Giáo trình Cơ sở khoa học vật liệu - Chương 6: Cấu trúc của vật liệu polyme

54  
CHƯƠNG 6:  
6.1. Khái niệm  
CẤU TRÚC CỦA VẬT LIỆU POLYME  
6.1.1. Giới thiệu  
Polyme là những chất trọng lượng phân tử lớn chứa những nguyên tử hoặc nhóm  
nguyên tử lặp đi lặp lại. Tác chất ban đầu để tạo nên polyme gọi là monome. Nhóm nguyên  
tử lặp lại trong Polyme gọi mắt xích cơ sở hoặc mer.  
dụ polyetylen:  
Số lượng mắt xích cơ sở có trong một phân tử gọi độ trùng hợp n.  
Mp  
n   
Mu  
Mp: khối lượng phân tử của Polyme  
Mu: khối lượng phân tử của một mer  
Thông thường n =5000 – 10000; Nếu n nhỏ với Mp =500 6000 thì polyme được gọi  
là oligome.  
Một đặc tính quan trọng của polyme là độ bền rất cao của liên kết cộng hóa trị giữa các  
nguyên tử cacbon trong mỗi mạch phân tử. Tuy nhiên độ bền liên kết giữa các mạch polyme  
lại rất yếu, chủ yếu là liên kết vật lý (liên kết Van der Waals).  
6.1.2. Khối lượng phân tử Polyme  
Thường dùng khối lượng phân tử (KLPT) trung bình (  
sẽ thu được hỗn hợp gồm nhiều cấu tử có KLPT khác nhau  
M ) vì trong quá trình trùng hợp  
2
x
x
M N  
i i  
M N  
M
M
w
1
1
i i  
M   
M
w
P =  
1  
n
x
x
N
M N  
1
i i  
n
1
i
Trong đó  
M n: KLPT trung bình số;  
Mi: KLPT của mạch polyme i;  
x: số loại mạch;  
M w: KLPT trung bình trọng lượng  
Ni: số mạch có KLPT Mi  
P: độ phân tán khối lượng phân tử  
6.2. Cấu hình (configuration) và cấu trạng (conformation)  
Cấu hình và cấu trạng là hai thuật ngữ thường được sử dụng để diễn tả cấu trúc hình  
học của polyme.  
Cấu hình là trật tự sắp xếp của các nguyên tử trong mạch polyme, được quyết định bởi  
các liên kết hóa học (ví dụ liên kết đôi). Cấu hình của một polyme không thể thay đổi trừ  
khi các liên kết hóa học bị bẻ gảy hoặc biến đổi.  
dụ: cấu hình cis, trans hay các cấu hình isotactic, syndiotactic và atactic.  
Cấu trạng trật tự sắp xếp của các nguyên tử, tạo thành khi quay phân tử quanh một  
liên kết đơn. Phân tử càng có nhiều cấu trạng thì càng mềm dẻo, linh động cao.  
dụ: cấu trạng anti (trans), eclipsed (cis), gauch (+) và gauch(-) của CH2F-CH2F  
55  
CH2F-CH2F  
Anti (trans)  
Gauch (+)  
Eclipsed (cis)  
Gauch (-)  
Eclipsed (cis)  
6.3. Phân loại polyme  
6.3.1. Theo cấu tạo mạch  
a. Polyme mạch Carbon: trong mạch chính chỉ chứa cacbon  
dụ: Cấu trúc một số vinyl polyme  
Polyme  
Nhóm thế  
Tên viết tắt  
1
2
3
4
Polyetylen  
H
H
H
H
H
H
H
H
H
F
H
H
H
H
H
H
H
H
H
F
H
H
H
H
H
H
H
H
CH3  
F
H
Cl  
OH  
PE  
Polyvinyl clorua  
Polyvinyl alcol  
Polystyren  
PVC  
PVA  
PS  
PP  
PVAc  
PAN  
C6H5  
CH3  
OCO-CH3  
CN  
OCO - CH3 PMMA  
CH3  
F
Poly propylen  
Polyvinyl axetat  
Polyacrylonitrin  
Polymetyl metacrylat  
Poly isobutylen  
Polytetrafloroetylen  
PIB  
PTFE (Teflon)  
b. Polyme dị mạch: chứa các nguyên tử khác (O, N, S, Si …) trong mạch chính.  
dụ: Polyeste (polyuretan)  
N C  
O(CH2)4 O C N (CH2)6  
O H  
*
*
n
H
O
6.3.2. Theo cấu trúc lập thể  
a. Polyme điều hòa và không điều hòa lập thể  
Điều hòa lập thể: các mắt xích sắp xếp trong không gian theo trật tự nhất định  
Không điều hòa lập thể: các mắt xích sắp xếp không trật tự  
b. Các đồng phân cis- trans:  
dụ: Cao su Isopren  
56  
...  
CH2  
H
H3C  
H
H3C H2C CH2  
H
...  
CH2  
...  
CH2  
H3C  
CH2 CH2 CH2 CH2  
H3C H2C CH2  
H3C  
H
H3C  
H
...  
H
CH2  
Đồng phân cis-cis  
Đồng phân trans- trans  
Nếu các gốc cùng cis, cùng trans kết hợp: điều hòa lập thể  
Nếu các gốc cis, trans kết hợp ngẫu nhiên: không điều hòa lập thể  
c. Các đồng phân quang học:  
Đồng phân quang học R, S là do sự mặt của cacbon bất đối trong mạch Polyme  
A
R, R': hai phía của mạch nối với cacbon bất đối  
A, B: hai nhóm thế  
*
R C  
R'  
B
Nếu sự lặp lại chu kỳ trên mạch chính các nhóm A-C*-B cách nhau sẽ thu được  
polyme isotactic: điều hòa lập thể.  
A
A
B
A
B
A
B
B
Nếu các nguyên tử C bất đối trên mạch chính có kiểu hình không gian đối nhau sẽ tạo  
polyme syndiotactic: điều hòa lập thể.  
B
A
B
A
A
B
A
B
Nếu các nhóm sắp xếp không theo quy luật, thu được polyme atactic: không điều hòa  
lập thể  
dụ: Polypropylen có 3 loại isotactic, syndiotactic và atactic  
6.3.3. Theo cơ chế polyme hóa  
a. Trùng hợp (addition reaction)  
Các polyme trùng hợp được tạo thành bằng cách cộng liên tiếp các monome để tạo  
thành mạch polyme mà không tách loại bất cứ phần nào của monome.  
dụ phản ứng trùng hợp polyetylen:  
CH2 CH2  
n
CH2 CH2  
*
*
n
57  
Phản ứng xảy ra giữa monome (có ít nhất một nối đôi) và xúc tác là các gốc tự do  
peroxyt (có chứa điện tử tự do để thể tạo liên kết cộng hóa trị với điện tử cùa phân tử  
khác):  
.
.
+
R O O R  
R
O
R
O
goác töï do  
goác töï do  
Phản ứng bao gồm ba giai đoạn:  
- Giai đoạn khơi mào:  
H
H
H
H
.
.
+
O
C C  
R
R O C C  
H
H
H
H
- Giai đoạn phát triển mạch:  
.
.
CH2 CH2  
R
R O CH2 CH2  
O CH2 CH2 CH2 CH2  
R O CH2 CH2 CH2 CH2 O R  
CH2 CH2 O R  
+
- Giai đoạn kết thúc mạch:  
R O CH2 CH2  
R
O
+
.
.
R O CH2 CH2  
R
O CH2 CH2  
R O CH2 CH2  
+
Nếu Polyme trùng hợp từ một loại monome thì được gọi là polyme đồng nhất  
(homopolymer).  
dụ: PE, PTFE  
Các monome có thể sắp xếp để tạo cấu trúc mạch thẳng, mạch nhánh và cấu trúc mạng  
lưới, không gian (các mạch nối nhau bằng liên kết hóa học)  
Ngoài ra tùy theo vị trí kết hợp giữa các monome mà polyme còn thể chia thành các  
loại đầu nối đuôi (head-to-tail), đầu nối đầu (head-to-head), đuôi nối đuôi (tail-to-tail):  
58  
Nếu Polyme trùng hợp từ hai hoặc nhiều monome khác nhau thì được gọi là polyme đồng  
trùng hợp (copolymer):  
dụ: Copolyme của Vinyl Clorua và Vinyl axetat  
CH2  
CH2 CH  
CH  
CH  
CH2 CH CH2  
OCOCH3 Cl  
OCOCH3  
Cl  
Tùy vào cách sắp xếp của các monome mà copolyme có thể có các dạng sau:  
- Copolyme phân bố ngẫu nhiên (random copolymer): các monome khác nhau được  
phân bố ngẫu nhiên trong mạch polyme  
- Copolyme xen kẽ (alternating copolyme): các monome sắp xếp theo một trật tự xen  
kẽ xác định  
- Copolyme khối (block copolymer): mỗi loại monome xếp thành từng khối riêng  
- Copolyme ghép (graft copolymer): mạch chính là của một monome, còn các mạch  
monome khác thì ghép vào mạch chính  
b. Trùng ngưng (condensation reaction)  
So với phản ứng trùng hợp thì phản ứng trùng ngưng tạo ra các polyme có khối lượng  
phân tử nhỏ hơn đòi hỏi nhiệt độ cao hơn. Phản ứng xảy ra giữa các monome có hai  
nhóm chức và có tách loại các phân tử nhỏ như H2O, HCl, …  
dụ: Trùng ngưng giữa hexametylen và axit adipic để tạo thành Nylon 66  
Sau giai đoạn này, mạch polyme sẽ phát triển bằng cách tạo liên kết với các phân tử  
khác của hexametylen hoặc axit adipic hoặc với một dime khác.  
6.3.4. Theo nguồn gốc  
Tự nhiên: cao su thiên nhiên, xenlulo  
Nhân tạo: xenlulo acetat, xenlulo nitrat  
Tổng hợp: PE, PP…  
6.3.5. Theo tính chất  
Nhựa nhiệt dẻo (Thermoplastics): cấu trúc mạch thẳng hoặc nhánh, có thể chuyển từ  
trạng thái rắn sang dẻo khi tăng nhiệt độ. Quá trình này là thuận nghịch và có thể lặp lại  
59  
nhiều lần, do đó nhựa này có thể tái sinh dễ dàng. Lực liên kết giữa các mạch phân tử là liên  
kết thứ cấp yếu (liên kết Van der Waals, liên kết hydrô). Ví dụ: nhựa PE, PP, ABS, PVC …  
Cao su (Elastomers, Rubbers): cấu trúc có liên kết ngang giữa các mạch, tạo mạng lưới  
không gian ba chiều. Cao su có thể biến dạng đàn hồi cao, nhưng không thể tái sinh được.  
Nhựa nhiệt rắn (Thermosets): mật độ nối ngang dày đặc hơn cao su, khả năng chịu nhiệt  
cao hơn nhựa nhiệt dẻo, không tái sinh được. dụ: epoxy, polyeste, ure …  
6.3.6. Theo công dụng  
Sợi  
Chất tạo màng  
Màng (Membrane, film), tấm (sheet)  
Ống, thanh hình (profile)  
6.4. Hình dạng của mạch polyme  
Mạch phân tử rất dài của polyme thường không thẳng do các nguyên tử cacbon trên  
mạch chính tạo với nhau một góc 109o và có thể quay tự do nếu giữa chúng là liên kết đơn.  
Mỗi nguyên tử cacbon có thể di chuyển trên một hình nón như hình vẽ.  
Do đó một mạch đơn của polyme cấu  
tạo từ nhiều nguyên tử cacbon, có thể rất  
nhiều hình dạng: cong (bend), cuộn (coil),  
xoắn (twist), thắt nút (kink). Khoảng cách  
giữa hai đầu cuối của mạch nhỏ hơn rất  
nhiều so với chiều dài của toàn mạch.  
Polyme bao gồm rất nhiều mạch phân  
tử, mỗi mạch thể bị cong, cuộn, thắt nút  
do sự quay quanh liên kết đơn của mạch. Do  
đó các mạch lân cận thể quấn vào nhau  
hoặc cách xa nhau ra.  
Tính chất cơ nhiệt của polyme phụ thuộc rất nhiều vào khả năng quay của một đoạn  
mạch phân tử theo ứng suất áp đặt hoặc theo dao động nhiệt. Khả năng quay của một đoạn  
mạch lại phụ thuộc vào cấu trúc và tính chất hóa học của mắt xích cơ sở.  
dụ tại một đoạn mạch có liên kết đôi hoặc có nhóm thế lớn, cồng kềnh (nhóm  
phenyl C6H5-) thì sẽ rất khó quay.  
6.5. Cấu trúc vật của polyme  
Phân tử polyme có thể tồn tại ở hai trạng thái vật lý riêng biệt: kết tinh (crystalline)  
và vô định hình (amorphous). Polyme không thể kết tinh 100% (nếu không thì nó không thể  
nóng chảy do cấu trúc có trật tự cao như vậy), nên hầu hết polyme được xem là các vật liệu  
bán kết tinh với mức độ kết tinh tối đa từ 80 - 90%.  
Trong polyme vô định hình, các phân tử sắp xếp không có trật tự.  
dụ: Polystyren, polyvinyl clorua và các atactic polyme.  
Sự mặt của các nhóm phân cực như nhóm cacbonyl CO trong polyme dạng vinyl (-  
CHR-CHR-) sẽ hạn chế quá trình kết tinh hóa.  
60  
dụ: Polyvinyl axetat, polyacrylat và polymetacrylat. Polyacrylonitril là một ngoại lệ  
vì dù có mặt nhóm cacbonyl nhưng vẫn kết tinh.  
Mức độ kết tinh là một thuộc tính vốn của mỗi polyme nhưng nó có thể bị ảnh  
hưởng hoặc kiểm soát bởi quá trình polyme hóa hoặc đúc khuôn.  
Trong polyme tinh thể tồn tại các vùng có sắp xếp các phân tử một cách có trật tự  
cao. Chiều dài của polyme có đóng góp vào khả năng kết tinh của nó do các mạch xếp gần  
nhau và có sự chồng lấp hay xếp thành hàng của các nguyên tử.  
Polyme có mạch chính gồm các nguyên tử cacbon và oxy như trong axetal sẽ dễ dàng  
kết tinh. Các vật liệu như Nylon, polyamid kết tinh do các mạch song song với nhau và có  
liên kết hydro mạnh giữa nhóm cacbonyl -CO và nhóm amin –NH. Polyetylen và poly-  
tetrafloroetylen kết tinh nhờ các mạch xếp rất đều đặn dễ xếp thành hàng. Các  
syndiotactic và isotactic polyme dễ kết tinh do các mạch xếp thành hàng.  
Tóm lại, mức độ kết tinh sẽ phụ thuộc tốc độ làm nguội cấu hình của mạch. Nếu  
làm nguội từ nhiệt độ nóng chảy Tm thì polyme sẽ độ nhớt cao, do đó thời gian làm nguội  
càng lâu thì các mạch phân bố ngẫu nhiên hoặc đan rối vào nhau càng dễ sắp xếp trật tự, nên  
càng có khả năng kết tinh.  
Các nhóm chức hay cấu hình của mạch ảnh hưởng đến độ kết tinh  
Dễ kết tinh  
- Các nhóm chức nhỏ, đơn giản  
- Mạch thẳng  
Khó kết tinh  
- Các nhóm chức lớn, phức tạp  
- Mạch nhánh nhiều, có liên kết ngang,  
tạo mạng lưới  
- mạch atactic hoặc phân bố ngẫu nhiên  
- mạch isotactic hoặc syndiotactic  
6.6. Nhiệt độ nóng chảy Tm nhiệt độ chuyển thủy tinh Tg  
Các đoạn phân tử trong polyme vô định hình hoặc các vùng vô định hình của polyme  
bán kết tinh, sắp xếp không theo trật tự mà phân bố một cách ngẫu nhiên và đan rối vào  
nhau. Polyme vô định hình không có nhiệt độ nóng chảy Tm xác định, do tính phân bố lộn  
xộn của nó. Ở nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ chuyển thủy tinh Tg, các đoạn mạch không chuyển  
động và polyme thường bị giòn. Khi nhiệt độ tăng lên gần đến Tg, các đoạn mạch phân tử  
bắt đầu di chuyển. Khi nhiệt độ lớn hơn Tg, nếu không có mặt tinh thể nào, polyme sẽ đủ  
linh động thể hiện tính lỏng nhớt (viscous liquid) cao. Độ nhớt sẽ giảm khi tăng nhiệt độ  
giảm khối lượng phân tử polyme.  
Ngoài ra, nếu các đoạn rối không thể xếp thành hàng dưới tác dụng của lực cơ học, thì  
vật liệu còn thể hiện tính đàn hồi nên còn được gọi vật liệu nhớt đàn hồi (visco-elastic).  
Trong polyme bán kết tinh, sự di chuyển của phân tử bị ngăn cản bởi các vùng tinh thể, cho  
đến khi nhiệt độ lớn hơn Tm sẽ tạo thành dạng vật liệu nhớt đàn hồi.  
61  
6.7. Cấu trúc ngoại vi phân tử của polyme  
Cấu trúc ngoại vi phân tử (supermolecular structure) của polyme tạo nên do sự sắp xếp  
khác nhau của các mạch phân tử. Polyme có rất nhiều dạng cấu trúc ngoại vi phân tử trong  
trạng thái kết tinh và có thể trở thành trật tự hoặc “tự tổ chức” ngay cả trong trạng thái vô  
định hình.  
Yếu tố cơ bản đầu tiên để tạo nên cấu trúc ngoại vi phân tử là các mạch phân tử ở dạng  
hình cầu nhỏ (globule) hoặc dạng mạch thẳng. Khi các dạng cầu này tiếp xúc với nhau, nó  
thể tạo các cấu trúc cầu đa phân tử chứa nhiều hơn một mạch phân tử (có thể đến cả  
nghìn phân tử), hoặc tạo thành dạng bó (bundles), nếu các dạng cầu không cuộn lại được.  
Dạng bó còn có thể tạo thành khi các mạch thẳng, cứng tiếp xúc với nhau. Các quá trình này  
xảy ra khi polyme chế tạo từ dạng dung dịch hoặc từ dạng nóng chảy hoặc tạo thành trong  
quá trình polyme hóa.  
Một bó thì rất dài so với một mạch phân tử. Điều này có nghĩa một bó có thể bao  
gồm một số mạch phân tử xếp thành hàng, như trong hình sau:  
Dưới những điều kiện xác định, nếu các mạch phân tử trong bó đủ mềm dẻo, bó có thể  
bị cong lại. Khả năng các mạch tự sắp xếp thành dạng phụ thuộc vào độ mềm dẻo của  
chúng và lực tương tác giữa các phân tử. Các mạch mềm dẻo tự sắp xếp dễ dàng thành dạng  
bó vì chúng có thể thay đổi cấu trạng của chúng và di chuyển các bộ phận. Sự sắp xếp của  
các mạch cứng được thúc đẩy bởi lực tương tác giữa các phân tử của các nhóm phân cực, sự  
mặt của các nhóm này là nguyên nhân chính gây ra tính cứng của mạch. Các bó tạo thành  
ở trạng thái vô định hình của polyme và được đặc trưng bởi trật tự gần trong việc sắp xếp  
các mạch. Trật tự mạch trong bó có thể nhiều hoặc ít hoàn toàn.  
Các bó mạch phân tử polyme là dạng cấu trúc ngoại vi phân tử đơn giản nhất quan sát  
được đối với polyme tinh thể cũng như với polyme vô định hình.  
Ở nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ chuyển thủy tinh Tg, các bó rất bền, đặc biệt đối với các  
polyme mạch cứng và có lực tương tác mạnh giữa các phân tử. Chúng tập hợp lại thành  
những tổ chức lớn hơn, gọi cấu trúc vô định hình dạng sợi (amorphous fibrils) hoặc dạng  
nhánh cây (dendrites), nhưng vẫn duy trì tính chất riêng của chúng.  
Ở nhiệt độ cao hơn Tg, khi độ linh động của các mạch phân tử và các bó đủ lớn, các bó  
sẽ kết hợp với nhau tạo thành cấu trúc dải (banded structure). Đây đặc thù của polyme ở  
trạng thái mềm cao trừ khi mạch phân tử cuộn lại thành dạng cầu.  
Nếu tạo thành từ các mạch không điều hòa hoặc đôi khi với một số mạch điều hòa,  
lực nội phân tử thể làm cho nó bị cong lại. Trường hợp này không gây ra sự chuyển pha  
nào. Đây trật tự trong trạng thái vô định hình.  
Nếu tạo thành từ các mạch cấu trúc điều hòa, trật tự sẽ bắt đầu trong trạng thái  
định hình, phát triển xa hơn cuối cùng là kết tinh. Đây là quá trình có nhiều pha.  
Có hai cơ chế tạo thành các đơn tinh thể polyme.  
Cơ chế thứ nhất gọi cơ chế tạo dạng tấm (lamellar): các mạch điều hòa, mềm dẻo tự  
sắp xếp bên trong các bó, dưới những điều kiện nhiệt động tương ứng để tạo thành mạng  
không gian. Các bó kết tinh có bề mặt tiếp xúc pha giữa chúng. Các bó này sẽ là các phần tử  
của một pha kết tinh mới. Sự xuất hiện của năng lượng bề mặt dư ở bề mặt tiếp xúc pha là  
nguyên nhân làm cho các bó gấp lại thành các dải ruybăng (ribbons), có ít diện tích bề mặt  
hơn. Xu hướng giảm sức căng bề mặt dẫn đến việc gấp đổi hướng các dảy ruybăng đến  
180o tạo thành các cấu trúc phẳng, dạng tấm (lamellar) như trong hình:  
62  
Các tấm tạo thành do các phía phẳng của các dảy ruybăng tiếp xúc với nhau, sau đó  
các mạch phân tử sẽ tự xếp thành hàng vuông góc với mặt phẳng tấm. Các tấm sẽ lần lượt  
chồng lên nhau tạo thành các tinh thể có các mặt đều đặn.  
Cơ chế thứ hai được gọi cơ chế tạo dạng sợi (fibrillar), là quá trình kết tinh bên  
trong các bó và sắp xếp các bó kết tinh dọc thành sợi mà không tạo các gấp.  
Sự tạo thành các đơn tinh thể đòi hỏi điều kiện thời gian xác định. dụ chúng tạo  
thành khi bay hơi dung môi chậm từ dung dịch. Thông thường, quá trình kết tinh dừng lại ở  
một trong các giai đoạn trung gian (bó, dảy ruybăng, tấm hoặc sơi). Trong những trường  
hợp như vậy sự sắp xếp các dạng trung gian này, kèm theo sự giảm năng lượng bề mặt, tạo  
thành dạng tinh thể hình cầu (spherulite).  
Đặc biệt, những điều kiện thuận lợi cho quá trình hình thành tinh thể hình cầu xảy ra  
khi polyme nóng chảy hoặc dung dịch polyme được làm nguội nhanh.  
Các tinh thể hình cầu là các cấu trúc thô thường gặp nhất trong polyme. Các tinh thể  
này có thể thay đổi kích thước từ vài chục micromet đến vài milimet hoặc lớn hơn nữa. Đôi  
khi các đơn tinh thể hoặc các tinh thể hình cầu cùng đồng thời tồn tại.  
Trong một polyme thực, không phải toàn bộ các phân tử sắp xếp ở dạng bó, một số có  
thể ở dạng hình cầu. Trong quá trình kết tinh của dạng bó, một phần của polyme ở trạng thái  
cầu vẫn giữ cấu trúc vô định hình, và về nguyên tắc, thể tách rời khỏi các bó kết tinh.  
Theo Kargin, mọi cấu trúc ngoại vi phân tử của polyme có thể kết hợp thành bốn dạng  
sau đây:  
63  
(1) Dạng cấu trúc cầu (globular structure): thường gặp trong polyme vô định hình tạo  
thành trong quá trình trùng ngưng  
(2) Dạng cấu trúc dải (banded structure): đặc trưng của mọi polyme ở trạng thái mềm  
cao (cao su)  
(3) Dạng cấu trúc sợi (fibrillar structure): đặc trưng của các hợp chất polyme hóa vô  
định hình có trật tự cao  
(4) Dạng cấu trúc lớn của polyme tinh thể: tinh thể hình cầu (spherulite) hoặc tinh thể  
(crystal).  
doc 10 trang baolam 27/04/2022 6380
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Cơ sở khoa học vật liệu - Chương 6: Cấu trúc của vật liệu polyme", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • docgiao_trinh_co_so_khoa_hoc_vat_lieu_chuong_6_cau_truc_cua_vat.doc