Giáo trình Sản xuất giống và nuôi cá cảnh

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN  
TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ, KỸ THUẬT VÀ THỦY SẢN  
GIÁO TRÌNH  
MÔN HỌC/MÔ ĐUN: SẢN XUẤT GIỐNG VÀ NUÔI CÁ CẢNH  
NGHỀ: NUÔI TRỒNG THỦY SẢN  
TRÌNH ĐỘ: CAO ĐẲNG  
(Ban hành theo Quyết định số:  
/QĐ-CĐKTKTTS ngày tháng năm 2020  
của Hiệu trưởng trường Cao đẳng Kinh tế, Kỹ thuật và Thủy sản)  
Bc Ninh, tháng 9 năm 2020  
MỤC LỤC  
DANH MỤC  
TRANG  
Bài mở đầu:  
4
Bài 1: Quản lý môi trường nuôi cá cnh  
1. Yêu cầu bể nuôi cá cảnh  
8
8
13  
2. Trồng cây trong bể kính.  
3. Dụng cụ trồng cây và chăm sóc cây  
15  
15  
15  
Bài 2: Sdng thức ăn cho cá cảnh  
1. Sử dụng thức ăn tự nhiên  
2. Sdng thức ăn tự chế biến và thức ăn công nghiệp  
cho cá cnh  
23  
25  
Bài 3: Kthut sn xut ging và nuôi mt số đối tượng cá  
cnh  
25  
30  
1. Cá thát lát  
2. Cá Rồng Đen, Hắc Đái, Hắc Long Osteoglossum  
ferreirai Kanazawa.  
3. Cá thần tiên Angelfish- Pterophyllum scalare.  
4. Cá đĩa- discus fish  
5. Cá tai tượng da beo  
6. Cá phượng hoàng ngũ sắc  
7. Cá tàu- cá ba đuôi – cá vàng  
8. Cá chép Nhật Bản – Koi  
9. Họ cá thia lia (BELONTIIDAE).  
37  
42  
44  
48  
49  
59  
66  
76  
Tài liệu tham khảo  
2
Bài mở đầu:  
1. Lch snuôi cá cnh  
Thú chơi cá cảnh đã có từ thời xưa, chẳng hạn như cá vàng (Carassius  
auratus) bắt đầu được nuôi trong cung đình dưới triều đại nhà Tng- Trung  
Hoa sau đó phổ biến rộng rãi trong dân chúng. Các nước phương Tây cũng đã  
nghiên cứu và nuôi các loài cá cảnh nước ngọt như cá thn tiên (cá ông tiên -  
Pterophyllum spp.), cá ngũ sắc thn tiên (cá đĩa - Symphysodon spp.), các loại cá  
thuộc hCá hng nhung(Alestiidae) v.v rồi dần dà chúng được du nhập qua các  
nước khác và phát triển dưới hình thức sinh sản trong môi trường nhân tạo và đã  
thành công.  
Cá cảnh hiện nay không phải có nguồn gốc từ một nước mà có sự du  
nhập, giao thương giữa nhiều nước trên thế giới. Do cá cảnh được phổ biến rộng  
rãi ở nhiều quốc gia, nhiều gia đình nuôi cá cảnh để trang trí. Do đó ngoài việc  
hình thành các trại nuôi và cho cá cảnh sinh sản còn có khá nhiều câu lạc bộ cá  
cảnh được thành lập, thành viên của các câu lạc bộ là những người rất yêu thích  
cá cảnh, họ xem đó là thú vui thanh nhã trong cuộc sống, gia nhập vào câu lạc  
bộ để trao đổi kiến thức cũng như mua bán hoặc trao đổi những con cá quý.  
Người Trung Quốc từ đời nhà Chu là những người đầu tiên có ý niệm về việc  
nuôi cá với mục đ ích đơn thuần làm cảnh, nghĩa là việc nuôi cá cảnh đượ c thực hiện  
từ khoảng 2500 n ăm v ề trước. Từ những ao, hồ, sông suố i lớ n, cá đượ c đưa vào  
nhữ ng lọ thủy tinh nhỏ, bình thủy tinh cho đến các bình chứa, hồ chứa và bể kính  
càng ngày càng lớn và được trang trí đẹp đẽ.  
Từ Trung Quốc, cá cảnh đượ c truyền sang các nước Đông Nam Á và đến thế kỷ  
XVII nó được đưa sang Châu Âu, Châu Mỹ... Bắt đầu từ con cá giếc và cá chép của  
lục địa Á- Âu, người ta lợi dụng sự đột biến của chúng để tạo ra những giống loài lạ về  
hình dạng, màu sắc. Người ta đã tạo ra được 230 loài cá vàng có hình dạng, màu sắc  
khác nhau và rất nhiều dòng cá khổng tước (cá bảy màu) có kiểu vây đuôi, vây lưng và  
màu sắc rất đa dạng.  
Ngoài hình thức thưởng thức vẻ đẹp của cá, các nghệ nhân còn vận dụng tính  
hiếu chiến của một số loài cá để chọi với nhau như: cá xiêm, cá lia thia và cá đuôi cờ  
nhưng cá lia thia là được ưa chuộng hơn cả. Vào khoảng 1850, cá ch ọi rất phổ biến ở  
Thái lan. Ng ười dân ch ọi cá trong các ngày hội, đ ình đám, các cu ộc thi đấu thể thao.  
Từ 1927, cá chọ i được nh ập cảng vào nhiều nước Châu Âu và từ đó nó cũng đ ã hấp  
dẫn nhiều người chơi cá ở các độ tuổi khác nhau như ở nhiều nước Đông Nam Á.  
Việt Nam, nằm ở khu vực Đông Nam Á, là một trong 3 vùng nuôi cá cảnh nổi  
tiếng trên thế giới. Sự di nhập của nhiều giống cá nước ngoài đẹp và qúi hiếm đã đưa  
nghề cá cảnh nước ta trở thành nghề đặc trưng mấy chục năm qua. Một số loài cá cảnh  
3
phân bố ở Việt Nam như cá bảy trầu (Trichopsis vittatus), cá thanh ngọc (Ctenops  
pumilus), cá lòng tong (Rasbora spp), cá chọi hay cá xiêm (Betta splendens) và một số  
loài khác trong họ cá heo, cá mang rổ, cá nóc, cá còm...  
2. Vai trò và trin vng nghnuôi cá cnh  
Để có kế hoạch phát triển cá cảnh qui mô lớn, chúng ta không thể nào bỏ qua thị  
trườ ng tiêu thụ chúng. Hiện nay, các thị trường tiêu thụ cá cảnh lớn nhất là Bắc Mỹ,  
Tây Âu và Nhật Bản. Trong các n ước có số lượng cá cảnh nhập khẩu cao hằng năm là  
Hoa Kỳ khoảng 25.863.000 USD (1977). Các nước cung cấp cá cảnh cho Hoa Kỳ là  
Đông Nam Á, Nam Mỹ và châu Phi. Các nước Đông Á và Đông Nam Á (Hongkong,  
Singapore, Thái lan, Philippine, Malaysia) xuất khẩu cá cảnh trị giá 17 triệu USD vào  
năm 1977, trong đó đứng đầu là HongKong và Singapore với tổng giá trị là 8. 393.000  
USD và 4.892.000 USD. Sang thị trường Tây Âu, các nước Đông Nam Á xuất kh ẩu  
cảnh chiếm 63 % (1977), trong đó thị trường Tây Đức là lớ n nhất. Thị trường Nhật  
Bản có giá trị buôn bán cá cảnh hàng năm khá cao khoảng 50 triệu USD (1977) nhưng  
đạt giá trị nhập khẩu khoảng 2.149.000 USD, trong đó Hong Kong là nước cung cấp  
chủ yếu.  
Thị trường cá cảnh thay đổi hàng năm cả về số lượng, ch ủng loại, thị trườ ng và  
giá cả. Chẳng hạn thị trường Singapore, năm 1986 xuất kh ẩu 16.7 triệu USD. Sang  
năm 1996 xu ất khẩu 83 triệu USD. Nguồn cá chủ yếu là cho sinh sản trong các trại cá  
cảnh và mua từ các nước khác. Ngoài ra, một ít loài bắt ngoài tự nhiên. Thị trường  
xuất khẩu là Bắc Mỹ, Châu Âu, Trung đông và Đông Nam Á. Ở Sri Lanka, n ăm 1990  
xuất khẩu 96 triệu Rupees, sang năm 1997 xuất 472 triệu Rupees. Ngu ồn cá từ tự  
nhiên và sinh sản nhân tạo. Cá xuất đi khắp 43 nước trên thế giới chủ yếu ở Châu Âu,  
Mỹ và Đông Nam Á. Ở Malaysia, nghề nuôi cá cảnh bắt đầu từ những năm của thập  
niên 50. Theo thống kê của Bộ Thủy sản, năm 1950 có 18 trại, đến n ăm 1993 tăng lên  
356 trại gồm 331 trại cá, 12 trại trồng rong và 13 trại chuyên sản xuất thức ăn tự nhiên.  
Xuất khẩu vào năm 1985 khoảng 9.491.398 con đạt giá trị 879.323 Ringgit Malaysia.  
Sau đó tăng lên 227.790.460 con và đạt giá trị 43.749.882 RM vào năm 1994 (Thống  
kê 1997, 1USD = 2.8RM). Các nhóm xu ất khẩu chủ yếu là bảy màu, lòng tong, hoàng  
kiếm, cá rô, cá sặc và cá trơn. Cá cảnh ở Mỹ chiếm một tỉ trọng lớn trong n ền kinh tế,  
chiếm khoảng 1000 triệu hàng năm Năm 1992, Mỹ nhập khoảng 201 triệu con trị giá  
44.7 triệu USD. Trong đó cá nước ng ọt chiếm 96% số lượng và giá trị 80%. Nguồn cá  
nhập chủ yếu từ các nước Đông Nam Á, một số ở Nam Mỹ, Trung Mỹ, Châu Âu, Nhật  
bản, Châu Phi và Châu Úc. Như vậy, thị trường xuất khẩu cá cảnh của chúng ta là  
nhắm đến Bắc Mỹ, Châu Âu và Nhật bản nhưng chúng ta đang cạnh tranh gay gắt với  
các nước từ Đông Nam Á.  
Cá cảnh được cung cấp cho 3 mục đích chính là tiêu khiển (95%), cho các bồn  
kính ở các nơi công cộng và trưng bày, triển lãm. Về chủng loại cá xuất kh ẩu hiện nay  
4
chủ yếu là cá nước ngọ t chiếm 90% và số lượng chiếm 80% giá trị buôn bán. Nguồn  
cá nước ngọt xuất khẩu này chỉ có 20% là cá từ các bể nuôi, còn lại là do bẫy, bắt  
ngoài tự nhiên. Theo Alfred Morgan (1935) có khoảng 600 loài cá được biết đến để  
làm cảnh, trong đó khoảng 400 loài có giá trị. Cá đánh bắt trong tự nhiên (nhất là cá  
nước mặn) có màu sắc rực rỡ hơn những cá cùng loại đã được đưa vào bồn kính (trừ  
sự lai tạo phức tạp và công phu). Ngay cả trong cùng một loài có những con có màu  
sắc, hình d ạng cơ thể, h ệ vây, các đặc điểm lạ có giá cả khác nhau. Chẳng hạn như ở  
Nhật Bản giá mỗi con cá vàng từ 300-500 yên nhưng có những con đặc biệt lên tới  
10.000 yen.  
Trong cuộc thi cá cảnh Quốc tế 1995 (Aquarama 1995) ở Trung tâm thương mại  
thế giới (World Trade Center) tại Singapo ngày 17/06/95, Việt Nam đã đoạt được 7/13  
giải thưởng lớ n về cá dĩa trong số 93 giải. Trong đó có 3 giải nhất, 2 giải nhì, 1 giải  
ba và 1 giải tổng quát.  
3 Nghiên cu vcá cnh ti Vit Nam  
Ngày nay phong trào nuôi cá cảnh đang ngày càng phát triển mnh mẽ ở  
nhiều nước trên thế giới, đc biệt là các nước công nghip. Sự tăng trưởng trong  
lĩnh vực này đã giúp tăng nguồn thu nhp cho các cộng đồng cư dân vùng nông  
thôn và vùng ven bin, hải đảo các quốc gia đang phát triển, là cơ hội để gii  
quyết công ăn việc làm và thu li nhun tvic xut khẩu. Chúng ta đã có một  
số đề tài thành công vsn xut giống và nuôi thương phẩm cá Cnh ti Vit  
Nam như đề tài KC 06.05/06-10 “Nghiên cứu công nghsn xut ging và nuôi  
thương phẩm mt sloài cá cnh có giá trxut khẩu” đã được tiến hành, tp  
trung nghiên cứu 6 đối tượng cá cảnh chính, trong đó có 3 loài cá cảnh bin gm  
cá Khoang cnemo, cá Nga vằn, cá Thia đồng tin, và 3 loài cá cảnh nước  
ngọt là cá Đĩa, cá Neon và cá Chép koi. Đây là đề tài khoa hc công nghtrng  
điểm cấp nhà nước giai đoạn 2006-2010 do Vin Hải dương học chtrì, tiến sĩ  
Hà Lê ThLc làm chnhiệm đề tài, được thc hin từ 12/2007 đến 11/2010.  
Đề tài đã hoàn thiện được 5 qui trình công nghsn xut giống và nuôi thương  
phm ca 5 loài cá, gm cá khoang cnemo, cá nga vằn, cá thia đồng tin, cá  
dĩa cá neon. Đề tài đã ứng dng di truyn trong sn xut giống và nuôi thương  
phm cá chép koi toàn cái. Cả hai phương pháp chn lc kiu hình cá mvà  
phương pháp mẫu sinh đều có thtạo ra đàn cá chép koi con có kiểu hình như  
mong muốn. Sơ đồ hthng thiết bca 6 loài cá nghiên cứu đã được xây dng  
trên cơ sở các kết qusn xut, to sn phẩm cho đề tài vi qui mô 3.000 con cá  
thương phẩm/năm. Sản phm của đề tài đã xuất khu sang thị trường cá cnh Mỹ  
và các nước châu Âu, đã được thị trường các nước chp nhận đối vi loài cá  
khoang cnemo, cá ngựa và cá dĩa. Những loài còn lại đang được tiêu thmnh  
thị trường trong nước [10].  
5
Thc nghim vsn xut cá bẩy màu (Poecilia reticulate) toàn đực và siêu  
đực do Đặng ThCm Nhung, Nguyễn Tường Anh (2007). Trong tnhiên con  
đực thường đa hình về màu sắc cá cái thường không màu hoc màu xám. Nhu  
cu vcá by màu trên thị trường là rt ln chính vì vy tạo ra dòng cá đực và  
siêu đực đáp ứng nhu cu sn xuất đáp ứng thhiếu người chơi cá cảnh. Đề tài  
đã tạo ra cá bảy màu toàn đực vi nhim sc thgii tính XX, XY;cá by màu  
toàn cá vi nhim sc thlà XY và XX; cá by màu siêu đực vi nhim sc thể  
là YY [12].  
Trường Cao đẳng Kinh tế Kthut và Thy sản trước đây là trường Cao  
đẳng thy sản đã thực hiện thành công đề tài sn xut ging cá cnh lan thvào  
năm 2008. Đề tài đã tiến hành sn xut ging nhân to cá cnh Lan thnhm  
mc tiêu to sn phẩm thương mại phc vnhu cầu trong nước và nước ngoài.  
Kết quả đề tài đã thuần hóa thành công đàn bố m, Sau quá trình nuôi vtlệ  
sống là 88,6% đối với cá đực và 93,4% đối vi cá cái. Tlthành thc ca cá  
đực là: 97,4%; cá cái là 100%. Xác lp mt sphép lai to màu sc cho cá lan  
thọ thương mại(Đỏ X Đỏ tạo ra đỏ; Trng hng X Trng hng to ra Trng  
hng, Hng, trắng; Ngũ hoa X Ngũ Hoa, tạo ra ngũ hóa; Đỏ X Trng to ra  
trng hng, trng, hồng; Đen X Trắng tạo ra đen trắng, đen. Tổng strng thu  
được 254500 trứng tương đương với 3000 trng/con cái/ lần đẻ. Strng thu  
tinh thu được 207000 trứng, đạt tlthu tinh trung bình là 81,3%. Số lượng cá  
bt là 166200 con cá bột đạt tlra bt ttrng thu tinh là 80,3%. Tng số  
lượng cá hương thu được là 69724 con, bình quân tlsống đạt 42%. [19]  
Nhóm nghiên cu HMHạnh (2015), Trường cao đẳng kinh tế - kthut  
Cần Thơ và Bùi Minh Tâm, khoa thủy sản, Trường đại hc Cần Thơ đã nghiên  
cứu đặc điểm hình thái phân loi và định danh cá chành dc phân bố ở tnh Hu  
Giang nhm phát trin loài cá này, mang li li ích kinh tế cho người nông dân.  
Nghiên cứu được thc hin nhm cung cp nhng thông tin vhình thái ca cá  
chành dc phân bti tnh Hu Giang. Kết quphân tích trên 226 mu cho thy,  
cá chành dục là loài cá có kích thước nh, chiều dài cơ thể dao động t6,2 - 17  
cm. Cơ thể cá có dạng thon dài. Đầu to, rng, dp bng, chiều dài đầu lớn hơn  
chiều cao đầu. Mt tròn nm lch vna trên của đầu. Ming có hình cung rng,  
chiều dài xương hàm ngắn hơn chiều rng ca miệng. Hàm dưới nhô ra hơn hàm  
trên và chiều dài xương hàm dưới dài hơn xương hàm trên. Răng phân bố trên 2  
hàm, các răng nhỏ, nhn và sắc, không có răng nanh. Vây lưng dài, không có gai  
cứng; vây đuôi tròn, không chhai; cuống đuôi ngắn, vây bng nh. Vy quanh  
cuối đuôi từ 12 - 14 vy, vảy trước vây lưng 11 - 13 vảy. Cá có màu xám đen ở  
mặt lưng và nhạt gn xung bụng. Vây lưng, vây đuôi và vây hậu môn có màu  
xanh óng ánh vi phần rìa màu đỏ tươi hoặc màu cam. Kết qugii trình tgen  
cho thy loài cá chành dc thu ở đồng bng sông Cu Long có tên khoa hc là  
6
Channa gachua.[4]  
7
Bài 1: Quản lý môi trường nuôi cá cnh  
1. Yêu cầu bể nuôi cá cảnh  
1.1. Thiết kế bể nuôi cá.  
Qui luật vàng: Bể nuôi phải đủ lớn, ph ải có đủ bề rộng lớn để oxy khuyếch  
tán và giải thoát các khí độc hại. Tuy nhiên đối với những bể nuôi kín (có nắp  
đậy) thì cần có hệ thống sục khí và lọc nước.  
Khung kim loại. Khung phải vững chắc để giữ cho bể không bị sạt. Khung  
có thể làm bằng sắt, nhôm, hoặc plastic cứng.  
Vật liệu làm bể. Bể kính là vật liệu rất tốt để nuôi cá cảnh trong nhà. Tuy  
nhiên bể có thể làm bằng xi măng như những hồ nhỏ đặt trong nhà, dưới cầu  
thang.  
Sự chiếu sáng. Ánh sáng đóng vai trò quan trọng làm tăng vẻ đẹp của bể  
kính. Ánh sáng tác động đến cá nh ư là một chất kích thích và cũng cần thiết k ế  
cho cây quang hợp. Bể nuôi phải đặt ở n ơi thuận tiện cho việc chiếu sáng. Mỗi  
ngày cần chiếu sáng cho bể khoảng 1 giờ dưới ánh sáng mặt trời. Tuy nhiên có  
thể sử dụng các đèn chiếu sáng khoảng 8-15 giờ trong ngày. Có thể dùng bóng  
đèn 25 watts cho 0.09m2 mặt bể và có thể chiếu sáng trong 8 giờ. N ếu ánh sáng  
vượt quá sẽ làm quần thể tảo phát triển và nếu không đủ thì là rong héo đi. Ánh  
sáng thường là màu đỏ, xanh da trời, xanh lá cây.  
- Chiếu sáng bằng đèn thường như bóng đèn tròn. Đèn này có tác dụng là  
dễ lắp đặt và thay thế. Trở ngại là ánh sáng ngắn, tiêu thụ nhiều điện, có thể làm  
nóng bể nuôi.  
- Chiếu ánh sáng bằng đèn huỳnh quang như đèn nê-ông. Đèn có ưu điểm  
là thời gian sử dụng lâu, tiêu thụ không đáng kể, không làm nóng bể, phân bố  
đồng đều ánh sáng, màu ánh sáng khác nhau có thể làm tăng giá trị màu sắc của  
cá và giúp cho cây tăng trưởng dễ dàng. Trở ngại là tương đối đắt và lắp đặt  
tương đối phức tạp.  
Tiêu chuẩn của một bể. Nước trong bể kính có thể được tính theo công thức  
DÀI x RỘNG x CAO x 0.625  
Kích thước của bể nuôi cá  
8
Bảng 1: Kích thước của các vật liệu cần thiết khi thiết kế bể nuôi cá.  
Kích thước của bể Độ dày ở các góc bể Độ dày của miếng Độ dày  
(cm)  
(mm)  
kim loại cho đáy và kính  
mặt bể  
Dài Rộng Cao Bề rộng Kim loại  
(mm)  
(mm)  
60  
70  
30  
30  
30  
40  
45  
45  
50  
50  
50  
50  
30  
30  
30  
40  
45  
45  
50  
50  
50  
55  
20  
20  
20  
25  
25  
30  
30  
30  
40  
40  
1,5  
1,5  
1,5  
1,5  
1,5  
2
2
2
3
3,5  
3,5  
5
80  
2,2  
2,3  
2,5  
2,5  
3
80  
90  
6
100  
6
100  
2
7
130  
2
3,5  
4
7
130/200  
130/200  
2,5  
2,5  
7
4
8
Vị trí bể. Bể có thể đặt tại nơi có đầy đủ ánh sáng, tiện lợi trong thay nước  
và có thể ngắm bất cứ lúc nào.  
1.2. Cân bằng sinh học của bể.  
Một bể nuôi tốt là cộng đồng sống tự nó giữ được cân bằng sinh học. B ể  
nuôi giữ được cân bằng khi cây mọc tốt và cá sống bình th ường, nước vẫn  
trong. Giữa các thành ph ần khác nhau của bể nuôi, xảy ra những trao đổi ổn  
định. Sự cân bằng giữa hệ thực vật và hệ động vật lớn mà còn ở những sinh vật  
nhỏ như vi khuẩn, trùng cỏ, trùng bánh xe.  
9
a. Chu trình sinh học.  
Thực vật nhờ sự đồng hóa Chlorophyl dưới ánh sáng mặt trời mà ta gọi là  
sự quang hợp, sẽ sản sinh ra oxy cung cấp cho cá. Đồng thời qua quá trình  
quang hợp chúng sẽ hấp thu CO2 do cá thải ra, nếu không được hấp thụ thì cá bị  
ngợp.  
asmt  
6CO2 + 6H2O  
6O2 + C6H12O6  
Lưu ý: asmt: Ánh sáng mặt trời  
b. Nguyên nhân mất cân bằng sinh học của bể nuôi.  
* Thiếu cây. Thật khó xác định chính xác lượng rong tảo cần thiết cho bể  
nuôi, điều này tùy thuộc từng loại cây trồng. Thông thường một số nhánh rong  
xương cá Myriophyllum cung cấp oxy đầy đủ cho 1 lít nước.  
* Thiếu ánh sáng. Trong quá trình quang hợp, thực vật cần ánh sáng mặt  
trời cho nên bể nuôi không có ánh sáng mặt trời thì thực vật không quang hợp  
được gây nên tình trạng thiếu oxy. Chính vì thế trong bể nuôi, có thực vật thì  
phải bắt buộc phải có ánh sáng.  
* Thừa cá. Nếu một bể nuôi thả nhiều cá quá sẽ trở nên mất cân bằng  
ngay cả bể có trồng rong. Trong trường hợp này phải cho nước thoáng khí một  
cách nhân tạo bằng cách dùng máy sục khí hoặc làm giảm lượng cá. Khó mà xác  
định lượng cá là bao nhiêu trong một bể nuôi tự nhiên. Những loài thuộc họ cá  
sặc Belontidae như cá chọi, cá đuôi cờ Macropodus... vấn đề thoáng khí của  
nước không cần đặt ra vì chúng có cơ quan hô hấp phụ thở bằng khí trời.  
* Thừa thức ăn. Thực vật không chỉ cung cấp oxy cho nước mà còn hấp thu  
các chất thải trong nước như thức ăn thừa, phân... cho nên cần cho ăn với lượng  
vừa đủ.  
2.2 Yêu cầu về chất lượng nước máy để nuôi cá  
- Chlorine. Chlorine có trong nước máy có từ việc khử trùng của nhà máy  
nước. Tuy nhiên, nếu sử dụng nước này để nuôi cá thì nên để nó bốc hơi trong  
vòng 2-3 ngày. Trong trường hợp sử dụng nước máy trực tiếp có thể sử dụng  
Thiosulfat sodium để khử Chlorine.  
- Fluoride. Fluoride là chất hóa học nguy hiểm. Chất này có trong nước do  
việc khử trùng từ nước máy. Nếu đun sôi thì nó sẽ bay hơi. Xử lý nước bằng  
cách sục khí hay để nước sau 2-3 ngày mới sử dụng.  
- pH. pH trong nước thích hợp để nuôi cá từ hơi acid (6) đến trung tính (7)  
hoặc hơi kiềm (8). Đối với nước biển thì pH từ 8,1-8,3.  
10  
- Nhiệt độ của nước. Nhiệt độ nước thay đổi tùy theo trạng thái của cá và  
cây xanh trong bể. Ở vùng nhiệt đới, các bể nuôi không thấp hơn 18oC và có thể  
lên tới 30oC.  
2.3. Các hệ thống lọc nước trong nuôi cá cảnh  
Lọc nước là dùng máy bơm nước nhỏ hay hệ thống sục khí bơm nước  
đang nuôi ra ngoài để loại bỏ hay phân hủy thức ăn thừa, phân và Ammonia  
NH3 ảnh hưởng đến cá. Trong tự nhiên quá trình này gọi là vòng tuần hoàn  
Nitơ hay quá trình lọc sinh học. Quá trình này làm nhờ vi khuẩn biến ammonia  
thành nitrite và vi khuẩn Nitrosomomas biến nitrite thành nitrate không hại.  
Có 4 hình thức lọc nước trong nuôi thủy sản là lọc qua lớp sỏi, máy lọc  
ngoài, lọc tia nhỏ và hệ thống lọc sinh học.  
1. Lọc qua lớp sỏi. Đây là hệ thống dễ nhất và rẻ nhất. Một vỉ nhựa khoan  
lỗ đặt trên đáy bể và có lớp nền (mút) bao phủ lên trên. Nước chảy thấm qua  
chất nền và qua lớp sỏi rồi đưa lên trên mặt nước. Nước chảy qua chất nền lọc  
cho phép vi khuẩn ưa khí hoạt động và giảm ammonia và nitrite.  
2. Máy lọc ngoài. Hệ thống cần có máy bơm bơm nước ra hệ thống lọc bên  
ngoài. Nước được bơm ra ngoài qua dụng cụ lọc. Dụng cụ này là những ống sứ,  
thỏi than, len lọc. Dụng cụ lọc là nơi cho vi khuẩn sống để biến nitơ có hại thành  
vô hại đối với cá nhờ tác động của vi khuẩn. Bơm sẽ đưa nước qua những vật  
liệu này.  
3. Lọc tia nhỏ. Đây là hệ thống khay là nơi trú ngụ cho vi khuẩn. Mỗi khay  
được khoan ở đáy khay và nước được bơm đến đỉnh của hệ thống tạo thành tia  
qua các khay và trở về bể nuôi sau khi phân hủy những chất cặn bã trong hệ  
thống nuôi.  
4. Hệ thống lọc sinh học. Hệ thống này gồm hàng loạt bể chứa các vật liệu  
khác nhau. Đầu tiên nước được lọc qua vải lọc, rồi san hô, cát to, cát mịn và  
được bơm trở lại bể nuôi. Nồng độ tổng đạm cao nhất cho phép trong nước nuôi  
cá là 1ppm. Có thể lọc nước bằng cách cho 1g Citric acid crystal vào 0,57 lít  
nướ c và kế đó cho 1ml dung dịch này vào 1 gallon (1 gallon = 4.5 Lít) nước  
nuôi và sau đó lọc bằng máy lọc. Lập đi lập lại vài lần theo công thức sau: Dài x  
Rộng x Cao x 0.645.  
5. Sục khí. Sục khí là quá trình bơm không khí hòa tan vào nước để tăng  
hàm lượng oxy. Hiện nay người nuôi cá cảnh thường sử dụng máy sục khí của  
Trung Quốc, Đài Loan cho cá bể kính nuôi cá cảnh. Còn với các hệ thống bể xi  
măng lớn phải sử dụng máy thổi lớn hơn.  
2.4. Thực vật thủy sinh trong nuôi cá cảnh  
11  
Để cân bằng sinh thái giữ a động vật và môi trường sống trong bể kính, các  
loài cây cỏ sống trong nước hay còn gọi là thực vật thủy sinh thường được trồng  
trong bể.  
1. Chọn cây trồng.  
Việc chọn cây trồng trong bể kiếng để tạo ra cảnh trí đẹp lại đảm bảo sự đa  
dạng và cân bằng sinh thái trong bể là rất cần thiết theo các yêu cầu sau:  
- Thực vật thủy sinh trong bể nuôi cá làm cho nó đẹp và tạo môi trường  
giống như trong thiên nhiên.  
- Một số loài làm thức ăn cho cá.  
- Những phần thối rữa làm thức ăn cho động vật không xương sống, rồi  
đến các loài này làm thức ăn cho cá.  
- Thực vật thủy sinh giữ vai trò quan trọng trong việc làm sạch bể kiếng,  
sự phát triển bình thường của chúng chứng tỏ môi trường nuôi trong bể kiếng  
tốt.  
- Thực vật thủy sinh là nơi cư trú, che bóng và là chổ ẩn nấp cho cá nhỏ  
khi bị cá lớn tấn công.  
- Một số khác làm giá thể cho trứng bám khi cá đẻ.  
Theo Võ Văn Chi (1993) phần lớn các loài cây sử dụng trong bể kiếng  
được chia làm 3 loại: cây có rễ, cây trôi nổi và cây cho cành giâm.  
* Cây có rễ. Có những cây cao sinh trưởng nhanh tương tự như các cây  
thảo khác ví dụ như rong mái chèo Vallisneria, rau mác Sagittaria là những loại  
cây rất lý tưởng để trồng che phía sau và các góc của bể. Còn các loại cây rậm rạp  
dùng để trồng đầy các góc như rau dừa Ludwigia, đình lịch Hygrophila, rau cần  
trôi Ceratopteris. Các loại cây này hoàn toàn sống trong nước ngập nên có xu  
hướng nhân giống bằng hình thức dinh dưỡng, tạo ra những thân bò từ đó phát  
triển thành cây mới.  
* Cây mọc nổi. Các loài cây này có vai trò có ích trong hồ nuôi cá. Có thể  
dùng chúng để trang trí, tạo bóng mát cho cá, làm nơi trú ẩn cho cá con trú ẩn và  
là giá thể cho cá sinh sản. Những loài này thông thường là bèo hoa dâu Azolla,  
bèo tấm Lemna, bèo phấn Wolffia, bèo tai chuột Salvinia. Những loài có kích  
thước lớn hơn như bèo cái Pistia stratiotes, rau cần trôi Ceratopteris  
thalictroides, lục bình Eichhornia crassipes.  
* Cây tạo cành giâm. Ta cắt những ngọn cây của cây có rễ rồi đem trồng  
trong nền đất của bể. Tại chổ cắt, rễ cây sẽ được hình thành và phát triển thành  
cây mới. Các loài cây này bao gồm như lá ngò Cabomba, rau ngổ Limnophila,  
rong đuôi chó Ceratophyllum và rong xương cá Myriophyllum.  
12  
2. Trồng cây trong bể kính.  
Dựa vào đặc điểm sinh sản của các loài thực vật thủy sinh, ta có thể chọn  
nhiều cách nhân giống khác nhau:  
- Bằng hạt Sagittaria, Alisma, Ottelia.  
- Bằng chồi Sagittaria, Vallisneria.  
- Bằng cành giâm Cabomba, Myriophyllum.  
- Tách cây Alisma.  
- Bằng lá Ceratophyllum, Hygrophila.  
- Bằng chồi sinh sản Myriophyllum.  
Tùy theo loại cây mà chọn cách trồng cho thích hợp. Đá, sỏi và cát cần  
được rửa sạch trước khi cho vào b ể để tránh ô nhiễm nước trong hồ. Có thể  
dùng đất sét trộn lẫn với cát tạo thành lớp đất nền ở đáy hồ giúp cho cây dính  
vào.  
* Đối với những cây nổi, ta chỉ cần tách những nhánh nhỏ hay phần phân  
cắt của cây và thả lên mặt nước.  
* Đối với những cây cứng mọc thẳng không cần nước như Cryptocoryn,  
Sagittaria, dương xỉ hay những cây có hệ rễ phát triển như súng Nymphaca ta  
tiến hành như sau: gạt lớp đất trong chậu, đặt cây vào, phủ lớp đất lên trên để  
ngăn cho  
chúng không bị bật rễ và nổi lên. Cũng có thể buộc gốc cây vào đá rồi lấp  
sỏi cát lên để che gốc và hệ rễ.  
* Những cây trồng bén rễ từ thân thì chọn những thân gổ rồi buộc các cây  
vào xung quanh rồi đưa vào bể. Lưu ý là phải phải ngâm thân gổ trước khi  
trồng cây lên để tránh những chất nhựa từ thân gổ tiết ra gây độc cho cá.  
3. Dụng cụ trồng cây và chăm sóc cây  
Trồng cây trong bể kính thì phải sử dụng đất và phân đặc biệt. S ự cân  
bằng tất cá các yếu tố trong bể nuôi thì quan trọng hơn thực vật, các bể kính đủ  
ánh sáng để cây sinh trưởng và duy trì sự quang hợp.  
Thông thường phân u- rê và NPK được sử dụng trong cây trồng trong bể  
kiếng. Tuy nhiên, không nhất thiết phải sử dụng phân này cho thực vật thủy sinh  
như là cây trồng trong chậu. Bởi vì còn những thức ăn dư thừ a hay phân cá  
phân hủy làm nguồn dinh dưỡng cung cấp cho cây. Cây trồng trong bể không  
thể thiếu sắt vì nó là thành phần cơ bản tạo thành Chlorophyl.  
13  
Cây cỏ sẽ khó phát triển nếu không có những điều kiện phù h ợp. Trong  
điều kiện tốt cây phát triển nhanh và nhô lên khỏi mặt nước hay lá cây nổ i lên  
mặt nước. Nếu đám rong này phát triển quá mạnh, phát tán và chi nhiều cụm, có  
xu hướng chiếm nhiều diện tích và khoảng không gian trong bể kiếng thì nên  
tách hay lấy bớt ra. Nếu lá trở nên úa vàng thì có thể dùng kéo cắt sát gốc để cây  
đâm chồi mới.  
Các dụng cụ chuyên dùng: chậu, kéo cắt cây, dao, thìa. Ngoài ra, cát, đá  
sỏi, đất và phân bón là những vật liệu rất cần thiết để trồng cây.  
14  
Bài 2: Sdng thức ăn cho cá cảnh  
Trong thiên nhiên, cá sống trong nước được sinh trưởng bình thường nhờ  
có nguồ n thức ăn tự nhiên phong phú về chủng loại và về số lượng như: phiêu  
sinh vật, giun ốc, côn trùng, ếch nhái, rong, tảo, thực vật thủy sinh...  
Trong bể nuôi không có thức ăn tự nhiên nên cần cung cấp thức ăn từ bên  
ngoài như: trứng nước, cung quăng, Artemia, trùn chỉ, rong, tép, thịt bò, gan  
heo, cá mồi, các loại thức ăn viên.  
1. Sử dụng thức ăn tự nhiên  
1.1 Sử dụng thức ăn tự nhiênBrachionus plicatilis.  
Các giống loài luân trùng thường gặp là Brachionus, Karatella ... Tỉ lệ  
trứng nở và mật độ trùng bánh xe B. plicatilis phụ thuộc vào các yếu tố môi  
trường (nồng độ muối) và thức ăn. Nồng độ muối thích hợp nhất cho loài này ở  
25o/oo trong dung dịch Na2SO4 và NaCl. Tỉ lệ tảo biển Chlorella và men tốt nhất  
là 1:2 với mật độ thức ăn là 100 µg/ml.  
Hệ thống nuôi liên tục. Hệ thống nuôi bao gồm bể chính 1100 lít và bể nuôi  
phụ 200 lít. Mật độ thả ban đầu là 150 cá thể/lít, sau đó mật độ tăng dần tới cực  
đỉnh và chuy ển sang giảm dần. Thời gian một chu kỳ 27 ngày. Thức ăn cho  
trùng bánh xe là men bánh mì khô. Lượng men cho ăn hàng ngày tùy thuộc vào  
số lượng trùng bánh xe, chẳng hạn như 1 gam cho 106 cá thể. Như vậy trong bể  
nuôi cần cung cấp 340g. Lượng men cung cấp hàng ngày giới hạn 22% thể tích  
nước nuôi cung cấp cho bể và bơm liên tục trong 20 giờ. Mật độ trung bình  
trong bể là 800 cá thể/ml và cực đại là 1100 cá thể/ml. T ổng lượng thu hoạch  
9
trong 42 ngày là 8.16 x 10 cá thể và hàng ngày 1.95 x 108. Tổng lượng men  
cho 42 ngày là 32.8kg. Theo ước tính cứ 1g men cho 0.74g trùng bánh xe khô  
(trọng lượng 3.0 x 10-6 g/ cá thể).  
Hệ thống nuôi ngoài trời. Hệ th ng được thiết kế 3 bể 10 tấn, 2 bể 20 tấn và  
cho ăn tảo Chlorella. Mật độ ban đầu cho mỗi b ể từ 10-30 ct/l. Men bánh mì  
được cung cấp vào bể với tảo tỉ lệ là 3 lít/tấn. Mật độ 90 ct/l và lượng cung cấp  
là 500 x 106 ct/ngày. Nhiệt độ duy trì 25-28oC.  
Hệ thống nuôi mẻ. Hệ thống nuôi có 6 bể với dung tích 0.5 tấn/ bể được  
cho ăn nước tảo Chlorella và men bánh mì. Mật độ không cố định, nhưng sinh  
khối cung cấp hàng ngày là 52.5 x 106 cá thể.  
1.2 Trứng nước (Moi na).  
Trứng nước còn gọi là bọ đỏ, bo bo hay Moina thuộc nhóm giáp xác râu  
ngành (Cladocera). Lẫn trong nước thường có các giống khác như: Daphnia.  
Moina chủ yếu phân bố ở nước ngọt thường tập trung thành đám dày đặc màu  
15  
đỏ vào buổi sáng sớm trong các ao hồ, vùng nước, của cống rãnh có nhiều chất  
hữu cơ.  
Trứng nước có lối sinh sản đặc biệt là trinh sản hay sinh sản đơn tính nghĩa  
là con cái có thể sinh ra những thế hệ con hoàn toàn cái trong điều kiện thuận lợi  
về thức ăn, nhiệt độ và mật độ. Ngược lại, trong điều kiện sống không thích hợp,  
có sự xuất hiện của con đực và sinh sản hữu tính cho ra trứng ở trạng thái tiềm  
sinh giúp chúng qua được điều kiện khắc nghiệt của môi trường. Trứng nước có  
khả năng sinh sản nhanh, chẳng hạn như Moina micrura, con cái mới nở sau 48-  
60 giờ sinh sản lần I và 25-30 giờ sinh sản lần II. Số con mỗi lần sinh sản trung  
bình 15-20 con.  
Thức ăn của chúng chủ yếu những loài tảo đơn bào, các loại nấm men và vi  
khuẩn.  
Cách nuôi trứng nước: 18.9g phân ngựa phơi khô, 100g đất, nước ao 1 lít.  
Cho 3 thành phần này vào lọ chứa để trong mát, sau 4 ngày lọc lấy phần nước và  
bỏ phần bã. Dung dịch pha loãng với 4 phần nước trong ao sau đó để nuôi.  
Khi nuôi trong ao đất, cần ao 50-100m2, sâu khoảng 0.3-0.5m, sau đó bón  
phân chuồng vào.  
1.3 Artemia  
o
Artemia thuộc nhóm giáp xác thấp thích nghi ở độ mặn cao 10o/o -20 /oo.  
Artemia ngành Arthropoda, lớp Crustacea, bộ Anostraca. Giá trị dinh dưỡng  
Artemia rất cao, 52% protein và 27% chất béo cho nên nó là thức ăn tốt cho các  
loài tôm cá đặc biệt ở giai đoạn sau khi nở . Nó là loài ăn lọc, các tơ lọ c của  
chúng lọc ngẫu nhiên các loại vật chất hữu cơ lơ lử ng trong nước miễn là có  
kích thước v ừa cở miệng của chúng. Trứng Artemia nở trong nước biển 5-  
35o/oo. Thông thường 1 g Artemia có 180.000 trứng.  
1.4 Trùn chỉ  
Trùn chỉ (Turbifex) thường sống ở nơi nước nhiễm bẩn, cống rãnh. Chúng  
vùi đầu trong bùn và rút xuống đất nhanh khi có động. Để vớt được trùn chỉ,  
người ta dùng vợt hốt luôn bùn có lẫn trùn, rồi sau đó dùng lưới nilon đãi lại cho  
đến khi chỉ còn một khối trùn.  
Trùn chỉ làm nguồn thức ăn cho cá bột 4-5 ngày tuổi trở đi.  
1.5 Ấu trùng muối đỏ  
Trùng muỗi đỏ là ấu trùng côn trùng không cánh (đốt) thuộc họ  
Chironomidae (Bộ Diptera, Lớp Insecta). Ở Singapore hơn 50 loài thuộc nhóm  
được ghi nhận. Không phải hầu hết ấu trùng Chironomid đều đỏ. Những dạng bề  
mặt màu xanh, số khác màu trắng và chỉ những nơi chứa Haemoglobin là màu  
16  
đỏ và tuy nhiên tên của nó vẫn gọi là trùng muỗi đỏ. Ấu trùng và thành trùng  
muỗi đỏ có dinh dưỡng cao, bổ và là một trong những cấu thành thức ăn chủ yếu  
cho nhiều loài cá trong điều kiện tự nhiên. Tầm quan trọng của ấu trùng muỗi đỏ  
như là thức ăn tươ i sống cho nghề nuôi cá cảnh được nuôi ở nhiều quốc gia ở  
Đông Nam Á. Tất cả nhóm cá dữ như tai tượng beo, cá đĩa, cá lia thia và nhóm  
cá rô rất thích thú khi ăn ấu trùng này và cá lớn nhanh hơn và sinh sản sớm hơn.  
Chúng được đề cập tới qua các tài liệu chứng minh chúng là nguồn cung cấp đầy  
đủ dưỡng chất cho sinh trưởng của cá. Chẳng hạn ở cá chép có ăn thức ăn bổ  
sung là trùng muỗi đỏ thì chúng tăng trưởng tốt hơn về trọng lượng, tỉ lệ tăng  
trưởng và đồng đều hơn. Trùng muỗi đỏ có thể đạt được tăng trưởng hiệu quả ở  
cá giống Mugil carpio  
Việc cung cấp ấu trùng muỗi đỏ cho các nhà nuôi cá địa phương củ a  
Singapore thường nhập chính y ếu từ những nước láng giềng và một ph ần do  
sản xuất trong nước. Môi trường sinh sản tự nhiên cho muỗi đỏ b ị giới hạn do  
sự đô thị hóa và hiện đại hóa củ a đất nước. Hơn nữa việc cung cấp trùng muỗi  
đỏ luôn bị động không đáng tin cậy và theo mùa vì ấu trùng phát triển thất  
thường nhất là vào mùa mưa.  
Trong thời gian qua, cách đ ây khoảng nửa th ế kỷ những cố gắng sinh sản  
nhân tạo trùng muỗi đỏ trong điều kiện thí nghiệm được thực hiện ở nhiều nước.  
Điều khó kh ăn nhất là khả năng kích thích sinh sản và thành thục của côn trùng  
hai cánh muỗi đỏ trong điều kiện nuôi.  
1.5.1. Sinh học và vòng đời.  
Vòng đời trùng muỗi đỏ được chia thành 4 giai đoạn: trứng, ấu trùng, thành  
trùng và côn trùng trưởng thành. Chúng được đẻ ra trong một khối như một chất  
nhầy trong suốt. Mỗi khố i chứa khoảng 50-70 trứng. Trong điều kiện nhiệt đới,  
thời gian ấp trứng khoảng 24 -48 giờ. Ấu trùng mới nở thì không vượt quá 1mm  
chiều dài nhưng vào giai đoạn cuối đo đượ c 10-15mm. Mỗi ấu trùng lộ t xác 4  
lần trước khi chuyển sang giai đoạn thành trùng. Sau 2 ngày hoặc hơn chúng lên  
mặt nước và lột xác để biến thành dạng trưởng thành. Chúng rất mềm mại và  
chân dài bay không quá 5mm và hiếm khi hơn 10mm chiều dài. Chúng số ng 3-  
5 ngày và thành thục và đẻ trứ ng trong thời kỳ này. Con trưởng thành chiếm số  
lượng lớn trong vùng lân cận của ao, hồ và suối bởi vì trứng được đẻ ra trong  
nước và các giai đoạn ấu trùng cũng trong nước.  
1.5.2. Giá trị dinh dưỡng.  
Giá trị dinh dưỡng của trùng muỗi đỏ rất tốt. Phân tích hóa họ c chỉ ra rằng  
chúng chứa 9.3% vật chất khô, trong đó 62,5% protein thô, 10,4% béo thô,  
11,6% tro và 15,6% carbohydrate. Chúng cũng là nguồn cung cấp sắt cho cá bởi  
vì chúng chứa Haemoglobin như động vật có xương sống.  
17  
1.5.3. Thu vớt trùng muỗi đỏ từ những thủy vực tự nhiên.  
Ấu trùng côn trùng muỗi đỏ có thể tìm thấy ở hầu hết các thủy vực với đáy  
bùn. Chúng được tìm thấy với số lượng lớn trong các mương nước chảy từ các  
nhà máy bia, rượu, tinh chế đường và những thủy vực nước bẩn. Ấu trùng rờ i  
khỏi ống bao phủ thân, chỉ vào ban đêm khi hàm lượng oxy hòa tan trong nước  
thấp và thời điểm này là thời gian tốt nhất để bắt chúng với số lượng lớn. Chúng  
sẽ dễ dàng bị đánh bắt bằng lưới nilon.  
Trùng muỗi đỏ dễ dàng bị vớt bằng lưới sàng trên lớp bùn đáy ao. Ấu trùng  
và các vật liệu cát sẽ ở lại trong sàng và đặt sàng qua lại trong thao đầy nước,  
sau đó trùng sẽ bơi lên trên mặt nước và chúng dễ dàng bị vớt ra ngoài.  
Phương pháp nuôi.  
Ở Hongkong, nuôi trùng muỗi đỏ sinh trưởng bằng cách bón phân gà, sản  
lượng 28g/m2/tuần nó thì thấp hơn nếu so sánh với sản lượng 250-375g/m2/tuần  
nuôi bằng phân gà trong khay đặt trong nhà kính và sục khí. Phân ngựa cũng  
được dùng bón cho hố nuôi trùng muỗi đỏ nhưng sản lượng tốt nhất là  
11g/m2/tuần.  
Để sản xuất lượng lớn trùng muỗi đỏ chi phí sẽ phải được cân nhắc lại.  
Những sản phẩm từ những nhà máy chế biến thì rất thích hợp để nuôi ấu trùng.  
Một số thí nghiệm nuôi trùng muỗi đỏ dùng các sản phẩm thải như bột mì, cám,  
bột đậu nành, phế phẩm của dừa.  
Bất kì kích cỡ bể và vật liệu đều được dùng nuôi trùng muỗi đỏ. Sục khí  
trong bể nuôi làm gia tăng oxy hòa tan góp phần cho sự phân hủy các vật liệu  
thức ăn và hô hấp của trùng. Sục khí liên tục góp phần làm giảm tỉ lệ chết của  
trùng. Mức nước trong để thì không nhiều lắm, thông thường khoảng 20cm.  
Trong quá trình nuôi rất cần thiết dùng lưới nilon phủ lên trên để đề phòng muỗi  
thường đến và đẻ trứng vào bể. Tốt nhất nên cấp nước vào bể một ngày trước  
khi chuyển trứ ng vào bể để làm giảm lượng chlorine trong nước. Lượng thức ăn  
cho vào bể tùy từng thời điểm tùy thuộc vào kích thước bể và mật độ quần thể  
muỗi. Cho quá nhiều thức ăn vào bể sẽ làm mất chất dinh dưỡ ng do sự phân  
hủy. Thường 3 g thức ăn đủ cho 1000 trứng trong bể. Thức ăn sẽ làm chất nền  
tốt cho sự phân bố và dễ dàng tiêu hóa thức ăn cho ấu trùng mới nở. Trộn thức  
ăn sau khi chúng cho vào làm các vật thể thức ăn rãi đều trên nền đáy bể.  
Sản lượng tốt nhất trong bể chứa 3000-4000 trứng. Cùng lượng thức ăn nên  
cho vào lần nữa trong ngày thứ sáu hay thứ bảy và lần thứ ba cho ngày thứ chín  
hay thứ mười. Thu hoạch vào ngày thứ 12-14 khi giai đo ạn thành trùng bắt đầu  
xuất hiện. Ấu trùng thu hoạch có thể cho vào các túi nhựa và để tránh chúng lột  
xác thành thành trùng và làm giảm sự tiêu thụ oxy, chúng có thể tạm thời trữ  
18  
vào trong tủ lạnh (5-10oC) khoảng một ngày mà không ảnh hưởng đến tỉ lệ sống.  
Tỉ lệ sống sẽ tốt hơn khi cho vào túi nhựa oxy với tỉ lệ phân nữa.  
Để sản xuất liên tục nuôi trữ phải được duy trì chính vì thế cần có sự cung  
cấp liên tục trứng trong sinh sản nhân tạo. Trại nuôi có ít nhất 4-6 bể, những bể  
này cũng được quản lí như các bể nuôi. Khoảng 4-6 tuần mẻ nuôi mới lại bắt  
đầu. Bể củ thì không thích hợp cho muỗi vào để đẻ. Để bắt đầu một mẻ nuôi  
mới có thể thu trứng từ những bê củ trộn lẫn lại với nhau trước khi vớt chúng ra  
ngẫu nhiên và đưa vào bể trữ mới nhằm chóng lại hoặc giảm sinh sản cận huyết.  
Lai cận huyết nghĩa là sinh sản giữa anh và chem trong cùng thế hệ làm cho  
việc nuôi giảm nhanh chóng và sức sinh sản giảm theo. Vì vậy trộn trứng là quá  
trình quan trọng để duy trì sức sản xuất tốt cho bể nuôi.  
1.6 Sâu gạo  
Sâu gạo là ấu trùng của gạo cánh cứng (Tenebrio molitor T.ocurus) là  
thức ăn tốt cho nhiều loài động vật khác nhau như chim, thằn lằn, rùa, ếch, động  
vật nhỏ và cá. Chim cảnh dùng thức ăn này trong nhiều năm qua. Đặc biệt trong  
mỗi lần sinh sản, Tenebrio molitor đẻ rất nhiều trứng, ấu trùng thường bán cho  
những cửa hàng vật cảnh dùng cho nh ững động vật ăn côn trùng và rộng hơn  
dùng trong phòng thí nghiệm. Một vài nhóm cá rô phi, cá mè, cá kiếm, cá họ  
tetra rất thích loại thức ăn này và nhất là ấu trùng lột xác.  
1.6.1- Sinh học và vòng đời  
Có 2 loài sâu gạo, sâu gạo màu vàng (Tenebrio molitor) và sâu gạo màu  
đen (Tenebrio molitor). Cả 2 loại này rất giống nhau và đều thuộc họ  
Tenebrionidae. Những giai đoạn khác nhau của 2 loài cánh cứng này tập trung  
vào hình dạng, kích thước và màu sắc. Con trưởng thành của sâu gạo đen thì đen  
đậm trái với màu sáng xám hay đen lợt ở sâu gạo vàng. Đốt thứ ba của râu con  
sâu gạo vàng trưởng thành thì ngắn hơn đốt một và hai và đen hơn, trong khi đó  
con đen thì các đốt này điều nhau. Nhữ ng miếng lưng của con sâu gạo vàng có  
màu xám vàng còn sâu gạo đen có màu xám đỏ hoặc xám đen. Đốt râu thứ hai  
của sâu gạo vàng dài gấp ba lần chiều rộng thân của nó, trong khi đó ở sâu gạo  
đen dài gấp bốn lần.  
Sâu gạo là một trong những côn trùng (giai đoạn thành trùng) lớn nhất tấn  
công các kho chứa hàng nhưng chúng không nguy hiểm lắm. Một vài người xem  
loài sâu gạo này như là vật cưng (Pet), thật vậy họ nuôi chúng trong bể kính và  
chăm sóc chúng như các con vật thân thuộc. Chúng có thể nuôi rất tiện lợi trong  
cám và bột yến mạch.  
Vòng đời sâu gạo vàng được chia làm bốn giai đoạn như sau: Trứ ng, ấu  
trùng, nhộng và trưởng thành. Vòng đời sẽ kết thúc khoảng 3 -4 tháng. Trứng có  
19  
dạng hạt đậu và đẻ thành từng hàng hay nhóm. Kích thước khoảng 1.8-1.9mm.  
Trứng được bao lại trong một lớp chất bã dính vào các vật thể như các mãnh  
thức ăn và phân thường dính lại. Trứng sẽ biến thái thành ấu trùng khoảng 7  
ngày ở nhiệt độ 28oC và sau đó ấu trùng khoét một lổ chui ra ngoài.  
Ấu trùng mới nở từ trứng dài khoảng 3mm và nặng 0,6mg. Ấu trùng có  
màu trắng. Sau đó nó xuất hiện màu một cách chậm chạp và có màu xám vàng  
nhạt. Ấu trùng sâu gạo vàng phải lột xác trung bình khoảng 15 lần để trở thành  
trùng. Ở nhiệt độ phòng ấu trùng phát triển đầy đủ và thành thục kho ảng từ 3-  
3,5 tháng. Vào thời điểm này chúng dài 28-32mm và nặng 130-160mg. Mặc dù  
ấu trùng phát triển đầy đủ ở thời điểm này nhưng không phải tất cả chúng sẳn  
sàng biến đổi thành trùng. Một thay đổ i thành trùng khoảng 4 hoặc 5 tháng sau  
nở và lột xác hơn 20 lần  
Ấu trùng có dạng trụ tròn. Đầu thì nhỏ và nó mang đôi hàm nhai rất khỏe  
như một đôi râu ngắn. Đốt ngực thứ nhất thường dài và đen hơn hai đốt kế tiếp.  
Phần b ụng thì dài gồm 9 đốt. Đốt ngực cuối cùng thì nhỏ và có dạng hình nón.  
Nó mang 1 cặp móc nhỏ. Trên mặt bụng của các đốt bụng giữa đốt thứ 8 và thứ  
9 mang lổ hậu môn.  
Thành trùng thì không hoạt động. Chúng không ăn hay chuyển động. Đầu  
của thành trùng cong về mặt dưới bụng nên nó không thể thấy phần lưng. Thành  
trùng của sâu gạo không mang kén, hầu hết các đặc điểm của con đực có thấy  
xuyên qua lớp da của chúng. Phần đầu có râu và miệng. Mắt lúc đầu rất khó  
thấy sau đó mắt có màu và dễ nhận ra ở cạnh phần đầu như là hai thanh màu nâu  
sáng. Thành trùng đầu tiên có màu rất tái nhưng sau một thời gian trở nên vàng  
đậm. Giai đoạn cuối của thành trùng kết thúc vào ngày thứ bảy ở nhiệt độ phòng  
bình thường.  
Khi con trưởng thành ở giai đoạn đầu tiên, đầu và đốt đầu tiên của phần  
đầu có màu xám nhưng những cánh bao phủ hoàn toàn phần bụ ng có màu trắng.  
Kế tiếp chúng trở nên màu xám đỏ và sau đó toàn bộ cơ thể có màu xám đậm.  
Con đực và con cái gần như giống nhau nhưng có thể nhận ra con đực nhờ nhấn  
phần b ụng của chúng qua kính hiển vi giải phẩu. Con đực có một gai cứng sẽ  
lồi ra khi nhấn vào phần cuối bụng. Cá thể trưởng thành thường sống 2 hoặc 3  
năm và sau đó thì chết. Con cái có thể đẻ trung bình 280 trứng trong đời sống  
của nó  
1.6.2 Giá trị dinh dưỡng của sâu gạo  
Giá trị dinh dưỡng của sâu gạo rất tốt. Những sâu này có thể được sử dụng  
làm thức ăn cho động vật trong bể kính và các vườn quốc gia và chúng cũng là  
20  
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 77 trang baolam 04/05/2022 5581
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Sản xuất giống và nuôi cá cảnh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_san_xuat_giong_va_nuoi_ca_canh.pdf