo đó là sự phản kháng chế độ Xô-viết thì
cao lớn, chói sáng, hào sảng hơn rất nhiều, không phải. Khác với S. Esenin “Sẵn sàng
thật sự là một tháp đài sững sững, biểu dâng hết lòng mình cho tháng Mười tháng
tượng cho sức mạnh và vẻ đẹp một thời Năm/ Nhưng riêng thơ mình tôi xin giữ
lãng mạn cách mạng.
lại”, Maiakovski từ ngày đầu đến với cách
Hai dịch giả miền Bắc, dù thông qua mạng xã hội chủ nghĩa cho đến phút cuối
nguyên tác Nga ngữ hay thông qua bản nghiệt ngã của cuộc đời, vẫn thề nguyện
dịch trung gian Pháp ngữ, đều nhìn thấy dành toàn vẹn con người và thơ ca cho Xô-
trong Maiakovski một nhà thơ trung thành viết”6.
với lí tưởng cộng sản đến từng con chữ,
Dịch thuật được coi là sự mở đầu đọc
từng dấu phẩy, đến hơi thở cuối cùng, văn bản của người dịch và là sự nối tiếp
nguyện hiến dâng trọn vẹn mình cho “vô đọc của độc giả sau đó, góp phần quan
sản của hành tinh”. Ở bản dịch của Thế trọng định hướng tiếp nhận cũng như xác
Phong, ta thấy không phải hoàn toàn như định giá trị tác phẩm nghệ thuật. Việc
vậy. Ông dịch Poète Russe lần đầu vào chuyển tải trung thành và có tính nghệ
năm 1963, trong hoàn cảnh Sài Gòn tiếp thuật một nguyên tác sang ngôn ngữ khác
nhận văn học Nga nhiều điều cơ bản khác đòi hỏi lòng say mê, kiên trì, lao động
với miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Phạm Thị nghiêm túc. Maiakovski là một hiện tượng
Phương nhận xét: “Thế Phong có một cách đặc biệt của văn hoá đọc. Để tiếp cận được
“đọc” khác so với cách “đọc” của Hoàng với ông, cần phải có những bản dịch thật
Ngọc Hiến. Cách đọc đó hình như phù hợp sự biết “đọc” ông, “nghe” được ông. Làm
với một tinh thần muốn nhìn thấy sự phản được điều ấy, thì dù cho ý thức hệ, cảm
kháng của người nghệ sĩ đang sống “sau
bức màn sắt”5. Đọc từng đoạn cũng như
toàn bộ văn bản thơ dịch trong Maiakovski
– thi sĩ Nga hay mối tình câm của nàng,
quan thẩm mĩ của người đọc thế hệ sau có
chuyển hướng cơ bản so với thời đại ông,
nghệ thuật của ông vẫn mãi trường tồn.
Chú thích:
1 Hoàng Ngọc Hiến (2005), Từ Maiakovski đến Evtusenko, Nxb Đà Nẵng, tr. 5.
2 Hoàng Ngọc Hiến (2005), Sđd, tr. 7.
35
3
Karenski, A. (1996), “Cá tính sáng tạo của dịch giả và “thính giác tu từ”, Văn học nước
ngoài, số 3, Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội, tr. 221.
4
Chủ nghĩa Vị lai (Futurism, Футуризм): tên gọi chung của một trong những trào lưu
tiên phong chủ nghĩa trong nghệ thuật thập niên 1910 - 1920, thịnh hành chủ yếu ở Ý và
Nga. Các nhà Vị lai tuyên truyền phá hủy các hình thức và quy ước của nghệ thuật cũ, vì
lợi ích của việc sáp nhập nghệ thuật với quá trình tăng tốc cuộc sống thế kỉ XX. Đặc trưng
của xu hướng này là nghiêng về hành động, chuyển động, sức mạnh, tốc độ, sự phong đại;
đề cao dấu hiệu thị giác; từ ngữ được giải phóng khỏi khuôn khổ cứng nhắc của thứ tự cú
pháp, của kết nối logic; từ bỏ lối viết tuyến tính; xây dựng văn bản trên sự tương đồng giữa
nhiều hình thức.
5 Phạm Thị Phương (2010), Văn học Nga tại đô thị miền Nam 1954-1975, Nxb Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 86.
6 Phạm Thị Phương (2010), Sđd, tr. 86.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Ngọc Hiến (2005), Từ Maiakovski đến Evtusenko, Nxb Đà Nẵng.
2. Karenski, A. (1996), “Cá tính sáng tạo của dịch giả và “thính giác tu từ”, Văn học
nước ngoài, số 3, Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội.
3. Маяковский Владимир Владимирович (1978), Полное собрание сочинений.
Москва, Издательство “Правда”.
4. Maiakovski, V. (1987), Trường ca, Hoàng Ngọc Hiến dịch và giới thiệu, Hà Nội, Nxb
Văn học.
5. Maiakovski, V, Trường ca Ống sáo đốt xương sống, Trần Dần dịch, Nguồn:
6. Phạm Thị Phương (2010), Văn học Nga tại đô thị miền Nam 1954-1975, Nxb Đại học
Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
7. Triolet, Elsa (1963), (1968), (2004), Maiakovski và mối tình câm, Thế Phong dịch,
Nxb Tổng hợp Đồng Nai.
* Nhận bài ngày 13/3/2011. Sửa chữa xong 31/3/2012. Duyệt đăng 5/4/2012.
36
Bạn đang xem tài liệu "Vấn đề dịch thơ Maiakovski ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- van_de_dich_tho_maiakovski_o_viet_nam.pdf